Tại sao chúng tôi THAM DỰ THÁNH LỄ

14

Tại sao chúng tôi THAM DỰ THÁNH LỄ


Một vài năm trước, mấy người bạn của chúng tôi đã mua một chiếc máy làm bánh rán tại nhà. Bạn chỉ cần đổ bột nhão vào đó và trong một phút, một loạt bánh rán nhỏ sẽ lăn ra trên cái băng tải của nó. Khi họ kể chuyện đó cho đứa con trai năm tuổi của họ, mắt nó sáng lên, “Thật tuyệt vời! Bây giờ chúng ta không phải đi lễ nữa!"

Cũng như cậu bé này, một số người đến nhà thờ vì “bánh rán." Có thể là bánh rán theo nghĩa đen, nhưng thông thường "bánh rán" ở đây là một số lý do không dính dáng gì đến tôn giáo giúp họ dậy sớm hơn thường lệ vào ngày Chúa nhật; họ thấy cần phải làm hài lòng một ai đó trong gia đình hay người bạn đời của mình; hoặc là họ đi lễ chỉ vì xưa nay gia đình vẫn đi. Khi có tuổi, có thể họ chỉ giữ truyền thống đó vào các lễ lớn, như lễ Phục sinh và Giáng sinh; nhưng đối với nhiều người, họ thấy "bánh rán" chẳng bõ công cho họ đi lễ và họ không đến nhà thờ nữa, họ nói:

“Thánh lễ Công giáo thật là nhàm chán. Tôi thấy mình chẳng nhận được một điều gì ở đó cả."

“Lúc nào cũng thấy họ xin tiền.”

“Âm nhạc thật kinh khủng, còn bài giảng thì tồi tệ hơn nữa.”

Khi có người hỏi tôi tại sao Chúa nhật nào tôi cũng đi lễ, tôi nói với họ rằng bất kể bài giảng có nhàm chán như thế nào, bất kể âm nhạc có khủng khiếp đến đâu, bất kể có chuyện gì xảy ra đi nữa, thì bánh và rượu trên bàn thờ trong mỗi Thánh lễ Công giáo vẫn trở nên mình và máu Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế của chúng ta. Tôi đi lễ vì bánh và rượu đó không chỉ tượng trưng cho Chúa Giêsu mà còn thực sự trở nên mình, máu, linh hồn, và thần tính của Ngài. Chúa Giêsu ở đó, không chỉ vào các ngày Chúa nhật, mà còn ở đó hằng ngày, sẵn sàng cho các tín hữu rước lấy để nhận được sự sống đời đời.

LỄ VƯỢT QUA MỚI

Khi lần đầu tiên ghé thăm một nhà thờ Công giáo, người đã mời tôi thăm giải thích rằng các thánh lễ được gọi là "Mass" vì tên này bắt nguồn từ tiếng Latinh missa, có nghĩa là “sai đi.” Người Công giáo dự lễ để họ được trang bị và “được sai đi” chia sẻ Tin Mừng cho toàn thế giới. Dù vậy, khi người bạn đó nói với tôi về “hy tế trong Thánh Lễ,” tôi dừng lại trước lối vào nhà thờ một vài bước.

"Hy tế ư? Anh sẽ không giết một con dê trên bàn thờ chứ? Bởi vì tôi không chắc mình đã sẵn sàng cho điều đó.”

Anh ta cười và nói rằng lễ vật là bánh và rượu được đưa lên bàn thờ, được gọi là Bí tích Thánh Thể, xuất phát từ một từ Hy Lạp có nghĩa là “lễ tạ ơn.” Sách Giáo lý viết: “Thật vậy, phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta.” (GLCG 1324).

Chiên Vượt Qua có nghĩa là “Lễ Vượt Qua” và ám chỉ đến một sự kiện mà người Do Thái vẫn kỷ niệm. Khi họ bị bắt làm nô lệ ở Ai Cập, Thiên Chúa bảo dân Ngài giết một con chiên không khiếm khuyết hay tì vết để Thần Tru Diệt được sai đến trừng phạt người Ai Cập sẽ “vượt qua” nhà của họ (Xh 12:43-51). Kitô hữu cũng có một con chiên chịu sát tế để cái chết thiêng liêng sẽ vượt qua họ, con chiên đó là Chúa Giêsu Kitô.

Gioan Tẩy Giả nói rằng Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian.” (Ga 1:29), và Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta.” (1Cr 5:7). Con Chiên Vượt Qua trong Cựu Ước phải là một con đực, không tì vết, và chân không bị gãy (Xh 12:5,46). Đức Kitô, con chiên Vượt Qua của chúng ta, là nam giới, vô tội (Dt 4:15), và không bị đánh giập ống chân trong cuộc khổ hình thập giá (Ga 19:33). Cuối cùng, Lễ Vượt Qua vẫn chưa hoàn thành cho đến khi thịt chiên được ăn, và bởi đó mà “Lễ Vượt Qua” do các Kitô hữu ngày nay cử hành phải được hoàn thành theo cách tương tự.

THẬT LÀ CỦA ĂN, THẬT LÀ CỦA UỐNG

Vì Chúa Giêsu không muốn chúng ta trở thành những kẻ ăn thịt đồng loại, nên Người đã ban Mình và Máu Người cho chúng ta dùng dưới thể thức kỳ diệu của bánh và rượu. Chúa nói:

"Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy." (Ga 6:53-57).

Nguyên bản tiếng Hy Lạp trong đoạn văn này truyền đạt một ý nghĩa thậm chí còn mạnh mẽ hơn những gì chúng ta đọc bằng tiếng Anh. Trước đó trong Ga 6, Chúa Giêsu dùng từ phago, một từ chung để chỉ việc ăn uống, nhưng trong mấy câu này, Chúa chuyển sang trogo, có nghĩa là "gặm hay nhai." Cũng thế, Chúa Giêsu dùng từ sarx, ám chỉ chất thịt mềm mỏng, bọc lấy xương của chúng ta, chứ không phải soma, chỉ có nghĩa là “cơ thể." Cách chọn từ của Chúa Giêsu, như được diễn tả trong tiếng Hy Lạp, cho thấy ngài đang nói về việc nhai và ăn chính xác thịt của Ngài một cách thực sự.

 “Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống."
(Ga 6:55)

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đồ trên đường đi đến thành phố Emmaus. Ngài giấu danh tính của mình với họ cho đến khi Ngài chúc lành và bẻ bánh cho họ ăn. Chúa Giêsu nói rõ rằng sau khi sống lại, tất cả các môn đệ sẽ không nhìn thấy Ngài trong hình dạng con người, mà thay vào đó họ sẽ “nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.” (Lc 24:35).

Khi tôi nói với một trong mấy người bạn không Công giáo của tôi rằng tôi đi lễ, anh ta chế giễu, “Anh không nghĩ là hết sức kỳ quặc khi người Công giáo tin rằng họ đang thực sự ăn thịt và máu của Chúa Giêsu sao?” Sau đó tôi cho anh xem Ga 6:53-57 và hỏi anh nghĩ Chúa Giêsu có ý gì khi ngài nói, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” Bạn tôi đọc đoạn văn, đóng Kinh Thánh lại, và nhún vai nói, "Đó chỉ là một phép ẩn dụ."

Nhưng tôi không chấp nhận lời giải thích đó.

Đúng là Chúa Giêsu đã sử dụng phép ẩn dụ để mô tả sứ vụ của Ngài. Ngài nói về mình: “Ta là cái cửa” (Ga 10:9) và “Ta là cây nho” (Ga 15:5), nhưng trong các trường hợp đó Chúa đã không bảo chúng ta hãy “tra dầu cho bản lề thật của Ngài” hay “tưới cho rễ thật của Ngài.” Hơn nữa, không ai phản đối Chúa Giêsu khi Chúa dùng phép ẩn dụ có liên quan đến cửa hay cây nho, nhưng khi Chúa Giêsu nói rằng một người phải ăn thịt Ngài để có được sự sống đời đời, Kinh Thánh cho chúng ta biết “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.” (Ga 6:66).[1]

CÁC KITÔ HỮU ĐẦU TIÊN
TIN VÀO SỰ HIỆN DIỆN THẬT SỰ

Thánh Phaolô nói với người Côrintô rằng bất cứ ai “ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa.” (1Cr 11:27). Chỉ sáu mươi năm sau, Thánh Inhaxiô thành Antiôcô nói: “Thánh Thể là thịt của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, thân xác chịu đau khổ vì tội lỗi chúng ta và đã được Chúa Cha cho sống lại, bởi lòng nhân hậu.”[2] J.N.D. Kelly thừa nhận rằng trong Giáo hội sơ khai, “bánh và rượu được thánh hiến được coi và được chỉ định là mình và máu của Chúa Cứu Thế.”[3]

VẪN TRÔNG GIỐNG NHƯ BÁNH VÀ RƯỢU!

Trong Bữa Tiệc Ly trước khi chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã trao bánh và rượu cho các môn đệ; Chúa Giêsu không nói: “Bánh này có chứa đựng mình Ta” hay “Ta ở trong rượu này." Chúa Giêsu chỉ nói về bánh: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” và nói về rượu “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước.” (Mt 26:26-28). Giáo hội dạy rằng khi được thánh hiến trong Thánh lễ, bản chất của bánh và rượu biến thành mình và máu Chúa Kitô mặc dù vẻ bề ngoài của bánh và rượu vẫn còn lại.

Bản thể là cái "lõi siêu hình" của một vật thể hợp nhất tất cả mọi thể hiện của một vật thể thành một thực thể duy nhất. Ví như, con người trông rất khác nhau từ khi còn là trẻ sơ sinh cho đến khi lớn lên thành người trưởng thành. Thực ra, nhiều tế bào của chúng ta đã chết đi và được thay thế bằng các tế bào mới, nhưng qua biết bao thay đổi đó, chúng ta cũng vẫn là một người. Đó là vì chúng ta sở hữu một bản thể làm nền tảng thiêng liêng, hay một cốt lõi siêu hình hợp nhất các thành phần của chúng ta. Sự thống nhất này chỉ bị sụp đổ vào giờ chết, khi linh hồn rời khỏi thể xác và chúng ta bắt đầu mục nát.

Trong Thánh Lễ, bánh và rượu không biến đổi hình thể thành mình và máu Chúa Kitô, bởi vì hình thể của chúng, hay dáng vẻ bên ngoài và hương vị của bánh và rượu không thay đổi đối với chúng ta. Đúng hơn, bản thể của bánh và rượu biến thành bản thể của mình và máu Chúa Kitô.

Qua phép lạ này, Chúa làm cho hình thể bên ngoài của bánh và rượu vẫn còn nhưng thay thế bản thể, thực tại nền tảng hợp nhất các hình thể đó, bằng Mình và Máu Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao người Công giáo dạy rằng bánh và rượu biến thể, thành Mình và Máu Đức Kitô trong khi truyền phép trong Thánh lễ. Điều này giải thích làm thế nào chúng ta có thể ăn uống những gì có vẻ là bánh và rượu mà vẫn trung thành với mệnh lệnh Chúa Giêsu đã dạy là “ăn thịt và uống máu của Ngài.”[4]

Cuối cùng, trong Thánh lễ, Chúa Kitô không lập lại hy lễ trên thập giá. Không giống như các con vật hy tế trong Cựu Ước, hy tế của Chúa Kitô là hoàn hảo và về cơ bản là không cần được lặp đi lặp lại (Dt 10:10). Thay vào đó, trong mỗi Thánh lễ, hy tế của Chúa Kitô được dâng lại cho Chúa Cha, và chúng ta nhận được hiệu quả ơn cứu độ bởi lễ hy sinh của Chúa bằng cách rước hy lễ đó dưới hình bánh và rượu trong bí tích Thánh Thể.[5] Didache, một sách giáo lý thế kỷ thứ nhất, còn kể các Kitô hữu “tụ họp vào ngày của Chúa, bẻ bánh và dâng Thánh Thể; nhưng trước hết là thú nhận lỗi lầm, để hy lễ của mình có thể là một hy lễ tinh tuyền.”[6]

QUỲ SỤP DƯỚI CHÂN NGÀI

Sau khi trở thành người Công giáo, tôi thường đếm số lần tôi rước Chúa trong bí tích Thánh Thể. “Lần thứ bảy tôi rước Chúa Giêsu!” Tôi đã nói với chính mình. Đến nay tôi không còn đếm được bao nhiêu lần tôi đã rước Bí tích Thánh Thể, và rồi khi thấy mệt và chán dự lễ, tôi bị cám dỗ chỉ rán đi lễ “cho xong."

Rồi tôi nhớ đến một câu chuyện mà triết gia Peter Kreeft thích kể. Ông nói rằng khi một trong những học trò của ông giải thích Bí tích Thánh Thể cho một người bạn Hồi giáo, người đó nói, "Tôi không nghĩ rằng anh thực sự tin điều đó." Anh học sinh hỏi tại sao anh lại nghĩ vậy và người bạn Hồi giáo của anh nói, “Nếu tôi tin cái thứ trông giống như mẩu bánh tròn nho nhỏ đó thực sự là chính Allah [Thiên Chúa], tôi nghĩ tôi sẽ ngất xỉu ngay. Tôi sẽ quỳ sụp dưới chân Ngài như một người chết.”[7]

Tôi vui mừng với những gì tôi “nhận được từ” Thánh lễ không chỉ là một cảm xúc ấm áp, không rõ ràng; mà đúng hơn là tôi thấy mình được rước Chúa của vũ trụ trong tay, trên môi, và trong lòng mình; tôi thực sự vui mừng biết rằng Chúa đã hạ mình để trở nên một thực thể hữu hình lấy thân thể tôi làm đền thờ (1Cr 6:19), làm nhà cho sự hiện diện thực sự của Ngài. Đó cũng là cách mà đời sống của chính Chúa Giêsu được kết hợp với đời sống của tôi để tôi có thể chia sẻ đời sống vĩnh cửu với Chúa.

EM ĐÃ HY SINH ĐỜI SỐNG VÌ THÁNH THỂ

Vào thế kỷ thứ ba, một lễ sinh người La Mã tên là Tarcisius được yêu cầu mang Thánh Thể cho các Kitô hữu đang hấp hối trong tù. Pháp luật cấm đạo, nên các Kitô hữu ẩn náu trong những ngôi mộ dưới lòng đất được gọi là hang toại đạo. Khi Tarcisius xuất hiện từ hầm mộ, một nhóm người không theo đạo yêu cầu em trao Thánh Thể cho họ. Em từ chối và vì thế mà họ đánh em bằng dùi cui cho đến chết. Theo hồ sơ của Giáo hội về những người đã tử đạo vì Đức tin, “họ không thể tìm thấy vết tích của Thánh Thể Chúa Kitô trong tay hay trong quần áo của em. Các Kitô hữu nhận lấy thi thể của vị tử đạo và chôn cất trọng thể tại nghĩa trang Callistus.”[8]

LÝ DO CHO NIỀM TIN CỦA CHÚNG TÔI:

THÁNH LỄ VÀ THÁNH THỂ

* Chúa Giêsu là Chiên Vượt Qua mới đã chịu hy sinh để xóa bỏ tội lỗi của thế giới.

* Chiên Vượt Qua phải được ăn, đó là lý do tại sao Chúa Giêsu ban cho chúng ta thịt và máu của Ngài dưới hình bánh và rượu.

* Chúa Kitô không dâng hy lễ một lần nữa trong Thánh lễ, mà đúng hơn, hy lễ duy nhất của Người trên thập giá lại được dâng lên cho Chúa Cha và qua đó chúng ta nhận được ân sủng của Thiên Chúa.

Tại sao chúng tôi theo đạo Công Giáo



[1] Trước đó trong Phúc âm Gioan, Chúa Giêsu đã dùng một phép ẩn dụ liên quan đến thức ăn mà các môn đồ của Chúa đã hiểu lầm. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đã có thức ăn rồi, điều đó làm cho các môn đồ phải hỏi: “Ai đã mang bữa trưa đến cho Chúa Giêsu” (và có thể tự hỏi: “Tại sao họ không mang gì cho chúng ta!”). Chúa Giêsu sửa họ, nói rằng Ngài đang dùng ẩn dụ. Ngài giải thích: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4:34). Nhưng trong Gioan 6, khi mọi người bắt đầu từ bỏ Chúa Giêsu vì phép ẩn dụ được cho là “ăn xác thịt,” Chúa Giêsu không nói, “Từ từ, đó chỉ là một phép ẩn dụ!” Thay vào đó, Ngài tái khẳng định vấn đề khó chịu đó trong lời giảng dạy của mình, và các môn đệ vẫn theo Ngài vì họ biết rằng họ không thể gặp Đấng có những lời ban sự sống đời đời nơi một ai khác (Ga 6:68).

[2] Thánh Inhaxiô, Thư gửi tín hữu Smyrnae, 7.

[3] J.N.D. Kelly, Các học thuyết Kitô giáo sơ khai (New York: Harper Collins, 1978), 440.

[4] Chúa Giêsu nói rước Thánh Thể “để nhớ đến Thầy” (Lc 22:19), nhưng Ngài không có ý nói Thánh Thể chỉ là một đại diện tượng trưng của Chúa. Từ được dịch là “để nhớ đến” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp anamnesis, có nghĩa là “dâng của lễ tưởng niệm." ngụ ý đến việc dâng một của lễ qua một sự hy sinh. Trong trường hợp này, Mình Chúa Giêsu Kitô trở thành của lễ khi linh mục dâng lên Chúa Cha hy tế duy nhất của Chúa Kitô, con chiên vượt qua của chúng ta, dưới hình bánh và rượu. Xem thêm Stephen K. Ray, Crossing the Tiber: Evangelical Protestants Discover the Historical Church (San Francisco: Ignatius Press, 1997), 210.

[5] Thánh Lễ được gọi là “hy tế thánh” bởi vì đó là “hy tế duy nhất của Đức Kitô Đấng Cứu Độ được hiện tại hoá và bao gồm cả lễ vật của Hội Thánh. Nó tái hiện (hiện tại hóa) hy tế thập giá” (GLCG 1330,1336). Mặc dù Chúa Kitô đã nói trên thập giá, “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:30), điều này không có nghĩa là không cần phải làm gì khác để đạt được ơn cứu độ của chúng ta. Rm 8:34 nói rằng Đức Kitô, đúng vào lúc này, cầu bầu cho chúng ta trước Chúa Cha. Tái hiện hy tế dâng lên Chúa Cha của Chúa Kitô không làm mất đi tác dụng cứu độ duy nhất của lễ tế đó cũng như lời cầu bầu hiện tại của Đức Kitô cho chúng ta không lấy đi những gì Ngài đã làm trên thập tự giá.

[6] Didache, 14. Dt 13:10 cũng cho biết rằng các Kitô hữu “có một bàn thờ; những gì dâng trên đó, những người lo việc phụng tự trong Lều không có quyền ăn.” nghĩa là các Kitô hữu có một hy lễ dâng cho Thiên Chúa. Những người “phụng tự trong Lều” là những thầy tế lễ Do Thái trong Đền thờ không được phép rước hy lễ Thánh Thể, mà chỉ những Kitô hữu mới có thể được rước.

[7] Peter Kreeft, “Điều tôi học được từ một người Hồi giáo về Chầu Thánh Thể,” catholicity.com, 21 tháng 4, 2011.

[8] Thánh Tarcisius, Tử đạo, www.ewtn.com/library/MARY/TARCISI.htm. Lấy từ Berchmans Bittle, Mỗi ngày một vị thánh theo Lịch Phụng vụ của Giáo hội (Milwaukee: Bruce Publishing Company, 1958).