Phần 4. CÁC THÁNH VÀ TỘI NHÂN
16
Tại sao chúng tôi TIN BẤT CHẤP GƯƠNG XẤU
Ngay sau khi trở thành người Công giáo, tôi đã đến dự một bữa tiệc
với một số bạn không tôn giáo đang xem tin tức về vụ bê bối lạm dụng tình dục của
giáo sĩ. Dường như trong một vài giáo phận lớn, các linh mục bị cáo buộc phạm tội
lạm dụng trẻ em chẳng những không bị báo cho cảnh sát; mà lại còn được chuyển đến
một giáo xứ (hay giáo điểm) khác, có thể gây nguy hiểm cho vô số trẻ em.
Khi tôi bước vào phòng, một
trong những người bạn quay về tôi, nhếch mép cười và nói, “Chúc mừng Trent đã vớ
được một tôn giáo mới.”
NHÌN GƯƠNG XẤU THEO LUẬT PHỐI CẢNH
Cứ như là bị đấm vào bụng khi một việc hay một người được bạn
quan tâm đến lại mắc phải xì căng đan. Thậm chí bạn có thể bị cám dỗ cắt đứt mọi
liên hệ với một nhóm hoặc một người mắc tai tiếng để cố gắng làm lại từ đầu;
nhưng đúng như Thánh Augustinô đã nói, “Giáo hội không phải là một khách sạn
cho các vị thánh, mà là một bệnh viện cho các tội nhân.” Vấn đề không ở chỗ bệnh
nhân, hay thậm chí là nhân viên bệnh viện có phải là tội nhân hay không; nhưng vấn
đề là liệu bệnh viện (hay Giáo hội) có thuốc chữa được tội lỗi đã lây
nhiễm cho mọi người hay không. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày như sau:
Vì
thế mà Hội Thánh thì “thánh thiện, dù mang trong lòng mình những con người tội
lỗi; bởi vì Hội Thánh không có sự sống nào khác ngoài sự sống của ân sủng; quả
thật, nếu các chi thể của Hội Thánh được nuôi dưỡng bằng sự sống này, thì họ được
thánh hoá, nếu họ tách mình khỏi sự sống này, thì họ rơi vào tội lỗi và sự rối
loạn của tâm hồn, những điều đó ngăn cản không cho sự thánh thiện rạng ngời của
Hội Thánh được lan toả.[1]
Chuyện các giáo sĩ bê bối lạm
dụng tính dục đâu có chứng tỏ là không có Thiên Chúa hay Giáo hội Công giáo
không phải là do Chúa Kitô thành lập. Nếu ta dựa vào đó mà cho là không có
Thiên Chúa thì việc ta nổi dậy chống lại sự lạm dụng trẻ em cho thấy một số
hành vi luôn bị coi là sai trái. Vì luật luân lý phổ quát phải đến từ một đấng
ban luật luân lý phổ quát, hay là Thiên Chúa; điều này cho thấy chuyện giáo sĩ
bê bối lạm dụng tính dục lại đẩy người ta ra khỏi thuyết vô thần chứ không phải
là đẩy về đó.
Chuyện bê bối cũng không biện
minh cho việc bỏ đạo Công giáo để theo đạo Tin lành, vì lạm dụng tình dục không
phải là vấn đề của riêng “Công giáo." Theo John Jay, trường Cao đẳng Tư
pháp Hình sự, khoảng 4 phần trăm linh mục phục vụ từ năm 1950 và 2002 đã bị buộc
tội lạm dụng tình dục (lưu ý rằng các cáo buộc không có nghĩa là tội phạm đã được
thực hiện).[2]
Phí bảo hiểm của công ty đề nghị thừa nhận rằng tỷ lệ lạm dụng cũng tương tự
như trong các giáo phái Tin lành. Theo một phát ngôn viên của ngành bảo hiểm,
“Kinh nghiệm yêu cầu bồi thường của chúng tôi cho thấy điều này xảy ra đồng đều
giữa các giáo phái.”[3]
Nói thế không phải để bào chữa
cho các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội, nhưng nó thực sự giúp chúng ta ứng
phó với các sự cố đó. Cũng như chúng ta sẽ không nói rằng các trường công lập
“đầy giáo viên ấu dâm”, chúng ta chớ nên phỉ báng hay từ bỏ Giáo hội vì hành vi
tội lỗi của một thiểu số nhỏ các giáo sĩ.
CÓ PHẢI LẠM DỤNG TÍNH DỤC LÀ
VẤN ĐỀ CỦA RIÊNG CÔNG GIÁO HAY KHÔNG?
Ernie
Allen, giám đốc Trung tâm quốc gia về trẻ em mất tích và bị bóc lột, trong một
cuộc phỏng vấn với tạp chí News-week, có cho biết, “Chúng tôi không thấy Giáo hội
Công giáo là điểm nóng về điều này hay là một nơi có vấn đề lớn hơn các nơi
khác. Tôi có thể nói với bạn mà không do dự rằng chúng tôi đã thấy chuyện đó
trong nhiều môi trường tôn giáo, từ các nhà truyền giáo lưu động đến các mục sư
chính thống, đến các giáo sĩ Do Thái và nhiều người khác.”[4]
NẮM BẮT SỰ VIỆC CHO ĐÚNG
Hầu hết các cáo buộc lạm dụng tình dục trong hàng linh mục đến từ
các vụ việc xảy ra giữa năm 1950 và 1980. Vào thời đó, người ta cho rằng sự
thôi thúc phạm tội lạm dụng tình dục có thể được điều trị bằng liệu pháp, và do
đó không nhất thiết phải đưa ra cơ quan thực thi pháp luật. Theo Tiến sĩ Monica
Applewhite, người đã dành hơn 20 năm nghiên cứu về chuyện lạm dụng và cách ngăn
chặn nó, “Các biện pháp can thiệp để điều trị dành cho các tội phạm tình dục
[thay vì giam giữ] không chỉ hết sức thịnh hành ở Hoa Kỳ, mà những cuộc khảo
sát công dân bình thường còn cho thấy các biện pháp đó lại hết sức phổ biến.”[5]
Tuy nhiên, tâm lý học hiện đại
đã chỉ ra rằng có nhiều khả năng những kẻ phạm tội tình dục sẽ phạm tội nhiều
hơn trong tương lai. Đó là lý do tại sao Giáo hội Công giáo đã làm những việc cần
thiết để tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực báo cáo lạm
dụng tình dục. Giáo hội đã thành lập các văn phòng về môi trường an toàn và bảo
vệ trẻ em với việc đào tạo hàng triệu người trưởng thành có thể nhận ra các dấu
hiệu lạm dụng. Các giáo phận trên khắp thế giới đã thiết lập các chính sách
không khoan nhượng đòi hỏi báo cáo ngay lập tức và bắt buộc về hành vi lạm dụng
cho cơ quan thực thi pháp luật. Năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thành lập một
tòa án đặc biệt để trừng trị các giám mục đã hững hờ trong phản ứng đối với các
cáo buộc lạm dụng.[6]
Theo nhà báo David Gibson,
“Giáo hội Công giáo có thể là nơi an toàn nhất cho trẻ em. Bất kể thành tích
quá khứ của nó là gì, Giáo hội Công giáo ở Hoa Kỳ đã có những bước tiến vô song
trong việc giáo dục đàn chiên của họ về lạm dụng tình dục trẻ em và bảo đảm trẻ
em phải được an toàn trong môi trường Công giáo.”[7]
LỊCH SỬ ĐẦY GƯƠNG XẤU?
Chuyện bê bối giáo sĩ lạm dụng không phải là sự kiện bị hiểu lầm
duy nhất trong lịch sử Giáo hội. Hãy xét đến các cuộc Thập tự chinh, vốn không
phải là chuyện Giáo hội cố gắng cưỡng bức cải đạo dân chúng hay cướp đất của họ.
Theo Thomas Madden, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về chủ đề này,
“Các cuộc thập tự chinh ngày nay vẫn là một trong những sự kiện thường bị hiểu
lầm nhiều nhất trong lịch sử phương Tây.”[8]
Thay vì muốn giàu có và
chinh phục, quân Thập tự chinh đã liều mất mạng sống và chi thể mình để giải cứu
các Kitô hữu mà đất đai và nhà cửa đã bị tàn phá bởi quân xâm lược Hồi giáo.
Ngay cả khách hành hương Kitô giáo đến thăm vùng này cũng liều mạng sống để thờ
phượng trong Đất Thánh. Ví như, ba mươi năm trước cuộc Thập tự chinh đầu tiên,
một nhóm 7.000 người Đức hành hương ôn hòa đã bị tàn sát dã man.[9] Sự kiện
này, cùng với các sự kiện khác, đã khiến Giáo hoàng Urban II kêu gọi cuộc Thập
tự chinh đầu tiên. Trong một bài phát biểu vào năm 1095, ngài đã nói:
Hãy
cho những kẻ trước giờ là trộm cướp nay trở thành hiệp sĩ. Hãy cho những người
chống phá anh em và người thân của họ nay chiến đấu một cách chính đáng để chống
phá những kẻ man rợ. Hãy cho những người đã và đang phục vụ như những người
lính đánh thuê với mức lương thấp nay được nhận phần thưởng đời đời.[10]
Điều này không có nghĩa là
Thập tự quân luôn sống đức độ. Một số thập tự quân đã lợi dụng “sự hỗn loạn của
chiến tranh” và phạm những tội tàn bạo khôn xiết đối với dân thường và thậm chí
cả với các thập tự quân khác. Nhưng điều này không làm cho các cuộc Thập tự
chinh trở thành một cuộc chiến phi nghĩa hơn vụ ném bom lửa vào thành phố
Dresden, giết chết hàng ngàn cư dân Đức, và biến quân Đồng minh thành những kẻ
xâm lược bất chính trong đệ nhị Thế Chiến.
MỘT RABBI BẢO VỆ GIÁO HOÀNG
Một
huyền thoại lịch sử khác về Đức Giáo hoàng Piô XII của Giáo hội, ngài bị cáo buộc
đã phớt lờ hay thậm chí còn tích cực giúp đỡ Đức quốc xã. Tuy nhiên, khẳng định
đó ban đầu xuất phát từ một vở kịch tuyên truyền năm 1963 của Liên Xô mang tên
Đại Biểu. Theo Rabbi David Dalin, tác giả cuốn sách The Myth of Hitler’s Pope:
“Eugenio
Pacelli [sau này là giáo hoàng Piô XII] là một trong những người chỉ trích
Hitler sớm nhất và nhất quán nhất. Rồi... với tư cách là Quốc vụ khanh Vatican
và sau đó là giáo hoàng, trên thực tế là một người bạn của người Do Thái, đã có
công trong việc giải cứu và che chở cho rất nhiều người Do Thái thoát khỏi nanh
vuốt của Đức quốc xã.”[11]
Cuối cùng, khi chỉ tập trung
vào các vụ bê bối, mọi người quên rằng Giáo hội Công giáo đã là một lực lượng
cho điều thiện trên toàn thế giới. Giáo hội xây các trường đại học, các bệnh viện,
trại mồ côi và các nhà dành cho người hấp hối đầu tiên của thế giới phương Tây.
Các nhà truyền giáo của Giáo Hội rao giảng phúc âm ở các vùng đất xa xôi, nơi họ
phải chiến đấu với các tập tục man rợ như thiêu vợ, bó chân và tảo hôn. Vào thế
kỷ thứ tư, hoàng đế La Mã phàn nàn rằng các Kitô hữu “không chỉ chăm sóc cho
người nghèo của họ mà còn cho cả người nghèo của chúng ta, ai cũng thấy rằng
người dân của chúng ta thiếu sự giúp đỡ từ chúng ta.”[12]
Trong lịch sử y học của
mình, nhà sử học Roy Porter nói, “Kitô giáo đã thiết lập bệnh viện” và việc làm
đó được coi là một dấu hiệu của sự thánh thiện khi đặt mình vào nguy cơ bị nhiễm
trùng để chăm sóc người bệnh.[13] Di sản
này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay trong Giáo hội Công giáo, nhà cung cấp dịch
vụ chăm sóc sức khỏe phi chính phủ lớn nhất trên toàn thế giới.[14]
MỘT LINH MỤC ĐƯA NGƯỜI PHONG CÙI
ĐẾN VỚI CHÚA KITÔ
Trong
suốt lịch sử nhân loại, nhiều nạn nhân của bệnh phong (một căn bệnh gây tê chân
tay và tổn thương da) đã bị trục xuất đến “các trại phong."[15] Một trại
phong lớn đã có trên đảo Molokai ở Hawaii; từ năm 1873, có một linh mục là Cha
Damien tình nguyện làm linh mục đầu tiên của trại phong.
Trong
11 năm, Cha Damien đã làm những gì mà bao người phong yếu ớt không làm được:
ngài xây nhà, nhà thờ, và các tiện ích công cộng. Ngài chữa bệnh, chăm sóc trẻ
mồ côi và góa phụ, và cử hành các bí tích. Năm 1884, ngài mắc bệnh phong và 5
năm sau thì được an táng dưới gốc cây mà ngài đã ngủ giấc đầu tiên dưới cây đó
khi mới đến đảo.
Năm
2009, Giáo hội tuyên phong ngài là Thánh Damien đảo Molokai. Cuộc đời của ngài
có thể được tóm lại trong mấy lời ngài đã chia sẻ với anh trai của ngài: “Em
làm cho mình trở nên một người phong cùi với những người phong cùi để thu lượm
tất cả cho Chúa Giêsu Kitô.”[16]
ỨNG XỬ VỚI “SỰ BẤT LƯƠNG TÂM LINH”
Sau một bài thuyết trình trước công chúng của tôi, một phụ nữ đến
gặp tôi và hỏi: “Làm thế nào người Công giáo có thể có được một Giáo hội cho
đúng là Giáo hội khi mà các linh mục của họ có nhiều hành vi khủng khiếp đến thế?”
Tôi trả lời bằng một câu hỏi, "Chị có ý nói rằng tất cả các linh mục đều lạm
dụng trẻ em?"
“Ồ, tất nhiên là không,” cô
ta nhấn mạnh, “nhưng có quá nhiều linh mục đã làm như vậy.”
“Đối với chị, bao nhiêu phần
trăm là quá nhiều? Đối với riêng tôi thì một cũng là quá nhiều, nhưng điều đó
có chứng minh rằng đức tin Công giáo là không đúng không?
Cô ấy hỏi: “Nếu họ thực sự
là người của Thiên Chúa trong Giáo hội của Đức Kitô, thì làm sao họ có thể làm
điều đó?”
Tôi trả lời: “Cho tôi hỏi chị,
ma quỷ có ghét Giáo Hội của Đức Kitô không?”
"Ghét, trăm phần
trăm!"
“Vậy thì trong hết mọi tín hữu
của Giáo hội, nó sẽ tấn công ai nhiều nhất?”
Cô ấy suy nghĩ một lúc rồi
nói, “Các linh mục!”
Đó là lý do tại sao chúng ta
phải cầu nguyện cho các linh mục cũng như cho nhiều người khác đang chiến đấu
chống lại tội lỗi và tuyệt vọng trong thế giới của chúng ta. Điều này không có
nghĩa là chúng ta phải bào chữa hay bỏ qua cho bao tội lỗi mà bất kỳ một người
Công giáo nào cũng có thể phạm phải, kể cả khi người đó là một linh mục. Nếu bạn
hay người bạn yêu có bị tổn thương bởi một tín hữu Công giáo, hãy biết là tôi rất
tiếc về các điều ấy. Người chịu trách nhiệm về các tội ác này, bất kể họ là ai,
đều phải đưa ra công lý; cho dù có là giáo hoàng phạm tội lạm dụng một đứa trẻ,
tôi phải thật lòng nói rằng ngài cần phải bị cầm tù; cũng như một nạn nhân bị lạm
dụng không nên bị kết tội vì tội ác phạm đến người ấy, Giáo hội nói chung không
nên bị kết án vì những tội ác của các linh mục hoặc những người Công giáo vi phạm
giáo huấn của Giáo hội.
Rời bỏ Giáo hội vì một linh
mục hay một giáo dân phạm tội trọng thì cũng như quyết định bỏ một bệnh viện vì
sự sơ suất của một bác sĩ. Việc bác sĩ đó đã làm là sai, nhưng điều đó không
thay đổi được sự thật rằng bệnh viện vẫn là nơi tốt nhất bạn cần đến khi mắc bệnh.
Cũng thế, Chúa Kitô đã ban cho Giáo hội của Người bao phương thuốc để giải
thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì vậy chúng ta sẽ chẳng được lợi gì nếu từ chối
phương thuốc đó vì một số người Công giáo sa vào gương xấu đã từ chối dùng nó.
LÝ DO CHO NIỀM TIN CỦA CHÚNG TÔI:
SỰ VƯỢT QUA GƯƠNG XẤU
* Chúa Giêsu không bao giờ hứa rằng Giáo hội của Ngài sẽ không
có tội nhân, mà chỉ hứa rằng Giáo hội sẽ cung cấp các phương thế để cứu giúp
cho tội nhân.
* Một số cáo buộc cụ thể về các vụ bê bối dựa trên mấy lời nói dối
hay mấy lời xuyên tạc về lịch sử Giáo hội.
* Không được bỏ qua gương xấu nhưng cũng không được lấy đó làm
lý do để lìa bỏ Giáo hội, vì tội lỗi của một số ít không bác bỏ sự thật về những
gì mà toàn thể Giáo hội giảng dạy.
Tại sao chúng tôi theo
đạo Công Giáo
[1] Thánh
Giáo Hoàng Phaolô VI, Solemni Hac Liturgia, 19. Được trích dẫn trong GLCG 827.
[2] “Bản chất và phạm vi lạm dụng
tình dục trẻ vị thành niên của các linh mục và phó tế Công giáo ở Hoa Kỳ
1950-2002,” nghiên cứu được thực hiện bởi John Jay, trường College of Criminal
Justice, City University of New York, cho Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ,
tháng 2 năm 2004,
www.usccb.org/issues-andaction/child-and-youth-protection/upload/The-Nature-and-Scope-of-Sexual-Abuse-of-
Minors-by-CatholicPriests-and-Deacons-in-the-United-States-1950-2002.pdf.
[3] Electa Draper, “Các vụ bê bối
tạo ra sự khinh miệt đối với hàng giáo sĩ Công giáo” Denver Post, 25 tháng 5
năm 2010, http://blogs.denverpost.com/hark/2010/05/25/scandal-creates-contempt-for-catholic-clergy/39/
[4] Pat Wingert, “Các linh mục
không lạm dụng nhiều hơn những người đàn ông khác,” Newsweek, ngày 7 tháng 4
năm 2010, www.newsweek.com/priests-commit-no-more-abuse-other-males-70625.
[5] “Diễn văn của Tiến sĩ Monica
Applewhite với các Giám mục Ireland,” 10/3/2009,
www.themediareport.com/wp-content/uploads/2012/11/Applewhite-Ireland-Address-Bishops-2009.pdf.
[6] Elisabetta Povoledo và Laurie
Goodstein, “Đức Giáo Hoàng thành lập tòa án cho giám mục sơ suất trong các vụ lạm
dụng tình dục trẻ em,” ngày 10 tháng 6 năm 2015,
www.nytimes.com/2015/06/11/world/europe/pope-creates-tribunalfor-bishop-negligence-in-child-sexual-abuse-cases.html?_r=
0.
[7] David Gibson. “10 năm sau những
cải cách về lạm dụng tình dục của Công giáo, điều gì đã thay đổi?”, Washington
Post, ngày 6 tháng 6, 2012,
www.washingtonpost.com/national/on-faith/10-years-after-catholic-sex-abuse-reforms-
whatschanged/2012/06/06/gJQAQMjOJV_story.html.
[8] Thomas F. Madden, Lịch sử
Toát lược mới về các cuộc thập tự chinh (Lanham, Md.: Rowman & Littlefield
NXB, 2005), vii.
[9] Peter
Lock, Bạn đồng hành của Routledge cho các cuộc thập tự chinh (New York:
Routledge, 2006), 412.
[10] Cited in S.J. Allen and
Emilie Amt, eds., The Crusades: A Reader, 2nd. ed., (Toronto: University of
Toronto Press, 2014), 35.
[11] Thomas E. Woods Jr., “Huyền
thoại về Giáo hoàng của Hitler: Một cuộc phỏng vấn với Rabbi David G. Dalin,”
Catholic Exchange, July 29, 2005,
catholicexchange.com/the-myth-of-hitlers-pope-an-interview-with-rabbi-david-gdalin.
[12] Julian
the Apostate, Thư gửi Arsacius.
[13] Roy Porter, Lợi ích lớn nhất
cho nhân loại: Lịch sử y học của nhân loại (New York: HarperCollins, 1997), 88.
[14] Anthony Fisher, Đạo đức sinh
học Công giáo cho một thiên niên kỷ mới (Cambridge: Nhà xuất bản Đại học
Cambridge, 2012), 279-80.
[15] Bệnh
phong hủi ngày nay được gọi là bệnh Hansen.
[16]
Butler, Cuộc đời của các vị thánh, tập. 4, 106.