1. Tình thương của Thiên Chúa
2. Cựu Ước và Tân Ước
3. Tình yêu của Thiên Chúa
4. Ánh sáng và bóng tối –
Thiên Phúc
5. Giương cao con rắn
6. Nào ta hãy mừng vui
7. Nhìn lên Thánh Giá
9. Từ bóng tối tới ánh
sáng
10. Hãy đến cùng ánh sáng
– Lm. Ignatiô Trần Ngà
11. Suy niệm của Lm. Nguyễn
Văn Phan, CSsR.
12. Tình yêu cứu độ của
Thiên Chúa.
13. Yêu đến quên mình
14. Như hoa hướng dương –
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
15. Nô lệ tự nguyện
16. Phận người yếu đuối và
tội lỗi
17. Nhìn lên Thập Giá
18. Thiên Chúa yêu thế
gian
19. Tuyệt vọng trong hy vọng
20. Chuyện thưởng phạt
21. Tin Chúa - Lm. Vũ Đình
Tường
22. Đón nhận ánh sáng –
Peter Feldmeier
24. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
28. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
29. Thiên Chúa yêu thương
30. Ánh sáng thật
31. Nhìn lên ánh sáng
32. Chuộng tối hơn sáng
33. Yêu thương tha thứ
34. Sự thật đổi mới chúng
ta
35. Đức tin hôm nay của
tôi cứu tôi
36. Tình yêu lớn nhất
37. Người thợ săn trên trời
– ĐGM. Arthur Tone.
38. Thiên Chúa cứu chuộc
thế gian bằng tình yêu.
39. Lòng tin
40. Yêu cho roi cho vọt –
Lm Trần Bình Trọng.
41. Người thợ săn.
42. Thích gì.
43. Yêu Chúa.
44. Con rắn
45. Thiên Chúa yêu.
46. Tiến vào ánh sáng
47. Ánh sáng và bóng tối
49. Cho là cõi phúc – Lm
Vũ Đình Tường
50. Nhìn lên Thập giá
52. Suy Niệm của Lm. Bùi
Thượng Lưu.
56. Đón nhận Thập Giá
Chúa Kitô
58. Rắn đồng cứu độ
Hạt lúa mục nát ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt
Sám hối để được cứu rỗi Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Lòng Chúa thương xót ta Lm Giuse Đinh lập Liễm
Tin tưởng chọn lựa Đức Giêsu Lm. Phêrô Lê văn Chính
Thiên Chúa giàu lòng yêu thương Lm Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê su loan báo Người sẽ .. Học Viện Đà Lạt
Cái chết của Đức Giê su Fiches Dominicales
Nhìn lên thập giá Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Giờ của Chúa Giê su Alain Marchabour
Ánh sáng của thập giá Lm. Vũ Phan Long
Sẽ được tôn vinh Suy niệm của JKN
Theo Chúa đến cõi sống catholic.org.tw
Hạt lúa phải được vùi xuống Lm. Vũ Thái Hoà
Thiên Chúa cứu chuộc thế gian...Noel Quesson
Quy luật sự sống Niềm Vui Chia Sẻ
Hạt lúa trơ trụi MANNA
Hạt lúa nẩy mầm Sưu tầm
Giờ Chúa đến Sưu tầm
Hạt lúa Sưu tầm
Chết để sống Sưu tầm
Hy sinh Sưu tầm
Từ bỏ Sưu tầm
1. Tình thương của Thiên Chúa
Hôm
nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau
khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với
những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao
bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc
thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người
bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn
xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng
làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với
chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này,
trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người
bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên
gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử
chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động
tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể
chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng
đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ
và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống
thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến
tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin
tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng
chương trình của Ngài.
Qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải
chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để
lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như
thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng
ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi
dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc
đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa
luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi
người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để
xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
2. Cựu Ước và Tân Ước
Đọc
lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật
thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng,
thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi
xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng
trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã
diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất
được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra.
Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người
thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người
mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp
đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu
Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha
mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức
Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy
tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho
Thiên Chúa.
Và
hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một
hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong
hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong
sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai
tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc
hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong
Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên
Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên
Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước
thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội
phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi.
Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng
đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên
con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo
lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và
cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với
niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra,
sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy
nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng
ta sắp sửa mừng kính.
3. Tình yêu của Thiên Chúa
Trong
sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục.
Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi,
thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm
đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế
gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì
ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác
thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với
một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng
trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã
ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng
được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu
thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng
lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi
xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng
nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi
thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó
sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông
thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên,
giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như
giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng
chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho
họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng
để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như
vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ
thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy
vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân
biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao
đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà
dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình,
trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi
gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một
cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ,
nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được
sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức
Kitô.
4. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
(Trích
trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo
Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở
bãi đậu xe như sau:
Sam
Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không
chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy
thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ
sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến
những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui
tươi.
Quản
lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu
giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người.” Giám đốc công ty sản
xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam.”
Trước
sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng
dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm
cho tươi mát tâm hồn.
Người
đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và
được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh
giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể
cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ
quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc
khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói:
"Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng.”
***
Đức
Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong
sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm
trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập
tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong
sáng.
Cuộc
đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên
kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối.
Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng
đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ
xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của
họ bị lộ tẩy.
Ghét
ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là
để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng
chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa
sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có
cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã
chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng
được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn
lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn
lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập
giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của
một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến
dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc
đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức
tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị
khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống
động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức
tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức
tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức
tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy
Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho
chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.
5. Giương cao con rắn
(Suy
niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thiên
Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai
mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải
cho biết!
Người
Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê
(theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại
vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch
sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà
Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau
khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô
địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa
hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài
người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào
đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải
cho” (Mt 11:27)
Vấn
đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện
mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng
rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con
rắn trong sa mạc.” Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã
không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó
chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê,
và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến
nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức
Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả
những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu
chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược
lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách
Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có
được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn
tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn
cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn
giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố
mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng
rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho
điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện
hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được
cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án.”
Riêng
đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính
yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa
không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương
cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân
hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ
cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần
‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu
tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn
giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu
biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có
tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta
nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời
của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có
bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy
nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’
Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà
chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian
tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công
thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp
ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người
ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy
đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót
thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của
mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong
tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân
thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt
trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập
giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy
Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm
ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để
nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội
lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời
mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
6. Nào ta hãy mừng vui
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước
vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím
chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay
tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã
làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng
đường tới.
"Mừng
vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các
bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa
chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: "Tôi vui mừng khi
người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... .”
Những
lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái
mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui
mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi
thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm
vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương.
Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng
lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ
Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây
hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa?
Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Vì
tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị
phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu
gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở
giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16.
19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể:
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những
ai tin Con Ngài ... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ" (Ga 3,16-17).
Thiên
Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách
trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo
công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các
việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng
ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với
Chúa Giêsu bước trong "hoang địa.” Đây là quãng thời gian chúng ta lắng
nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng
chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập
giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng
ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong
sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của
người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và
bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và
treo lên một cây sào: ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành
(x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Đức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai
đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu
độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế
gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người,
mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo
thánh Âugustinô thì: "Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu
người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm
hại mình. Đấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc,
anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190).
Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con
người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy,
mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng
người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể
hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh
Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương
tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì
đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất
chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình."
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh
Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có
biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn
còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria,
những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa
đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không
nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người
khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng
cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ,
tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các
bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để
chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự
"thờ ơ toàn cầu hóa.” Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước: " Nơi nào có
sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở
nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ" (Sứ điệp MC 2015).
Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội
hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh
chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến
tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh
Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời
gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời
Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại
giúp đỡ tha nhân.
Mùa
Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực
thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm
nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ
trở nên những hòn đảo lòng thương xót.
7. Nhìn lên Thánh Giá
(Suy
niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thánh
giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn
cứu độ.
Hình
ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và
được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt
và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ
lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được
trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn
ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21,
4-9).
Trong
truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng
con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho
ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho
con người.
Biểu
tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh
"con rắn đồng được giương cao" với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con
người.
Ý
nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa
mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay
phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn
chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân.
Đức Chúa nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột.
Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông Môsê
"làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà
nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn
đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái
nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma
thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn,
mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng
là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra
bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương
tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi
loạn chống đối.
Và
đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay:
"Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như
thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi.” Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết
cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ
"treo lên"; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng
bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống.” Ai bị rắn độc cắn trong hoang
địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự
sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự
sống nhân tính, mà "sự sống vĩnh cửu.” Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên
Chúa yêu thương.”
Khi
nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta
hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là
tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của
một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận
biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân
Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa
mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi
đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội
lỗi.
Đức
Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những
lời thật sâu xa: "Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân
thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc
đời công chính. " (2Pr 2,24a ). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của
con người. Người chịu chết cho con người được sống "Người phải mang những
vết thương mà anh em đã được chữa lành" (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu
trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của
mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con
người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống.
Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Thiên Chúa biểu lộ tất
cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình
yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi "trao ban.” Điều quí nhất của Người
Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của
Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: "Con Người đến hầu hạ và hiến
mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.” Người đã tự nguyện chết cho
con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người
dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; "Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các
con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội.” Nhìn lên Đấng chịu
đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và
diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người
Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp
chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên
tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá
trong thi ca.
Có
những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo:
thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có
giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có
tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt
được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường.
Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình
và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều
người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm.
Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh
đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không
biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội
đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần
Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý
nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là
dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. "Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo
mọi sự lên với Ta.” Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ
Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và
dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh
giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh
Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi
mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra
không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập
Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên
gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là
tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến
mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với
Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá
còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất
cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" (Ga 3, 16). Trong
mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu,
rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của
mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
"Khi
nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta.” Khi Chúa Giêsu bị treo lên,
Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được
bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì
chúng không biết việc chúng làm.” Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt
vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:"Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên
đàng với Ta.” Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và
người đội trưởng thốt lên: "Qủa thật người này là Con Thiên Chúa", vì
họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá
Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong
Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng
chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là
suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu,
nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
9. Từ bóng tối tới ánh sáng
Mỗi
khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của
nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời
điểm khác nhau:
Lần
thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa
Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần
thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa
Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản
đối quyết định đó với ý kiến rằng: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết
án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7, 15)
Lần
thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu
bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: " Ông
mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài
Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người
Do Thái." (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm
nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua
một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần
ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở
lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu
khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25).
Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu
vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm
ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng
nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết
điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm
điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông
đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông
là một thủ lãnh của người Do thái( x. Ga 3,1).
Tức
là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông
là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ
cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm
lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên
ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không
thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn
nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không
phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa
Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa
Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất
dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất
nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng
thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có
thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì,
nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã
đi qua.
Lần
xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một
người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần
xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng
rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần
xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có
lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược
và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí
của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để
gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó
được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1.
Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự
sống và là Sự Sống.
2.
Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự
sống ấy.
3.
Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
-
Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
-
Đó là hành trình của Mùa chay.
-
Đó là hành trình của hoán cải.
-
Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự
chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.
10. Hãy đến cùng ánh sáng – Lm.
Ignatiô Trần Ngà
Hôm
ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô:
“Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự
thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được
thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ
bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui
thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ
bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong
các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ
bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có
thời cơ hành động.
Đêm
đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ
bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế
nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì
các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga
3,19-20)
Trong
khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh
sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong
đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng
lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên
những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều
ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung
quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí
nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người
Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi
phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức
thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái
lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi
trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá
nên xứng danh con người.
Giai
thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội
dung nầy.
Lúc
còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết
với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết,
cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân
mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha
ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn,
nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ,
ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời
nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ
ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến
trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học
tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm
nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không
muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung
cửi.
Quá
tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi
học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi
vậy."
Thế
là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc
thánh hiền của người Trung Quốc.
*
* *
Qua
Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời
yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả
thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc
họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và
Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh
sáng."
Xa
lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và
hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến
cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời
Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những
vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy
Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn
vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin
cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần
"đèn.”
11. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan,
CSsR.
Chân
lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được
Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm
xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh
tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin
Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức
Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng
sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình
yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên
Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát
ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai...
Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để
cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành
suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều
an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính
khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên
thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới
bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả
mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá,
sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy
ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá
nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững
trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng
thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống,
cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài
đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình
yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ
hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống
hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết,
ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không
bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những
gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy
cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc
chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta
đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép
uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể
từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể
quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình
vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm
nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét
lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan
đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả
qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào
cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi
nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
12. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
(Trích
trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Xưa
kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng
bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như
nấm khắp triều đình.
Các
hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều
đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng
mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua,
để chết thay cho vua.
Nhà
vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân
lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả
triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián
vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày
nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm
từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị
hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe
tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi
không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem
có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời
nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan
lớn trong triều.
Nghe
tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng
quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin
đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai
vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng
như bãi tha ma!
Bấy
giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên
do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch
bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng
người!
*
* *
Cuộc
đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho
người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy
mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy
sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời
ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm
cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị
rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy
giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để
làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu
sống.
Ngày
nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không
thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác,
đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như
ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên
Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một
yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều
không thể tưởng tượng được.
Nhưng
tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn
lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi,
không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi,
Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức
Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu
Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót
và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã
cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống
lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế
là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình,
chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng
ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại
được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời.”
Thật
là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện
xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu
thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công
trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
13. Yêu đến quên mình
(Suy
niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Khi
yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải
chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải
đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có
một anh chàng nói với cô gái:
-
Nếu mình chia tay em có buồn không?
-
Đương nhiên là có
-
Buồn đến mức độ nào?
-
Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
-
Vậy mình chia tay đi “!
Hóa
ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ
chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là
tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn
kia bỗng dại khờ.”
Thế
nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải
sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ
không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất
hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời.”
Thực
ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng
chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể
cả hy sinh tính mạng mình.
Một
học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều
mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
-
Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
-
Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
-
Nhỏ nói gì với mày?
-
Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn.”
Cái
chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình
yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ
không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống
chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh
phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến
mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.”
Đây
chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn
chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã
yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính
Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao
quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu.” Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối
cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy
ra.” Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc
cho người mình yêu.
Thiên
Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên
từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao
hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp
tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem
ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần
Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi
chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng
chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói
ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
14. Như hoa hướng dương – Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền
Có
một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của
nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ
cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò
nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan
hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính
đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn
che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất
chính và tội lỗi.
Thường
tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân
thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai
cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành.
Thế nhưng, "lực bất tòng tâm.” Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối
của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của
giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong
những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con
gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu em,
nhưng đừng cho ai biết.” Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền
nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn
còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ", của vô luân
thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi
và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều
người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất
đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời
Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng.” Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu
ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng
đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời áng
sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản
án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn
loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi.
Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con
người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại
tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện
của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng
tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con
người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa
chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u
mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm
hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng
ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa
lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa
đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một
lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị
bệnh. Ông kể rằng:
Khi
đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy
nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện
tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị
tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới
khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi
không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi
bại xuội.
Chứng
Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen
những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với
những tiếng thì thầm yêu thương.
Con
xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con
miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con
cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành
và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách
thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi
buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm
việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và
mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy
Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước
khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước
gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để
đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ,
che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.
15. Nô lệ tự nguyện
Ngày
nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một
nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến
từ " luật" vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ
tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do,
được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài
đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và
làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do
nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách
Babilon.
Đức
Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến
trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình
thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin
hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ
được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người
thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là
người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi,
muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống
buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức.
Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng,
có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên
Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ,
trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: "Chúng tasống dưới chế độ Lề luật
nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do..” Lề luật Chúa không làm cho chúng
ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì
phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện
và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là
người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì
ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì
không mấy ai thích: " Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy.” Và điều này sẽ
làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường
lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:" Sự Thật sẽ giải
phóng các con." Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một
cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ
luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng
ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi.
Cũng như Krisnamuti nói: "Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng
ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do."
Lạy
Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý
Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn
chúng con. Amen.
16. Phận người yếu đuối và tội lỗi
(John
W. Martens - Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để
lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một
trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc
thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá
hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên
niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân
chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của
Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên
dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn
công họ.
Quân
Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng
chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối.” Tài sản và của
cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức
tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị
bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế
rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại
đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được
trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà
vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương
của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã
nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.” Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm
tối sang miền ánh sáng.
Chuyện
Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây
đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người.
Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về
và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới
cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi
cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần
hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây
chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô
đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì
tội lỗi của mình.” Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì
chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa
xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức
Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng
nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô.” Tất cả những chuyện
này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh
Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh
em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của
Chúa.” Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng
tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà
tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc
cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là
“quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình
ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm
các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra
thực hành.”
Trong
Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không
phải hư mất, nhưng được sống đời đời.” Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động
từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín
hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì
đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự
sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước
trời” với Đức Ki-tô.
Chính
Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi)
vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động
trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là
họ đã làm trong Thiên Chúa.” Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta
được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những
ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa.
Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi
Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn
cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với
đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể
hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong
Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được
ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng
thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên
Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.
17. Nhìn lên Thập Giá
(Suy
niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bất
cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa
của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa,
dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp
nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu
ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn
bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được
khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ
về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như
vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa
bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả
quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.”
Quả
thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai
tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người
trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ,
thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai
bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên,
treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta
chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái
lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn
rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết
thưa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi.” Trước lời
khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên thiên đàng.”
Trước
khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình
khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: "Mày
đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!
Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” Như vậy, dầu
sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối
nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba
thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành
thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh
thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một
tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy
thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai,
nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như
vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người
trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn
giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập
giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối
cải của chúng ta ngày nay?
Kể
từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã
trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không
ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi
kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử
của mình nữa.
Thánh
giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà
của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa
Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy,
nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba
đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến
của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong
nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình
con cái của Thiên Chúa.
Khi
chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ
thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng
ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta
ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối
cải của chúng ta.
Đúng
thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình
trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không
nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại
dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự
bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó
là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong
Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành,
nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì
kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
18. Thiên Chúa yêu thế gian
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên
Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là,
Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi
con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất
trung
Dân
Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã
tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho;
Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ
làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của
Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân
Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng
dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán,
các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng
theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên
Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các
tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa
đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy
để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng
vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của
mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái
trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là
Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê
hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường
người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn,
người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị
oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ
của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người
vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm
cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta
thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là
Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực
vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần
không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và
muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu
nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương
tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên
Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương,
Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp
để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên
Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế
nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ
ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì
chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời
đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình
yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người
nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm
người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và
có sức thuyết phục hơn.
“Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng
tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa
kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được
chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở
lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên
Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói
theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng”
để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có
tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối
không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu
thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô
biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu.
Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính
hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người
đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ
1.
Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2.
Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3.
Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
19. Tuyệt vọng trong hy vọng
..". ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
Phật
giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho
đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc... Đây là
một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với
cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng.
Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng
mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó
chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin
Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy
vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô
dạy, "Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Với tôi,
sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào
lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự
chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi
tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao
sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt
vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy
vọng: ..".ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời"(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn
rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người
đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực
tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước
đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và
cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa
Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: "Tôi không
chết, tôi đang bước vào sự sống.” Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm
tin về cái chết của mình rằng: "Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi,
lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai.” Quả thế,
với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi
chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên
Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong
thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch
cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa
làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến
thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin
tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng
mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
20. Chuyện thưởng phạt
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa
hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại
nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái
nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là
Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt
dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn
thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời
mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân
loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá
nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm
tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế
chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong
các trang Kinh Thánh.
Thiên
Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền
năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư?
Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện
dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta
hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa
với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa
cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay
nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính
sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để
có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì
hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế
gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà
được cứu độ.” ( Ga 3,15 ).
1.
Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không
thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp
phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa,
dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta
cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý
nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ
lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng
Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có
nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh
con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối
với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không
kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu
hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau
hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và
“hữu sự thì dễ vái tứ phương.” Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó
với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của
người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì
“gian nan rèn nhân đức.” Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta
rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ
giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông
đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em
được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa;
cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” ( Ep 2,8-9
)
2.
Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần
Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B
này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh
Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người
thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” ( Tv 136 ), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân
suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản
nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường
bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất
trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi
chúng” ( Hs 14,5 ). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài
người. Phật đã bỏ loài người.” Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có
người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ
loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu
lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa
ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” ( Ep 2,4 ).
Thiên
Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật
chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu (
x.1Ga 4,8 ). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (
x.Rm 8,39 ). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta
phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên
Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng
ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng
ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng
ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
21. Tin Chúa - Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc
sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng
giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có
niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả
của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên
thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào
tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau.
Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không
vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn
gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường,
vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được
giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn
vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng
qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm
tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật
chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo
khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau
nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác
nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn
giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa
tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai
cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus
sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa
danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một
ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có
nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước
mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng
giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba
lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ
tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không
hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở
trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa
soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách
phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện
hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo
đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua
cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui
bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường
than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống
hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn
cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc
Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng
mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an
táng.
Nicodemus
có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết
đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
22. Đón nhận ánh sáng – Peter
Feldmeier
(Lm.
GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu
của Ngài” (Ga 3,16)
Có
một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để
quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó
trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người
thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ
trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế
gian” (3,19).
Ngài
còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô
lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi
nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm
sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong
đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con
rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai
tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời.” Sau này, như được nhắc đến trong Tin
mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các
ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của
Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”
(12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu
Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng
điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi
cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được
cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài”
(Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa
dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của
Ngài.” Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên
Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho
con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình
ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên
Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với
Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin
mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào
Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng
tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc
chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa.” Nhưng đây không phải
là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của
Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức
tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin
Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào
trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26).”
Trong
Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu.” Hai phạm trù
này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận
quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài.
“Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu
của Thầy(15,9).” Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em,
anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34).”
Bạn
đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật
chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến
bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ
trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến
độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm
hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm
đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như
vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập
giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin
vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của
Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một
người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay
để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá,
Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
24. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch
phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng,
màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong
ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u
buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong
thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: "Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những
ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi
vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để
thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ.” Tin vui trọng đại này mặc dù được chính
Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước,
mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật
vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều
phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một
cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy
được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân
loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy
nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa
chay.
Lợi
dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó
trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu
hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu
thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày
tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư
hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình
thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước
vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà
Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời
chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc
phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài
đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả
hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao
nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong
chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang
xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung
thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng
lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng
như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: "Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến
thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” Noe, Abraham
hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân
loại. Và để chứng tỏ rằng: "thời kỳ đã mãn"; nghĩa là ơn cứu rỗi do
Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay,
khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: "Như Môisen đã treo con
rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất
cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời.”
Quả
thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng
trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để
cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến
cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất
cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát.
Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng
yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến
Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì
hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng
chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó
và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính
vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: "Thiên Chúa sai con một
của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian
nhờ con Ngài mà được cứu độ.”
Tất
cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần
duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có
mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội
lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: "Ai tin thì sẽ không bị lên án,
còn ai không tin sẽ bị kết án." Những người không tin không phải là bị kết
án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình,
giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu
nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng
rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ
quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết." Nghĩa là
một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc
làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ
đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên
cho chúng ta một bài học lớn.
Một
bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó;
đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống
hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi
kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có
trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có
quần áo để mặc?
Chúa
sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là
chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ
không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ
hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không
hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì
để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên
cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người
láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang
vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời
trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng
đắn.
Còn
ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì
nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này;
đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố:
"Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.”
Chúng
ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể
cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi
người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của
mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình
thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
28. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Một
câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi
ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu
ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương
truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non
sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày
tháng cứ dần trôi. . . Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không
có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên.
Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó.
Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về
vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người
chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài
đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng
thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng.
Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để
giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ
cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó
lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái
bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ
ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi
miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình
chung thủy của vợ chàng Trương.
Người
chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra
được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không
cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng
bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình
nữa.
Chúng
ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô . Ông nầy
là ai? Ong là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết
nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết
những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những
gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi
ánh mắt đi tìm ánh sáng.
Những
cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật.
Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không
mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi
Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả
những gì là của ông, chẵng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước
chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẵng hay biết.
Sánh
về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự
hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ
nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để
nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm.
Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã
dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn
chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo.
Thiên
Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được
chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta
vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Công việc không thể; Vì
chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai
chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện
ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ
trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta,
qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua
những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta.
Đôi
khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm
chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình,
mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta
đã can đãm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn ,
biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được
Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng
ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng
năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của
Ngài.
29. Thiên Chúa yêu thương
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa
đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi
Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường:
Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi
nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập
trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn
thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn
trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây
thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy
Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn
bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào
cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại
Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá
đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc
cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay
cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự
do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu
chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa.
Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng,
treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn
đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa
rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một
biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu
chuộc chúng ta.
Đúng
thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm
thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con
người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận
chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của
tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây
là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng
hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu
thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào
Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài
bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì
các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng
đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất
cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi
vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi
đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ
tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã
làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
30. Ánh sáng thật
(Suy
niệm của Lm. Bar. Lê An Phong, SDB)
Tin
mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta
về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa
với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là
việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời.” Ở hồi kết (Ga 3,
14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con
Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose
với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông
điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính
Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về
một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến
trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là
việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con
Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu
kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự
dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế
gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người,
mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã
định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ
hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận
Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô - Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình
yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng
tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời
Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa
Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai
làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm
khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên
hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3,
19-21).
Chúng
ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện
như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an
và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù
sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì
chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận
phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha
thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời
Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi
lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em
mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu
mọi thời và mọi nơi.
Lời
Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng
Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến
cùng Ánh sáng.” Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa
và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em
và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ.
Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc
chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng
chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của
Mùa Chay năm nay.
31. Nhìn lên ánh sáng
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong
sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra
cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên
Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị
rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm
nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi
ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị
treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1)
Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết.
Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho
toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết
mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh
giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một
mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như
một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài,
đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã
làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi
khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả
tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương
tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự
do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng
bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được
cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2)
Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của
Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người
tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu
đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một
mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của
Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà
Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn
lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính
Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng
đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà
Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng
thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của
Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3)
Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có
thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải
nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội
lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội
lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối,
chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm
trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới
miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội
tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi
chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn
lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu
thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người
Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn
sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải
thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng.
Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát
lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều
cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những
ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên
với Chúa.
Lạy
Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi
đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm
trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2)
Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3)
Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá
trong mùa Chay này không?
32. Chuộng tối hơn sáng
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Cúp
điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong
bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một
cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc
hậu, thiếu văn minh.
Ấy
thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê,
của sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che
đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó
sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa."
Ghét
ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người
được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm
khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ
vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối
này thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần
thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với
ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô
lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng
trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta
đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ
có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn
lên...
Dân
Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng
treo trên cây gỗ.
Ngày
nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức
Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập
giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một
tình yêu.
Kitô
hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình
yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng
sống mình.
Nhiều
nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui
hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức
Giêsu trên Núi Sọ.
Ước
gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa
tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Trong
tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn
hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong
đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế
giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang
rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
Tạ
ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những
nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ
ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một
trách nhiệm nặng nề.
Xin
cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn
phiền và thất vọng.
Xin
cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy
Chúa Giêsu,
cuộc
chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng
chúng con.
Ước
gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
33. Yêu thương tha thứ
1.
Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà
càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người
tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương
dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc
khải... tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một
thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho
loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức
Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu
thương, tha thứ cho loài người.
2.
Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu
nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn
đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: "Như Môsê đã giương
cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy.”
Hẳn
chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn
mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái,
cho cột mây, cột lửa dẫn đường ; đói có mana, có chim cút ; khát có nước chảy
ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa . Một
lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc
cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với
Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc
cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần
này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha
thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương
xót.
Nếu
con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa ,
thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là
lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối:
"Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian,
nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ.”
Đọc
Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi
người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay
trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ
nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải,
dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ
tha thứ tất cả.
3.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện,
ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích.
Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo
tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của
nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng
nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy
sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha
thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha
mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống...
Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta
sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng
làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4.
Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em
chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó
phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã
đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng
nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái
"tôi.” Cái "tôi" tự ái, cái "tôi" tự cao, cái
"tôi" bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà
chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái "tô" hẹp
nòi như đã nêu trên.
Muốn
tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ
quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho
anh chị em của minh! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người
không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không
nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót
của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5.
Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu
mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui
Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến
với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa
Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.
34. Sự thật đổi mới chúng ta
Trong
cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban
Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho
chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể
lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về
đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để
cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh
sáng về con người của chúng ta.
Thật
khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên
một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra
cuộc sống ấy như thế nào.
Có
những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan
trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như
vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó.” Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm
thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm
lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi
chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm
tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì
ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta
có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của
cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không
còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng
thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi
sự!.” Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng
mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng
gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến
với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự.
Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của
chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin
Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà
đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không
tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi.
Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một
lời mời gọi sống.
Vậy
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi
con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật
về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên
Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống
theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có
lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh
nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được
sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra
Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng
trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ
niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy
một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin
Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết
án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật.
Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy
mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án
mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu.
Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới
để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa
Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống
vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ
khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống
vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của
chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của
những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng
ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
35. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thánh
sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí
nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu
thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu
những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay
tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc
đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật
lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các
giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền
ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của
“Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang
lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức
tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được
biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh
Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở
đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở
trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho
đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu
chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô,
nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1)
Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho
Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn
và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm
người.” Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã
hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại:
“Con Người phải được nâng lên cao.” Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập
giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một
đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân
Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy
cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên
cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử
gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho
hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2)
Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi.
Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân
dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều
kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và
cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy
đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối
nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự
tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin
nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày
của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của
tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên
Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi
và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng,
nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai
hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
36. Tình yêu lớn nhất
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có
rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc
biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt
thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người
Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm
có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá
này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị
linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng
như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào
tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú
tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều
tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá
và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát.
Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho
anh nữa!.” Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối,
thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa
Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh
mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người
này chứ không phải ngươi.”
Từ
đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng
mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá
đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì
thầm: “Ta không hề kết án con.”
Anh
chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức
Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha
thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường
tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con
của Ngài mà được cứu độ.” “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế
nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài
sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời.” Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn
cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương
cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy
đều được cứu sống.
Thánh
Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để
ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Thiên
Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong
Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu.
Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi
“trao ban.” Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn
trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất
cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân
loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và
cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc
Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt
khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm
Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời
đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài
người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa
anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào
tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định
đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết.
Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh
sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình
trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản
nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập
giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương
chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài
chết thay cho chúng ta.
Hãy
nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác
độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên
Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư
tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái
lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi,
tin yêu hơn.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng
biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha
thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều
hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt
anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa
xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một
lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy
xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội
nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương
ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
37. Người thợ săn trên trời – ĐGM.
Arthur Tone.
Một
trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn
Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh
Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu
chuyện đời tư của Thompson.
Khi
còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha
ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó
hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột,
kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô
gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt
thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng
chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin
Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một,
để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời.” Cha
trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con
yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn
Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn.
Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm
sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên
trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi
ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu
Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người;
tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên
Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3).” Trước khi có thế
giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao
trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong
tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống
của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành,
thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ
Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và
rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của
nấm mồ.
Một
lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên
Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với
tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu
nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong
mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước
chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
38. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian
bằng tình yêu.
(Suy
niệm của Noel Quesson)
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền
thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang
sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng
cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và
nói:
-
Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ
đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ
Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
-
Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa
đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
-
Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi
thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là
một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công,
Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó
chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác
ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà
thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu.”
Chúa
Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta.
Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự
sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một
của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết
để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho
trần gian nguồn sống.
Nhiều
người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu
gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy
vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập
thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta
lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ
v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu
thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu
vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì
Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên
Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga
3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình
mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm
2,4).
Khi
con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên
Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục.” Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do
của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị
luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi.” (Ga 3,17-19).
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ
mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
39. Lòng tin
Đang
khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh "con rắn đồng"
trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong
Môisen theo lệnh Chúa dẫn "đám dân nô lệ" ra khỏi Aicập về Đất Hứa,
trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng
chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành
của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng
nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn,
không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù
phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người. Họ cố chịu đấm để được
ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng
dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều
người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa
bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì
nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. "Cũng như ông
Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời " . Chúa
Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng! Ngài sẽ phải bị treo lên
cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy
bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa
dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa
nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn
đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ
đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn
sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa
con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những
ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh
chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc,
ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng
ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy
ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha
thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình
thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm
tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn
tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ
luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản
thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã,
chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ
cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.
40. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần
Bình Trọng.
Đọc
Thánh kinh Cựu ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách
phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn
ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người
cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa
bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ
toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân
ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy
nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các
ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi
dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa
về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện
bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai
hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được
viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn
về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác.
Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa.
Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho
tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù
đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng
ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép
dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy
vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua
xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy
những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc,
thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc
âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc
trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần
ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến
giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo
trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con
rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo
con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai
tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16).
Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên
trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương
xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người
cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người
ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách
khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát
khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất
là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ
Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc
dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những
người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ
Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những
chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại
sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống
hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến
người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình
giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ
dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì
bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt,
có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không
phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử
dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được
chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới
như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông
như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người
ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống
của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến
Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên
Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình,
thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ
thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm
đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời
cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy
Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa
trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng
vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu
cho loài được sống.
Xin
cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp
nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với
quyết tâm cải thiện đời sống
hầu
trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
41. Người thợ săn.
Có
một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì
lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen
với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống
bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi
xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa
lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông
có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh
nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời.”
Ông
cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao?
Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác
với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là
để cứu sống.
Từ
mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã
xác quyết:
-
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những
ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm
sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và
chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình
yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến.
Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không
phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội
lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho
tất cả chúng ta.
Tình
yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi
vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi
có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi
mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn
nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời
này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì
cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì
tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu
độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng
ta lên rước lễ.
Và
sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một
Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra
là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên
thập giá.
Từ
tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi
dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay
này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và
trở về với Ngài.
42. Thích gì.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội
chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu.
Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy
tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những
hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều
chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang
làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng
sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi
phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu
về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi
dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma
đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì
lại không làm được.
Trong
thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào
ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy
ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta.
Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã
không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc
xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm,
giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận
những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng
ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng
thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong
cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi
và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá
sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên
Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã
vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy
Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội
lỗi và nết xấu của con.
43. Yêu Chúa.
Chúa
Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con
rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do
Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách
Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số
người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không
phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán,
họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi
họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn
quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào
Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người,
khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu
với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con
rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn
đồng này thì được cứu sống.
Thật
ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả
năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta
chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào
Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin
mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô:
“Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế,
để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi.” Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái
chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội
cho nhân loại.
Nói
rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn
đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng
ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh
phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của
mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa,
thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan
gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của
một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến
chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia
nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức
rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự
cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở
ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay
cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con
đường cứu độ của Chúa.
Như
vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì
mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ
ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào
thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người
này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha
mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn
bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học,
cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin
tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói
chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương
yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên
hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn.” Như
vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin
trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng
thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào
Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình
chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy
là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn
rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết,
chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần
gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của
lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta
yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình
yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng
ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay.
Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những
người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu
chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi
Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
44. Con rắn
Khi
đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con
rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ
thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường
về miền đất hứa.
Bấy
giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống
như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã
trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy
nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn
đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn
đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về
bản thân mình.
Thực
vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với
ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong
Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám
chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự
Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong
cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về
với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống
của Ngôi Lời lúc nhập thể:
-
Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai…
Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức
Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính
Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng
ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức
Kitô trên thập giá.
Những
người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng
thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã
được thoát chết.
Chúa
Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều
lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng
ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên,
theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ
lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ
cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên
Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ
cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ
nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời
hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
-
Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi
sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu
thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy
nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và
được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
45. Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để
ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng
ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản
tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều
đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc
cứu độ.
Đôi
khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau
đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên
Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng
trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung,
giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ
của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng
Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với
chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên
Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa
hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa
không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến
khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng
hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi
tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn
này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình
yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành
riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho
những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng
đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy
yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán
xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu
được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã
tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi
cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không
chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần
kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày
nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa
nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói
“Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị.” Hướng dẫn viên
trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần
phải xét lại về những người nhìn vào chúng.”
Phản
ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là
cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa
thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những
người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt,
bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt,
tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật
khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của
Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của
Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp
nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng
đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì
Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
46. Tiến vào ánh sáng
Thánh
Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh
sáng.” Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào
suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ
phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng
trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông
thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội
tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng
ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến
làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm
ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an
bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm
nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng
ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ
chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong
thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả
cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng
ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa
trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa
Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ,
nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm
lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng
ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah,
nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng
này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi
bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại
đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác
tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người
Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống
theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200
người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc,
một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn
họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành
những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất
cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những
ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động
của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta
bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng
ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng
ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong
tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến
mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang
tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng
ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng
tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách
sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự,
thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người
nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối,
nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu
tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ
xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không
một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ
chiếu tỏa trên chúng ta.
47. Ánh sáng và bóng tối
(Suy
niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Những
ngày này quanh quẫn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê
nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng
có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với
cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa
mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm
đọc một vài tin tức địa phương để 'thư giản' vãn thời gian, điều đầu tiên đập
ngay vào mắt là chuyện dài... cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc
tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như
có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có
ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật
vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo
chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào
nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một
cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với
móc câu trét đầy 'keo dính chuột' cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ
vô ý bỏ quên!
Đau
đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là
'đầy tớ nhân dân': đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến
man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ
hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền
hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi
chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay
cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ
khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa
buông xuống. Thương ôi! "Người chết hai lần..."
Khi
xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội
giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn
nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con
người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó
có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: "Khi Thiên Chúa ra đi,
tất cả sẽ ra đi." Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn
từ biệt: "Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn
giáo."
Thiên
Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào
Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia
bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với
thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống
như Con Một Chúa là phải luôn "yêu sự sáng" và "đến cùng sự
sáng" bằng "hành động trong sự thật.” Ở đây, sự thật đã thật khó tìm
mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân
trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một
chốn củ nơi xưa!
49. Cho là cõi phúc – Lm Vũ Đình
Tường
Cuộc
đời chúng ta vừa học cho vừa học nhận. Nhận để làm giầu và đồng thời cũng là
nhận để cho. Nếu chỉ cho mà không nhận hẳn nguồn cho sẽ cạn dần, cuối cùng
không còn bao nhiêu để cho. Vì thế cần phải vừa cho vừa nhận. Nói về của cải
vật chất trần thế là thế. Tuy nhiên lí luận hợp lí này không đúng với tình yêu,
tình thương và lòng mến con người dành cho nhau. Tình yêu, lòng mến, tình
người, con người dành cho nhau không bao giờ cạn. Trái ngược hẳn với của cải
vật chất trần thế. Trong tình yêu càng cho đi nhiều chừng nào thì nguồn tình
yêu càng triển nở chừng đó. Nguồn tình yêu sung mãn đến độ không bao giờ cạn.
Nguồn tình yêu khô cạn, héo hắt là nguồn tình yêu tích trữ. Càng tích trữ nguồn
tình yêu càng khô cạn. Tựa như giếng nước trong. Một khi không múc nước, nước
giếng vẫn không dâng cao hơn, vẫn không tràn đầy trái lại nước giếng trở nên
hôi, bẩn, chứa nhiều vi khuẩn trở thành nước giếng tù hãm, ô nhiễm, độc hại.
Trái lại nước giếng trong sáng nhờ có người múc nước hàng ngày. Múc cạn hôm sau
nước lại tràn đầy. Cứ thế nước giếng đủ nước cung cấp cho cả làng. Mọi người
được tươi mát nhờ nước giếng được múc cạn mỗi ngày.
Tình
yêu tích trữ chính là tình yêu tù hãm, loại tình yêu ô nhiễm này độc hại vì nó
chỉ biết yêu những gì thuộc về nó mà loại bỏ tình yêu không thuộc về nó. Loại
bỏ tình yêu khác chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo của loại bỏ chính là tàn phá, giết
chết các tình yêu không thuộc về nó. Nguồn gốc của độc tài phát sinh, thúc đẩy
bởi loại tình yêu loại bỏ. Những gì không thuộc về nó thì không thể tồn tại.
Nếu tồn tại nó không sống yên ổn nên cần loại trừ, triệt tiêu. Nói cách khác
tình yêu tích trữ là tình yêu ích kỉ. Bản tính ích kỉ là luôn lo thu quén, gom
góp cho chính nó và yêu quí những gì thuộc về nó. Yêu chính nó trên hết mọi sự
nên nguồn tình yêu nào không thoả mãn tính ích kỉ đều bị loại trừ.
Trong
tình yêu, cho đi chính là làm cho tình yêu triển nở, làm giầu tình yêu bằng
cách cho đi. Đây không phải là phí phạm mà chính là tạo cơ hội thuận tiện cho
tình yêu nở hoa, kết trái. Hoa trái của tình yêu không thành tựu nơi người cho
hay nguồn tình yêu xuất phát. Hoa trái tình yêu thành tựu nơi người lãnh nhận,
nơi nguồn tình yêu được trao đến. Dâng hiến, cho đi làm giầu cho tình yêu, tạo
cơ hội cho tình yêu đơm hoa, kết trái.Theo nghĩa này trao tặng tình yêu chính
là cho sự sống, đổi mới, làm cho tốt hơn. Đây chính là ý nghĩa câu Kinh Thánh,
Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban cho Con Một Ngài, để những ai tin vào
Người Con sẽ không phải chết nhưng nhận được sự sống trường sinh. Gioan 3,16.
Cho
đi những gì dư thừa, không thích, dù vẫn còn tốt, vẫn mang lại lợi ích cho
người nhưng có khác chi nhờ người dọn rác dùm. Cho như thế không phải là cho
một cách chân thành. Cho đi điều mình yêu quí, ưa thích, ấp ủ thật lòng như thế
mới thật sự là cho đi. Ngoài ra đều không phải là chân thành. Dâng hiến tình
yêu một cách tự nguyện, không điều kiện ràng buộc, không mong đền đáp chính là
mối tình Thiên Chúa trao tặng nhân loại. Vì trao tặng nên không ép buộc phải
đón nhận. Ai đón nhận thì được hưởng hoa trái tình yêu Chúa ban, đó là sự sống
mới, sự sống trường sinh. Ai từ chối đồng nghĩa với từ chối sự sống trường
sinh. Bởi vì từ chối sự sống trường sinh đời sau nên người ta tranh nhau tìm
kiếm sự sống tạm bợ đời này. Để được sống an nhàn người ta bắt người khác phục
vụ họ. Để được sống hoan lạc người ta đi tìm lạc thú qua mọi thú vui trần thế.
Để được phục vụ cần có người phục vụ và tất nhiên cần tiền chi tiêu cho người
cung cấp dịch vụ. Tranh nhau vì tiền từ đó mà ra. Nguồn gốc chính là từ chối sự
sống đời sau, sự sống trường sinh Chúa ban. Vì thế Kinh thánh ghi tiếp những ai
từ chối đón nhận Con Một Thiên Chúa là tự mình chọn sự sống đời này để rồi chết
trong tuyệt vọng. Nói cách khác là tự chọn cuộc sống ngắn ngủi đời này. Chọn
sống trong sợ hãi, u sầu vì sợ thần chết đến bất tử.
Chọn
tin Con Một Thiên Chúa hay chọn từ chối không tin cùng sống trong một xã hội,
một thế giới nhưng có sự khác biệt. Kitô hữu tin vào Thiên Chúa nên học từ
Thiên Chúa là cho đi để được nhận lãnh. Hành động bác ái, yêu thương chính là
cho đi để tình yêu được đong đầy.
50. Nhìn lên Thập giá
Bất
cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa
của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và
trách ông Môsê. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy
vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu
xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị
rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể
lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị
treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho
bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau
khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
đời đời.”
Quả
thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai
tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người
trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ,
thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai
bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên,
treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta
chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái
lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn
rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết
thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Trước lời khẩn
nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên thiên đàng.”
Trước
khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình
khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng
chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng
ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” Như vậy, dầu sao
trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng
nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được
tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm
nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội
và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ
thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá,
anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh
mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như
vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người
trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn
giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập
giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối
cải của chúng ta ngày nay?
Kể
từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở
thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có
thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của
Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của
mình nữa.
Thánh
giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà
của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa
Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy,
nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba
đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến
của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong
nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình
con cái của Thiên Chúa.
Khi
chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ
thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng
ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta
ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối
cải của chúng ta.
Đúng
thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình
trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không
nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế. Chỉ khi nào cho mình là dại
dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự
bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó
là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
51. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
Lòng
yêu thương tha thứ của Thiên Chúa
Tại
một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ
chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra
phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện
kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội
nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe
nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân
lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:
"Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng
tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau
khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội
nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với
Chúa. Tôi không tha!.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân
đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của
Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục
nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho
người này chứ không phải con.”
Kể
từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ
tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta,
các ngươi sẽ được tha thứ.”
Lòng
yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với
trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho
đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng
tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình,
nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một
lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc
bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa
Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ
giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để
càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là
gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của
Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy
câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào,
con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu
tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc
anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập,
bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán
trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc
cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình,
và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con
rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng,
sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó,
lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu
sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình
ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng
được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng
tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa
đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng
được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của
Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho
nhau.
Lòng
tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người
Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha
thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.
Trong
mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu:
"Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần
gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ.” Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra
tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa
Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay,
trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự
hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù,
tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những
ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là
yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm
sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn
tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không
biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ
ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của
Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có
thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không
có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa
yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy
lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên
Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng
chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được
giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết
ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa
mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy.”
52. Suy Niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu.
Ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng
được sống muôn đời
Trong
nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do-thái và
cũng là “bậc thầy trong dân Israel” đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Các nhà chú
giải Kinh Thánh giải thích rằng hoặc ông là người vị vọng trong dân Do Thái,
lại là tiến sĩ luật, phái Pharisêu, sợ dư luận, nên đã đến gặp Chúa Giêsu ban
đêm, để tránh những cặp mắt dòm ngó, những lời đàm tiếu. Hoặc ông là môn đệ đầu
tiên bắt đầu tin theo Chúa một cách kín đáo, chưa dám công khai. Một cuộc gặp
gỡ kỳ lạ đã đưa Nicôđêmô, một người khát khao chân lý và ánh sáng được gặp thấy
chính Đấng đã phán: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống“ (Ga 14-16). Trong
đêm tối của tội lỗi, trong những thao thức băn khoăn đi tìm chân lý, Đức Giêsu
đã mạc khải ”vén bức màn” bí mật của chương trình cứu độ của Thiên Chúa can
thiệp vào lịch sử của nhân loại.
Trong
Tin Mừng của thánh Gioan, Nicôđêmô còn xuất hiện hai lần nữa. Một lần trong cuộc
tranh luận về nguồn gốc của Đức Kitô: ”Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là
Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Chúa Giêsu, ông nói với họ: Lề luật của chúng ta
có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?”
(Ga 7, 50). Lần sau cùng vào buổi chiều ngày thứ sáu chịu nạn, Ni-cô-đê-mô cũng
dự cuộc liệm xác của Đức Kitô: “Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược, trộn
với trầm hương“ (Ga 19-39).
Trong
cuộc gặp gỡ với Nicôđêmô trong Tin Mừng Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm phụng vụ B hôm
nay, sứ điệp quan trọng nhất mà Thiên Chúa muốn mặc khải cho tất cả những tâm
hồn đang khao khát sự thật và ánh sáng chính là: ”Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Vì
yêu thương con người đến tột cùng, Chúa Cha đã trao ban Chúa Con cho trần gian,
để trần gian được cứu độ (3,16.35) và được sống (5,24-27; 6,39). Sứ mạng của
Chúa Con là hoàn tất công trình cứu chuộc của Chúa Cha, đưa con người vào sự
hiệp thông hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con. Lịch sử nhân loại, lịch sử dân
Do Thái, lịch sử Hội Thánh hay xác thực hơn, lịch sử của mọi người tín hữu
chúng ta đều là Lịch Sử Ơn Cứu Rỗi.
“Quả
vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian,
nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của
Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không
tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 17-18). Như vậy:
1. Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả
của Chúa Cha(xem
3,16-18; 14,1.10; 17, 21-25; 20,31), là đến với Đức Giêsu và gặp Người
(6,35-37), là biết Người và cùng với Người biết Chúa Cha (10,38; 11,40;
14,7.20). Đức tin còn là một hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha
(6,37.44.65).
2. Tin là nhìn lên Con Người (1,51) được giương cao (12,32) và đặt
trọn niềm tin vào ĐẤNG BỊ TREO LÊN trên Thập giá, Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế muôn
dân trông đợi... Chúa Giêsu nhắc đến câu chuyện ghi trong sách
Dân Số (chương 21, 4-9): trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên
nhẫn đã kêu trách Chúa, nên bị nạn rắn cắn. Chúa đã truyền cho Môsê: ”Ngươi hãy
làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên
con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Con rắn đồng đã trở lên dấu chỉ của sự cứu
sống. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người bị hành hạ và bị treo trên thập
tự giá. Tất cả những ai nhìn lên và tin vào Ngài, sẽ không bị con rắn xưa là ma
quỷ ám hại. Ngày nay, người ta đã dùng dấu hiệu con rắn treo trên các nhà bán
thuốc tây hay dùng trong y học như biểu tượng của sự cứu chữa bệnh tật.
3. Người tin (3,12) bước vào một cuộc sống mới (4,14; 6,27; 17,3). Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng
Mêsia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ (Ba
lời thề hứa trong khi lãnh nhận Phép Rửa). Phải, chính trong đêm tối của tội
lỗi mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng
lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự
sáng, vì việc họ làm đều xấu.” (Ga 3-19).
Tin
là bước đi trong ánh sáng, sống trong chân lý và hành động ngay chính: ”Và đây
là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh
sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh
sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ
sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của
người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 19-21)
Kế
hoạch Thiên Chúa là mỗi người được kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ. Đó là một mầu
nhiệm, Vì, tất cả chúng ta đều đã phạm tội, nhưng nhờ ân thánh, chúng ta được
sống lại, được cải tử hoàn sinh với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Cứ nhìn qua nếp
sống hưởng thụ ăn chơi đàng điếm của những đô thị lớn trên khắp thế giới, kiểm
điểm lại sự sa sút lòng đạo đức cũng như luân lý trong các gia đình di cư,
chúng ta sẽ nhận định rõ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa trong thế giới
hiện nay.
Mùa
chay thánh, mùa ăn năn đền tội sám hối giúp mọi cá nhân tỉnh giấc ngủ say, ý
thức thân phận tội lỗi của mình, sự yếu hèn của bản tính con người, để khiêm
nhượng hơn, để tin tưởng hơn và mở lòng đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa,
lãnh nhận chính tình yêu lớn lao của Ngài.
56. Đón nhận Thập Giá
Chúa Kitô
Thánh
giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà
của người Công Giáo mà còn phải được tôn vinh ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã bị
treo lên để cho mọi người nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi
người. Ngài đã chết cho nhân loại. Ngài đã thể hiện tình yêu tột đỉnh.
Nói
về tình thương tha thứ của Thiên Chúa, người ta thường kể lại cho nhau nghe về
câu chuyện ở một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt.
Đó là Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời
khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Người
ta kể rằng, một lần kia, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với
một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và
ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu,
hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục
đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần
cuối cùng tôi tha tội cho anh.” Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng
và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng
những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có
đùa với Chúa. Tôi không tha!.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối
nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải
của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh
mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: "Ta là người đổ máu ra cho người này
chứ không phải con.” Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh
giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, thể hiện sự tha thứ của Thiên
Chúa đối với hối nhân.
Bước
vào Chúa Nhật 4 Mùa Chay, hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá
Chúa Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Ngài
luôn tha thứ. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường
tội lỗi, quay trở lại để được sống" (Ez 33, 11). Quả vậy Thiên Chúa sai
con một của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng để thế gian
nhờ con của Ngài mà được cứu độ. (Ga 3, 17). Cũng như Môisen treo con rắn đồng
trong Samạc thế nào, thì con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những
ai tin ở Ngài sẽ không phải chết nhưng được sống đời đời (Ga 3, 14). Thập giá
đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ và Đấng bị treo trên thập giá đã trở thành nguồn
ơn cứu độ cho những ai tin Ngài.
Thánh
Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một, để ai
tin con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời" (Ga 3, 16).
Thiên Chúa một lần nữa đã biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta
trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình
Yêu. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể qua sự trao ban. Điều quý giá nhất
của Người Cha chính là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân
loại chính con một dấu yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu
chính là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại. Việc trao
ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Một yêu dấu đến trong
trần gian, mang lấy thân phận con người và cuối cùng qua việc trao nộp Con Một
cho loài người treo trên thập giá. Chúa Giêsu trên thập giá chính là lúc Thiên
Chúa trao ban Con Một của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người một cách
trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy lúc đó chính là lúc Thiên Chúa đặt con
của Ngài làm Đấng ban sự sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải kết án
thế gian nhưng để cứu thoát loài người khỏi chết và ban cho họ thông phần vào
cuộc phục sinh vinh quang của Ngài.
Như
thế, đứng trước thập giá Chúa Kitô chúng ta tin hay không? Tin vào tình yêu
Thiên Chúa hay chối từ. Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta.
Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói: "ai đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi
sống. Ai không tin là từ chối và tự mình đoạ đày mình trong cảnh tăm tối trong
cõi chết.” Thiên Chúa không cần luận phạt nữa.
Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con Một của Ngài. Đó là chân lý cơ bản của
chúng ta. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu là dấu chỉ mà Chúa muốn nói với chúng
ta là Chúa yêu thương chúng ta. Yêu thương con người đến nỗi sẵn sàng để ngưiơì
con Một yêu quý của Ngài chết thay cho chúng ta.
Khi
chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ
thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương Thiên Chúa dành cho tất cả
chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục
chúng ta ăn năn sám hối. Ngài đã chết cho nhân loại để chúng ta được qui tụ vào
gia đình con cái của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy nhìn lên thập giá để thấy
tình yêu bao la của Thiên Chúa. Một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu
vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán và mọi khát vọng của chúng
ta.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô không phải để chúng ta thất vọng vì gánh nặng của tội
lỗi nhưng trái lại để cảm nhận được hồng ân bao la của Chúa để cho tâm hồn được
phấn khởi tin yêu hơn.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô để chúng ta cảm nhận được ơn tha thứ của Ngài để chúng
ta biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Càng cảm nhận được tình yêu tha thứ
của Thiên Chúa chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều
hơn. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha. Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương.
Một lần nữa hãy nhìn lên thập giá Chúa Kitô. Hãy xem đó thì biết phép công
thẳng của Chúa là dường nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là ngần
nào. Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào!
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng tình thương mà Chúa dành cho
chúng con. Xin cho chúng con luôn coi thập giá Chúa Kitô là hy vọng sự sống đời
đời của chúng con. Đồng thời xin cho chúng con biết yêu thương và tha thứ cho
anh chị em chúng con như Chúa đã yêu thương mà tha thứ. Amen.
58. Rắn đồng cứu độ
Trong
cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và trừng phạt,
triệt hạ và tái thiết, lưu đày và hồi hương; lên án và cứu độ, chết và sống.
Các tình huống thăng trầm này thường xảy ra trong lịch sử dân Do thái. Chúng
tiêu biểu cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và cũng là của mỗi chúng ta,
khi bất trung khi nhiệt thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa … khiến
Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (x.
Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một
kinh nghiệm khác, trong hành trình sa mạc tiến về đất Hứa, có lúc người Do thái
đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách, thay vì tri ân thì ca thán
Môsê đã đưa họ vào sa mạc; hình phạt được dựng nên tức khắc để trừng trị kẻ vô
ơn: rắn độc tràn ra cắn chết những kẻ than van. Không có thuốc chữa, họ ngước
nhìn Thiên Chúa và kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc tượng rắn bằng đồng rồi
giương cao nơi hoang địa để những ai bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn đồng, tức thì
được cứu sống (x. Ds 21,4-9). Phương thuốc chữa trị này không phải là ma thuật
bùa chú gì cả, nhưng là hành vi cứu độ do đức tin đem lại, quyền năng của Thiên
Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một phương thế cứu độ nhất thời của Thiên Chúa
đối với dân của Người, tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính sợ,
Người cứ độ và thưởng phạt theo tội phúc mỗi người.
Hình
ảnh rắn đồng được giương cao trong hoang địa được chính Đức Giêsu lấy làm biểu
tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn đồng trong
sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời” (x. Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được giương cao
trên thập giá, hình ảnh con rắn đồng được thay thế bằng thực tại xảy ra, Đức
Giêsu được ví như Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào Thứ Sáu Thánh để
mang lại ơn cứu độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ độc trị độc. Con đường
từ cõi chết bước sang sự sống vươn cao trong mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân
Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử
hành hằng ngày trên bàn thờ: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên
xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến.” Mỗi Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh
Thể làm cho chúng ta sống một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống lại” này,
làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại
và cùng ngự trị với Đức Kitô trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh
thánh ghi lại những bất trung, phản trắc của dân Do thái, những tai ương đi kèm
theo họ mỗi khi họ vấp ngã phản bội, như để sửa trị và gíao dục họ, nhưng mục
đích chính là cốt để làm nổi bật lên lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân
Người. Thật vậy lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên họ đến nỗi
Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình yêu đó: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã
mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được
cất lên trong đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai
những sứ giả của Người đến giữa dân Người để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa.
Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn
tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư để mở cho họ con đường trở về. Trong mọi hoàn
cảnh cho dù bế tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử hợp lý, Người luôn
tỏ ra là Ông chủ lịch sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót thương! Thánh Phaolô dâng
lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến
chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng
sống lại với Đức Kitô” ( c. 2 . Bài Đọc 2). Tin tưởng và tín thác vào tình yêu
Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý
do nào để đánh mất niềm hy vọng được Thiên Chúa cứu độ.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa để cứu độ con, con tri ân
cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con biết trở nên dấu chỉ tình thương
của Chúa đối với anh em con. Amen.
Lời Chúa Tuần 4 Mùa Chay