Tại sao chúng tôi KHÔNG CHỈ TIN VÀO KINH THÁNH

10

Tại sao chúng tôi KHÔNG CHỈ TIN VÀO
 KINH THÁNH

Sau khi trở thành một Kitô hữu, tôi đã vật lộn với việc liệu tôi có nên tiếp tục theo Giáo hội Công giáo hay không. Khi ngồi trong nhà thờ và nhìn trầm hương từ bàn thờ bay lên, tôi cảm thấy một sức thôi thúc tôi hãy ở lại và trở nên thành phần của một điều chi như là mầu nhiệm thánh; mặt khác, có rất nhiều điều người Công giáo tin mà tôi không tìm thấy được trong Kinh Thánh, khiến tôi nghĩ rằng đó chỉ là các truyền thống do người ta đặt ra.

Cuối cùng tôi quyết định rằng tôi gia nhập giáo hội nào cũng được miễn là tôi chỉ tin vào những gì Kinh Thánh dạy. Nhưng rồi tôi gặp phải một rào cản: tôi không thể tìm ra dù chỉ một câu Kinh Thánh nói rằng tất cả những gì tôi tin phải nằm trong Kinh Thánh; và càng nghiên cứu lịch sử, tôi càng thấy chính Giáo hội Công giáo đã trao cho chúng ta cuốn Kinh Thánh.

Nếu tôi tin vào lời của Chúa, thì tại sao tôi lại không gia nhập Giáo hội đã trao cho chúng ta lời Chúa trong Kinh Thánh?

Ý TƯỞNG PHI KINH THÁNH CỦA DUY KINH THÁNH

Vào thế kỷ XVI, các Kitô hữu như Martin Luther và John Calvin phản đối những gì họ cho là “truyền thống do con người tạo ra” của Giáo hội Công giáo. Vì phản đối Giáo hội nên họ được gọi là những nhà cải cách phản kháng (Protestant Reformers). Tuy thế, thay vì cải cách Giáo hội Công giáo, họ đã bác bỏ thẩm quyền của Giáo hội và thay vào đó bằng ý tưởng rằng hết mọi giáo huấn Kitô giáo, hay giáo thuyết, phải đến từ Kinh Thánh mà thôi. Nguyên tắc này sau đó được gọi là sola scriptura (tiếng Latinh có nghĩa là “duy Kinh Thánh”).

Nhưng nếu tất cả các giáo lý được cho là đến từ Kinh Thánh, vậy thì Kinh Thánh dạy giáo thuyết Duy Kinh Thánh ở chỗ nào?

Đúng là sách Khải huyền cảnh báo rằng “Với bất cứ ai nghe những sấm ngôn trong sách này, tôi xin chứng thực: "Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này!” (Kh 22:18) Nhưng Gioan, tác giả sách Khải huyền, chỉ cấm thêm thắt vào những thị kiến mà ngài nhận được; ngài không phủ nhận rằng lời của Chúa còn ở bên ngoài Kinh Thánh, kể cả ở bên ngoài sự mặc khải cho riêng ngài.

Đoạn văn được trích dẫn nhiều nhất để bảo vệ sola scriptura là 2Tm 3:16-17: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.”[1]

Người Công giáo đồng ý rằng tất cả Kinh Thánh được linh hứng bởi Thiên Chúa. Kinh Thánh cũng hữu ích, nhưng điều này không có nghĩa là Kinh Thánh là công cụ duy nhất giúp chúng ta giảng dạy Đức tin, hay được tăng trưởng trong sự thánh thiện. Chúng ta cũng cần đến một đời sống cầu nguyện tích cực và lời khuyên từ các Kitô hữu trưởng thành khác. Trong 2Tm 2:21, Phaolô nói rằng nếu Timôthê thanh tẩy mình khỏi các ảnh hưởng xấu, anh sẽ là một chiếc bình sẵn sàng cho “mọi việc lành." Tất nhiên rồi, điều đó không có nghĩa là nếu Timôthê tránh xa các ảnh hưởng xấu thì anh sẽ tự động biết mọi giáo lý thiết yếu của Đức tin.

Kinh Thánh dạy rằng Kinh Thánh là một công cụ trang bị cho chúng ta để làm việc lành, nhưng đó không phải là công cụ duy nhất giúp chúng ta sẵn sàng cho nhiệm vụ đó. Thực ra, Kinh Thánh dạy rằng lời Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong chữ viết.

SỰ CẦN THIẾT CỦA TRUYỀN THỐNG

Các Kitô hữu đầu tiên đã không học hỏi niềm tin của họ từ Kinh Thánh vì sách của Tân Ước chưa được viết. Điều này thể hiện rõ khi Phaolô cảm ơn người Côrintô đã “nắm giữ các truyền thống tôi đã để lại cho anh em” (1Cr 11:2), và hướng dẫn môn đồ Timôthê, “Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người có khả năng dạy cho người khác.” (2Tm 2:2).

Phaolô cảm ơn người Thêxalônica vì đã đón nhận lời rao giảng của ngài, không phải là lời của con người, nhưng là chính lời của Thiên Chúa (1Tx 2:13). Trong lá thư thứ hai của ngài cho cộng đoàn này, ngài bảo họ “hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ.” (2Tx 2:15).

TRUYỀN THỐNG VÀ
CÁC TRUYỀN THỐNG ĐƯỢC MINH ĐỊNH

* Giáo Truyền (Ecclesial tradition): Các quy tắc và phong tục được Giáo hội dạy để giúp chúng ta thờ phượng Thiên Chúa. Chúng bao gồm các hình thái thờ phượng hay các quy tắc có thể thay đổi để sinh lợi tốt nhất cho Thân thể Chúa Kitô.

* Thánh Truyền (Sacred tradition): Lời Chúa được truyền khẩu mà Chúa Giêsu và các tông đồ đã trao cho Giáo hội và không thay đổi. Chúng bao gồm các giáo thuyết cơ bản về Đức tin và những cách thế sống Đức tin trong mọi thế hệ.

Thánh Truyền không giống như các phong tục có thể thay đổi theo thời gian, như cách ăn mặc hay cung cách thờ cúng (hay “truyền thống” với chữ “t” viết thường).[2] Thánh Truyền là Truyền thống (với chữ “T” viết hoa) ám chỉ đến lời Chúa được “trao tay” hay "bày tỏ." Lời đó không thay đổi mặc dù sự hiểu biết của chúng ta về lời đó có tăng triển theo thời gian, cũng như sự hiểu biết của chúng ta về Kinh Thánh có lớn lên theo thời gian.

Vào thế kỷ thứ hai, Thánh Irênê đã viết, “Trong khi các ngôn ngữ trên thế giới thì đa dạng, dù vậy, thẩm quyền của truyền thống lại là một và giống nhau.” Ngài cũng hỏi người đọc: “Nếu các tông đồ thực sự không để lại những bài viết cho chúng ta thì sao? Việc tuân theo trình tự truyền thống được truyền lại cho những ai mà các tông đồ ủy thác các giáo hội cho họ lại không cần thiết sao?”[3]

TRUYỀN THỐNG CỦA CON NGƯỜI?

Một số Kitô hữu phản đối ý tưởng về Thánh Truyền vì họ tin rằng Chúa Giêsu đã lên án nó. Họ đề cập đến thời gian khi Chúa Giêsu nói với các nhà lãnh đạo Do Thái, “các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt 15:6). Nhưng trong trường hợp này, Chúa Giêsu lên án một truyền thống đặc biệt do con người tạo ra, trái với một trong các điều răn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mạnh mẽ chỉ trích truyền thống áp dụng việc cúng tế bằng tiền cho đền thờ, được gọi là korban, thay vì dùng tiền để phụng dưỡng cha mẹ già. Truyền thống này mâu thuẫn với Điều Răn Thứ Tư, dạy rằng, “Hãy thảo kính cha mẹ."

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ toàn bộ truyền thống tôn giáo vì Ngài dạy các môn đệ Ngài hãy vâng lời các nhà lãnh đạo Do Thái vì họ ngồi trên một thứ gọi là “toà ông Mô-sê” (Mt 23:2-3). Đây không phải là một chiếc ghế thực sự mà là một thuật ngữ chỉ về truyền thống của người Do Thái, không có trong Kinh Thánh, về thẩm quyền giảng dạy của các nhà lãnh đạo Do Thái. Thật ra, trước khi lên trời, Chúa Giêsu không bao giờ ra lệnh cho các tông đồ viết ra bất cứ điều gì. Thay vào đó, nhiệm vụ của họ là rao giảng phúc âm, và lời Chúa tiếp tục được truyền miệng kể cả sau khi Tân Ước được viết ra.

DANH SÁCH CÁC SÁCH TRONG KINH THÁNH

Ví dụ rõ ràng nhất về Thánh Truyền mà cả người Công giáo lẫn Tin lành đều chấp nhận là quy điển của Kinh Thánh. Từ "quy điển" (canon) đến từ một chữ Hy Lạp có nghĩa là “quy tắc,” và đề cập đến danh sách chính thức của Giáo Hội về các sách được linh hứng. Bạn có thể tìm thấy danh sách này trong mục lục của mọi cuốn Kinh Thánh Công giáo hay Tin lành. Quy điển Kinh Thánh lần đầu tiên được công bố tại Rôma vào năm 382 sau Công nguyên và sau đó được xác định tại hai công đồng Công giáo ở Bắc Phi (Hippo năm 393 AD và Carthage vào năm 397 AD).[4]

MỘT NHÀ THẦN HỌC TIN LÀNH
THỪA NHẬN: CÓ VẤN ĐỀ

“Vấn đề với các tín hữu Tin lành đương thời là họ không có học thuyết về Bảng Mục lục. Với cách tiếp cận phổ biến trong giới truyền giáo bảo thủ, người ta chỉ đơn giản đến với Kinh Thánh bằng một bước ngoặt nhận thức luận. Kinh Thánh 'là thế', và bất kỳ câu hỏi nào về cách nó 'là thế' đều bị coi là quấy rầy. Nhưng ngày qua ngày, nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời, sự im lặng trở nên khó xử, và việc cải đạo của các tín hữu Tin lành có suy nghĩ sâu sắc sang Công giáo diễn ra một cách nhanh chóng.”[5] - Nhà thần học Tin lành Douglas Wilson

Tuy nhiên, nếu bạn là một Kitô hữu phủ nhận thẩm quyền của Giáo hội Công giáo, thì bạn dựa vào thẩm quyền nào để nói các Kitô hữu phải chấp nhận quy điển Kinh Thánh được tìm thấy trong các bộ Kinh Thánh ngày nay?

Một số người nói rõ ràng các sách trong Kinh Thánh đều có ở đó và chúng tôi không cần đến một Giáo hội nào chứng minh rằng chúng nằm ở đó, nhưng điều đó có thực sự rõ ràng như vậy không? Thư của thánh Phaolô gửi cho Phi-lê-môn không dạy bất kỳ một giáo thuyết cụ thể nào, và bức thư thứ ba của Gioan thậm chí còn không đề cập đến tên của Đức Giêsu Kitô. Ngược lại, các văn bản phổ biến khác trong Giáo hội sơ khai, như Didache hay bức thư của Clement, lại không có trong quy điển Kinh Thánh.[6]

Những người khác nói rằng “giáo hội” (với chữ “g” viết thường) đã đặt định quy điển, nhưng ngày nay chúng tôi không buộc phải tuân theo những gì một giáo hội nào đó dạy. Nhưng nếu nhóm Kitô hữu đầu tiên đó không có thẩm quyền của Đức Kitô, thì chúng ta không có lý do gì để tiếp tục tuân theo các quyết định về giáo lý của họ, kể cả các quyết định của họ về quy điển. Nhà thần học Tin Lành R.C. Sproul đã có một gợi ý nổi tiếng rằng điều tốt nhất chúng ta có thể nói là, quy điển của Kinh Thánh là “một danh sách có thể sai lầm của những cuốn sách không thể sai lầm.”[7] Điều này có nghĩa là bất kỳ Kitô hữu nào cảm thấy được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đều có thể yêu cầu mục lục của Kinh Thánh cần được sửa đổi, kể cả một số phần của Kinh Thánh phải được gỡ bỏ.[8]

Thực ra, 500 năm trước, Martin Luther và Những Nhà Cải Cách Tin Lành khác đã làm điều đó. Luther gọi thư Giacôbê là “bức thư rơm rác” vì nó mâu thuẫn với thần học của mình, vì vậy ông đã chuyển nó vào phía sau của Kinh Thánh. Mặc dù Luther và những người Cải cách khác đã giữ lại thư của Giacôbê, nhưng họ gỡ bỏ các sách được gọi là đệ nhị quy điển, ra khỏi Cựu Ước. Những cuốn sách này, như Sirach, Tobit và Macabê (trong số các sách khác), là một phần của Kinh Thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng và được coi là Kinh Thánh được linh hứng trong Giáo hội sơ khai.[9] Một lý do khiến các nhà cải cách từ chối mấy sách đó là vì chúng dạy về các giáo thuyết Công giáo như sự hiện hữu của luyện ngục và sự cần thiết phải cầu nguyện cho người đã qua đời.[10]

KINH THÁNH, TRUYỀN THỐNG VÀ GIÁO HỘI

Người Công giáo đồng ý rằng chúng ta không được tin bất cứ điều gì mâu thuẫn với Lời Chúa bất kể đó là Lời được viết ra (Kinh Thánh) hay là Lời được rao giảng (Truyền thống).

Nếu một truyền thống bị cáo buộc mâu thuẫn với Kinh Thánh, thì truyền thống đó phải có nguồn gốc là con người - chữ “t” nhỏ - hơn là có nguồn gốc thần linh - chữ “T” hoa. Nhưng nếu một tài liệu được khẳng định là Kinh Thánh (như phúc âm giả mạo hay dị giáo) mà mâu thuẫn với Thánh Truyền, thì nó cũng phải bắt nguồn từ con người. Thiên Chúa nói qua chữ viết, nhưng như chúng ta đã biết, chỉ qua Thánh Truyền, chúng ta mới biết được văn bản nào là lời của Chúa và văn bản nào thì không.

Thánh Truyền cũng bảo vệ Giáo hội khỏi những chú giải sai lầm của Kinh Thánh. Những người bạn Tin lành của tôi đôi khi tranh luận với mấy người theo các giáo phái chỉ muốn phủ nhận các học thuyết cơ bản của Kitô giáo như thần tính của Đức Kitô; họ chỉ ra những đoạn Kinh Thánh, theo ý họ, đã chứng minh rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, chỉ để nghe người kia nói, "Vâng, nhưng đó không phải là cách tôi hiểu những đoạn văn đó." Tôi nghĩ thật là một lời mỉa mai khi một trong những người bạn theo đạo Tin lành của tôi trả lời, “Nhưng cách hiểu của tôi cho mấy đoạn này chính là cách hiểu các Kitô hữu đã dùng trong 2.000 năm qua!”

Câu chuyện này là một ví dụ hoàn hảo về cách thức lời Thiên Chúa nói trong Kinh Thánh qua chữ viết (những gì Kinh Thánh nói), mà cũng qua truyền khẩu (các giáo huấn về những gì Kinh Thánh ý nói). Nhưng chúng ta phải tin vào truyền thống của ai để được hướng dẫn mà hiểu Kinh Thánh đây?

Những người bạn theo đạo Tin lành của tôi thậm chí không thể đồng ý với nhau về những gì Kinh Thánh dạy liên quan đến các vấn đề như liệu có phải rửa tội cho trẻ sơ sinh để khỏi mất ơn cứu độ hay không. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trong lá thư thứ hai của mình, Thánh Phêrô đã dạy, “không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh.” (2Pr 1:20).

Thánh Vincent thành Lerins đã đưa ra quan điểm này vào thế kỷ thứ năm khi ngài nhận thấy những kẻ dị giáo cũng có thể trích dẫn Kinh Thánh như các tín hữu. Điều này có nghĩa là cần đến một thẩm quyền khác để giải quyết những bất đồng về những gì các Kitô hữu phải tin. Thẩm quyền này không thể là ai khác ngoài Giáo hội mà Chúa Kitô đã thành lập, hay, như thánh Vincent đã viết, “Nguyên tắc để hiểu cho đúng về các tiên tri và tông đồ phải được điều chỉnh tương hợp với tiêu chuẩn của bản dịch Công giáo và thuộc về giáo hội.”[11]

LÝ DO CHO NIỀM TIN CỦA CHÚNG TÔI:

THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN

* Kinh Thánh không bao giờ dạy rằng lời Thiên Chúa chỉ giới hạn trong chữ viết hay mọi điều các Kitô hữu phải tin đều được trình bày một cách rõ ràng trong Kinh Thánh.

* Kinh Thánh dạy rằng vẫn có lời Chúa trong hình thức truyền miệng là Thánh Truyền.

* Có một truyền thống mà cả người Công giáo và Tin lành đều tin theo, đó là quy điển của Kinh Thánh.

Tại sao chúng tôi theo đạo Công Giáo



[1] Một câu khác được trích dẫn để bảo vệ sola scriptura là Cv 17:11, mô tả cách người Do Thái ở Bêrê “hiền hậu hơn những người ở Thessalonikê. Họ hết sức nồng nhiệt đón nhận lấy Lời. Ngày ngày họ tra cứu Kinh Thánh xem [lời dạy của Phaolô] có thực thế không.” Nhưng người Do Thái ở Thessalonikê không dốt Kinh Thánh. Họ chỉ phản đối cách giải thích Kinh Thánh của Phaolô vì ông “biện luận chặt chẽ” và “chứng minh” từ đó rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Mặt khác, người Bêrê “hiền hậu” hơn vì họ cởi mở và thấy rằng Kinh Thánh là bằng chứng cho lời rao giảng của Phaolô. Luca thậm chí còn tuyên bố rằng “Phaolô rao giảng Lời Thiên Chúa ở Bêrê” (Cv 17:13), nghĩa là lời của Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong chữ viết. (bản dịch KT của NTT)

[2] Sách Giáo lý viết, “Truyền Thống mà chúng ta nói đây xuất phát từ các Tông Đồ và lưu truyền những gì chính các ngài đã lãnh nhận từ giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu cũng như những gì các ngài học được nhờ Chúa Thánh Thần.” (GLCG 83).

[3] Thánh Irênê, Chống Dị Giáo, 1:10:2, 3:4:1.

[4] Quy điển cũng được minh định khi đối mặt với sự chỉ trích của Tin lành về quy điển tại Công đồng đại kết Trent (1545-1563).

[5] Douglas Wilson, “Một nhánh bị cắt,” Credenda Agenda 12, no. 1, www.credenda.org/archive/issues/12-1thema.php.

[6] Eusebius, Lịch sử Giáo hội, 4:23:11.

[7] R.C. Sproul, Thần học cải cách là gì? Hiểu Biết Những Điều Cơ Bản (Grand Rapids, Mich.: Baker Books, 2005), 54.

[8] Hãy biết đến nhóm muốn loại bỏ khỏi Kinh Thánh câu chuyện Chúa Giêsu thương xót người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình (Ga 7:53-8:11), www.conservapedia.com/Essay:Adulteress_Story.

[9] Để bảo vệ nguồn cảm hứng của các sách đệ nhị quy điển, hãy xem Gary Michuta, Trường hợp của đệ nhị quy điển: Bằng chứng và Lập luận (Livonia, Mich.: Nikaria Press, 2015).

[10] Xin xem 2 Maccabees 12:46 để biết một ví dụ.

[11] St. Vincent of Lerins, Commonitory, 2.5