CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
MỤC LỤC
Lao động và cầu
nguyện Lm.
Gio.M. Nguyễn Thiên Khải,CMC
Sức mạnh của việc
cầu nguyện Lm Giuse Đinh tất Quý
Ngày làm việc của
Chúa Lm Giuse Đinh tất Quý
Cứu vớt con người Sưu tầm
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người,
vừa đen đủi lại vừa xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là một
hình ảnh ấu trĩ mà thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã vẽ
về nó bằng một đường nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền lực
của tội ác.
Đúng thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó đang mở rộng
ảnh hưởng, đang bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa học kỹ thuật,
cho đến sách báo phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim ảnh khiêu dâm,
trình bày những tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc dã man. Chúng ta
hãy nghĩ tới những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương trình phòng thủ
không gian của Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó trên thế giới
biết bao nhiêu người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo không có mà
mặc. Chúng ta làm được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay là chúng ta
để mặc cho quyền lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên với một
vận tốc kinh khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa. Người
ta huỷ bỏ án tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng khi được
hỏi về những vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi được hỏi về
những vụ ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền được sống hạnh
phúc. Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho chúng ta một cái
bộ mặt bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa, cái nền tảng bên
trong. Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục trải dài. Và ai sẽ
chiến thắng được nó?
Tôi xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là Đức Kitô.
Còn chúng ta, muốn chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang lấy vũ khí
của Ngài. Vũ khí ấy là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải chỉ là một
đức tin được thực hành ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ và sống
động, một đức tin vô điều kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, gặp bất
cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối, đồng thời
cố gắng biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể.
Ma quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta đã không
giao nộp cho nó tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ là sức
mạnh duy nhất làm cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng ta được
giải thoát khỏi quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu
là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng
say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những
hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ
của chúng ta. Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã chữa lành
mọi bệnh hoạn tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông đảo. Phải
chăng đây cũng là điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện trong cuộc
sống của chúng ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng nhân sống
động của Chúa và mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của Ngài.
Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa
Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà
Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại
đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh
nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà
cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan
được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc
còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều.
Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng
4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với
chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365
ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu
được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được
vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ
không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng
ta làm cho người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người không đau
khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng
với nụ cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính mình để
đến với người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng
vượt nỗi khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có thập
giá, thế nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra khỏi
chính mình để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người khác.
Không ai quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt
khích lệ, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả tấm
lòng yêu thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải chăng
đó là những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong lúc cho
đi như thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi thì vui
sướng hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang vọng
như một câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc
quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu
muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở
hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau
thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì
thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên
cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu
chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần
xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là
điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các
môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó
nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa
Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau cho
những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau
phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện
dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận
chính yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến
ngày hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ
của mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai
chưa nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống
nữa là chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho
tàng quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như
lời Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi
gì?
Ringhoff là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80
tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người
gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời
khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ
già đã vớt được tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu
vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu
vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào?
Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người
khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc
truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu.
Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn
khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa
Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời
Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được
rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để
cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng,
lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên
đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói
đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục.
Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông
Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để
chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một
lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến
với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị.
Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương
kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm
âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam
cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí,
không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng
của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ.
Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê
tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có
thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình.
Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên
Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với
con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy,
đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì
yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm
thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt
tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh
cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa
không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc
lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như
cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm
học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác.
Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái.
Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt
đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng
con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho
việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế
nào trong đời sống đạo của bạn.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ
dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ
chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”.
Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người:
Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống
thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con
người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi
về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh
tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con
người.
Đau khổ thể
chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do
chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ
siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm
lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân
phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao
đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống đối xã hội, chống đối
Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản
bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau
khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là
con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà
chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên
Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ con người nên con Thiên
Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo
đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con người bối rối âu lo,
bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy
đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!”. Bao
nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn
cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là
mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ
cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”,
đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả
gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con
thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra
là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn
rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ đau khổ siêu
hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống,
mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2. Ai ai có thể cứu chữa tôi
thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn có Đức
Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần gian.
Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức Giêsu
đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của ông
Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết sốt.
Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến làm
cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều
đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng
ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện
trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng
vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến
tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu
mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả
thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp
bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh
tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ,
bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương
của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác.
Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi
giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ
lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người
rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như
lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng
Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và
đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành
phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh
Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
Đức Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho
những ai may mắn đón nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô
thuật lại rất nhiều trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người
trong số đó là bà nhạc gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà
phục vụ các ngài c.31
Tiếng đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin
Người chữa bệnh.
Đức Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều
quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn
đặc biệt, biết mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin
hơn trước. Chương thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị
liệt giường nhiều năm, không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương
khiêng cả giường đến cho Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không
thể chen vào được. Bốn người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại
liệt nằm trên đó. Đức Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh
đứng dậy vác chõng mà về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian
hồi phục, lập tức đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến.
Anh không những được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một
sức mạnh nội tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc
gia ông Phêrô. Bà yếu liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà
đứng dậy phục vụ các ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu
tiên trong Phúc Âm thánh Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác.
Có nhiều thứ bệnh không phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy
hiểm đến tính mạng, làm mất tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc
sống, tự mình không thể tiếp tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà
phải nhờ đến người khác giúp đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh
hoạt trong cộng đoàn. Đức Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ
nối kết lại với những gì trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công
việc, tự mình lo cho mình và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn
đức tin mà có thời họ tích cực sinh hoạt.
Đức Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi
sáng sớm hôm sau Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày
mới bằng việc cầu nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương
trình cứu độ nhân loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô
cũng đã ở trong hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời
gian cầu nguyện. Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa
Cha, nhìn lại bước đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời
gian chuẩn bị cho chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu
độ.
Khác với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ
khí càng tân tiến, sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến.
Đức Kitô không nhờ vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính
là tình yêu, cải hoá con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái
với tha nhân. Ngài thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống
mới, sức sống phát xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong
phục vụ.
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày
bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho
việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đình" của những người thân
thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xã chung quanh". Một bản
văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức
Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh: chiêm niệm và
hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó
trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác
nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác
nhau: ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có
nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác
ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy
đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu
mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa
kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều
ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng
những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác
lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối
liên đới hữu ích và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô
là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên
kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong
hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc
khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào
không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì chẳng thể
xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời
sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của
mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống một cuộc đời phong phú
và hữu ích cho con người biết bao.
Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng con,
Chúa ở với con và làm việc trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của con
như Chúa đã từng sống.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn
sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến
Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống
giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một
hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng
định điều đó:
"Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì
vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng
đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội.
Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý
Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt
bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của
Đấng đã sai Ta" (Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như
lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm
theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế,
Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện.
Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong
khổ đau đến toát mồ hôi máu:
"Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con.
Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu
còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi
xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà
hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó,
bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người
biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt
ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và
những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói,
vì chúng biết Người là ai."
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu
tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi
hoang vắng và cầu nguyện ở đó."
Cầu nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau
đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ
hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của
Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt
để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội
đường của họ, và trừ quỷ."
* * *
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và
tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho
riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của
Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của
Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến
trao cả mạng sống mình.
* * *
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng
sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao
tử#cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn
chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của
mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn
thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận
cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể
lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng
phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa
Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình,
chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm
hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết
đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích,
để mô tả khái quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Những
ai tình nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo thời khóa biểu
khít khao và tận tụy đến như thế.
Việc đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi
thanh vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao giảng Tin
Mừng, Chúa Giêsu lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa Cha., để tìm
hiểu và đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu thương, để bù đắp
thêm sức mạnh Thánh Thần.
Khi siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh mơ, Người
muốn nhắn nhủ và dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng biết dường
nào trong sứ vụ Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối giao hảo
thánh thiêng với Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa rời
nguồn lực nuôi dưỡng và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc thứ nhì: Đi Gieo
Sau khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu mới đến
với con người, tận tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói xuông,
mà còn cả thái độ khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn chiên.
Khi được biết bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường, Người lại
gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (Mc 1,
31)
Như thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất. Dùng ngay
hành động để minh chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách hiện đại.
Thời nay, người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần thầy dạy thì
trước tiên người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc thứ ba: Phục vụ
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa Giêsu
chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34) Chúa
Giêsu luôn quên cả bản thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những nhu
cầu của mọi người, để giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác lẫn
tinh thần. Noi gương Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Cô rin
tô: Phải, tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô
lệ cho mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với
những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi
người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả
những điều đó, để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn gần gũi với
Chúa hằng ngày bằng lời cầu nguyện, để con được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi
mà Chúa trao phó.
Lạy Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến trong lòng con, để con siêng năng
tâm tình với Chúa, cũng như ban cho con thêm đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ
tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người
mang hai tính cách khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là hạng người
vị tha.
Người vị kỷ
Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình
làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân,
nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác,
thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người vị tha
Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người
khác. Chúa Giêsu là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung
tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục
vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc
cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến
độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức
Giêsu, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than
khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ.
Hôm ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông
Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn
sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại
gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và
những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi
hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi
tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ
hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Ngài
cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở
đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao
giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giêsu mà
không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng
được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương
hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao
là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã
hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng
phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon
trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời
sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về
mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu
tìm hạnh phúc cho người khác.
Nếu hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà
không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ
cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn
khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán
xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ tha nhân chung quanh mình. (Mt
25, 31-46).
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn
sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và
để cứu rỗi nhân loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô
lệ” (Philip 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm
than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một
hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng
định điều đó:
“Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy,
khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã
tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy
giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.”
(Do-Thái 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt
bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng
đã sai Ta” ( Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như
lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo
ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế,
Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện.
Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong
khổ đau đến toát mồ hôi máu :
“Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng
đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu
còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Mác cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi
xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông
Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ
ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết
tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và
bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và
những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói,
vì chúng biết Người là ai.”
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu
tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang
vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi
tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ
hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của
Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỷ.”
***
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và
tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho
riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của
Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của
Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến
trao cả mạng sống mình.
***
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng
sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao
tử…cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn
chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của
mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi… không phục vụ cho toàn
thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận
cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể
lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng
phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa
Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình,
chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu
tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con
biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng
nghĩa xóm: "tối lửa tắt đèn có nhau". Sự liên đới yêu thương đùm bọc
lẫn nhau tha thiết đến độ: "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". Sự liên
đới đó không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc trong
tình thương giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất du
dương: "Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".
Thế nhưng, truyền thống đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới
ích kỷ và hưởng thụ. Một thế giới theo chủ trương "Mackeno" đang làm
tan rã tỉnh người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì quyền lợi của
mình mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha nhân. Con người
hôm nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong khổ đau và tuyệt
vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau thì nhiều. Sống
với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh cao của sự tàn
nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu trách nhiệm với
nỗi khỗ của anh em.
Có một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở
gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở
trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của
chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang,
trái cây đổ tung tóe trên đường. Đáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai
phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh
đó lại đổ đến để... cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Điều người ta quan tâm
chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.
Xem ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì thèm khát
một quả trái cây mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc chắn là
không ai nghèo đói đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là vì họ
thiếu vắng tình người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai nghĩ
rằng mình phải có trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận tâm
trước những rủi ro bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần trong
xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn đề cần
phải cải thiện của xã hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật chất thì
tình người lại bị coi thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người quá đau
khổ vì không tìm được sự nâng đỡ cùa anh em trong những lúc gian nan. Nhiều
người quá tuyệt vọng vì sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn bè.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa
Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài
đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón
tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa
lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả
thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, thì
dòng đời sẽ không còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc đời ai
cũng biết có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và
tuyệt vọng như ông Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời đã
không tìm được sự nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế
giễu và vợ con bỏ rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u
buồn, sầu thảm: "Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê
chề?".
Vâng, số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người quanh ta
vẫn đang cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của chúng
ta. Vẫn còn đó những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời sống thiếu
trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì
cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận
người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người.
Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh
em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể
chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng
ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha
nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời.
Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng
ta. Amen.
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà
mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là
một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các
ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không
đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng
vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh
hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi
và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm
lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được
hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài.
Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã
từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại
gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi
tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.
Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để
biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm.
Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia
sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại
và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình,
đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà
thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha
nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi
chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay
lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng
ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
Hằng ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc trên TV,
nào là chiến tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước những nỗi
đau khổ khôn cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi đến chỗ
kết luận rằng một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên Chúa
nào hết. Không sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu đựng
nhiều nỗi khổ đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa niềm
tin cậy chúng ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải chứng
kiến những cảnh khổ đau trên đời này.
Sách Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau khổ của
con người. Ông Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa đem ra
thử thách. Ông bị mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng bị ngã
quỵ vì đủ thứ bệnh tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng ngoài
cái nỗi khốn cùng này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui tại sao
ông phải chịu đau khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay, ông
Gióp không tìm thấy một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa cho
nỗi tuyệt vọng hiện thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả lời.
Gióp không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị dày vò
và bế tắc trước vấn nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể là những
thời khắc quan trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.
Chúng ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới khi chúng
ta bị một cơn khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy bất lực.
Khi chúng ta chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả tìm đến
Ngài tìm ơn sủng chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín nhiệm
vào Thiên Chúa, vì không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là nhận
thức rằng đau khổ là một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể giúp
thúc đẩy chúng ta gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của cuộc
sống thường nhật để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà Thiên
Chúa Cha đã dọn sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt đúng
lúc để chúng ta giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần gì
mà nghĩ ngợi rằng chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi
khác đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà nhạc của ông
Simon, giơ tay ra chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho chúng ta câu trả
lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ
nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm
vui. Bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức Chúa Giêsu khi
hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần
trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập
giá của mình bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với
những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng
của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và
sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa.
Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc
với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của
chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa.
RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi việc chữa
lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của
Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để
Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là
như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm
đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người
đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân
chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’
(c.22).
Hình như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều này:
không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại
đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa
lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả
đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động trong
việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai
yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói
của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi
dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn tác giả
Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh
nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như
đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe
mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không phải là
hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng
chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong
cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc
bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’.
Đức Giêsu hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi
nhận thêm: ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ,
và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh tật
đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người
được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng
hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp
theo cách thức của riêng Người.
Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó
sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin
Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức
tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng
làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục
đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh
hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép lạ chẳng qua
là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng
dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân
kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết
giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức
Giêsu - Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người
mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chỉ là một
‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các
phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục
Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của
sứ vụ Đức Giêsu trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi
chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.
Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức
Giêsu câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi
một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải
vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã không hề đi
một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì…
muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới
độ…!’
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho
Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng
xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không
chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái
độ sống và hành động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục
vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi người. Amen.
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê)
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi
họ phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là những
người biết kiếm tiền dựa trên chính sức lao động của mình, không như một nhóm
người bán nước cầu vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để kiếm
tiền thông qua tham nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu....và làm nhục
quốc thể như vụ một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt quả tang,
hay vụ công ty tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng sản, dẫn tới
Nhật quyết định ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam. Cũng theo
BBC, cho hay các cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla cho ông Huỳnh
Ngọc Sỹ, nguyên phó giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố Hồ Chí Minh, để
giành thầu trong các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại đây. Phe công tố
thì nói số tiền lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối năm. Người
qua kẻ lại, hối hả đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm gia đình,
bên những người thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm mới, thì
đường phố trở nên vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những con người
lam lũ sống bằng nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là những
người nhập cư. Hỏi ra mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn tết,
nên đành phải đón tết xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân thành phố,
giàu có một thời, nhưng chỉ sau lần "đánh tư sản mại bản" của chế độ
cộng sản vào những năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô gia cư. Đó
là trường hợp của bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh mứt được
trang trí cho đẹp mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn đã eo
hẹp, thì nay càng khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận tâm đến
cái vẻ nhộn nhịp, hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông dửng dưng
trước cái tết, không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì "cái
khó nó bó cái khôn", cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến những chuyện
xa xôi hơn cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông chẳng hề quan
tâm đến bộ quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt. Thấy tội
nghiệp, ngưòi ta cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng nghề bán vé
số dạo. Mỗi khi bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta: nếu có
trúng giải đặc biệt, thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm phương
tiện đi lại, vì tuổi cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong khi đó,
ngày càng có nhiều người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm tiền,
nên ông muốn có chiếc xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc bị
người ta xua đi như đuổi tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những
người nghèo kiết xác, nên họ khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi làm việc
của một nhóm nghề khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ, chỉ khoảng
mười tám đôi mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu thư đài các.
Từng nhóm hai ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy trên những chiếc
xe tay ga đời mới, nghe nói họ thuê lại của một "má mì ", chạy từ
hướng cầu Thị Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm dạy nghề và giới
thiệu việc làm II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì quay đầu lại. Cứ
như vậy, họ chạy đi chạy lại từ lúc 20h - 21h mỗi buổi tối, mong tìm được khách
làng chơi. Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những người đi xe trên đường,
trong số đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ. Và đương nhiên họ chỉ
nhận được những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền nhiệm
không dễ gì giải thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ?
Sinh ra đã là khổ, khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì cái
tát của bà mụ. Lớn lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có được miếng
ăn mong sống qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi còn phải
chịu đựng ốm đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên, theo quan
niệm của nhà Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con người
phải tự diệt duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn: con
người đau khổ là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St 3,
1-7; 3, 17-19)
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì trước mọi
đau khổ của cuộc đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử theo gương
Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người đến để giải
thoát con người khỏi đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không thất vọng,
nhưng đón nhận và hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa Cha.
Tin Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu ở
Caphacnaum. Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ cho mọi người
từ sáng đến tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện.
Một ngày làm việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc nhằn vì lòng thương người,
muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ. Chính vì vậy,
chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp
con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để đón nhận nó.
Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến để giúp
con người chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường niên này
được mô tả là một người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết thảy mọi
người. Một ngày sống của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ sáng đến
tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa. Người đã
sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân.
Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý Chúa
Cha.
Hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh phúc là
khám phá và thực thi thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con
luôn biết noi theo gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích
cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng thời gian
cách hữu ích cho tha nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu toàn bổn
phận trần thế của mình.
22. Sống tình liên đới
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn
tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc
cho nhau. Đó là chân lý, là lẽ sống của muôn loài.
Đó cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi hỏi đất:
– Đất sống với đất như thế nào?– Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước sống với nước như thế nào?– Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ sống với cỏ như thế nào?– Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
– Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con người
dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho
nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên
kết với nhau mới tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng
nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con
người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi
đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết
sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa
bình. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh
giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho
bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người
sống với nhau thế nào thật đa dạng.
- Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.- Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.- Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng
vĩ như đất đã tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan
xẻ với nhau đủ để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng nhau. Xem
ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây
thế giới an bình thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự
liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ
không còn tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn những tranh
chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi tới.
Chúa Giê-su đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận
rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc
cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để
thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao
động vất vả khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài
sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với
mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của
con người. Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an
họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với
nhau. Hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người sống
là sống với ai đó để tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau.
Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn những
kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi
chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng
đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề vì cuộc sống lầm than. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SDB)
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung
một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh
đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được
gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là
một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật
bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy,
mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được
tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý,
mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương
tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò
làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an - hi vọng để họ sống
và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở
thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với
những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất
lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày
nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về
ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về
hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng
ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng
tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới
(WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1
triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung
Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi
năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý
tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các
căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của
người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy
vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra
thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới,
Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách
chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với
cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ
dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng
ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi
dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người
tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự
hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là
một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi
là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất
là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh
gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình
tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến
“gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp
gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là
người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là
những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên
Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha
thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho
tàng Bình An - Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế
chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”,
như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời
con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi
ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn
con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải
cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo,
tiền, dễ làm cho con người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã đánh
mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại là
một quà tặng mà Thiên Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả
niềm hạnh phúc, ta được mời gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của
Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc
cầu nguyện. Tin mừng Marcô cho thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng,
khi chữa lành các bệnh nhân, khi gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu
nguyện là một nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu
hiệu để Ngài kết hiệp mật thiết với Cha và tìm ý Cha. Chúa Giêsu cần thời
gian thinh lặng để sống riêng tư bên Cha, tâm sự với Cha về gánh nặng của
sứ vụ, về những khổ đau của con người, về những cuộc chiến chống lại sự
dữ. Mang trong mình bản tính nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng cần được Cha
nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia. Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến với con người
để đồng cảm, chữa lành những khổ đau và hoạt động với con người lại đưa Chúa
Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2. Chúa Giêsu làm việc lành
Rời hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Nhạc
mẫu của ông Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt không
phải là loại bệnh nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm sốt như
là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28, 22; Lv 26,
16) khiến người bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này là do ma
quỷ. Vậy mà cách Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon thật đơn
giản: Ngài cầm lấy tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và bà
có thể đi lại để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy
bằng quyền năng nào? Sức sống mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này?
Chắc hẳn đó là từ chính Thiên Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao
được Chúa nắm lấy tay và nâng dậy khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải
mê trần thế đang ghì kéo con người xuống.
Rồi chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ
đau ốm và bị quỷ ám. Ngài đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do
ma quỷ gây nên. Chữa lành là dấu chỉ chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến
cứu chữa và giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải
cách tiệm tiến cho dân chúng bằng cách cho họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực
của Ngài trên tội lỗi, ma quỷ và trên sự sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức
tin vào Chúa Giêsu chỉ thật sự có giá trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và
công việc của Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất
chương trình cứu độ.
Như vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa,
nhưng điều quan trọng là để phục hồi sức sống nơi những con người
đau khổ, bệnh tật. Chứng tỏ Ngài đến trần gian để tìm kiếm con người chứ không
phải của cải của con người và Ngài muốn ban cho con người của cải cao quý từ
trời cao là lòng thương xót và sự sống của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những
ân ban này được trao tặng cho mọi người.
3. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, c
hữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh
ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người đều đi
tìm Thầy”, chứng tỏ mọi người ở đây vẫn cần đến Đức
Giêsu. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo ý Cha Ngài.
“Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”, Chúa Giêsu biết rằng
nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế,
tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim
cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do
đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ
mạng đem Chúa đến cho mọi người.
Đó là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt
động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha.
Hoạt động và cầu nguyện là những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc
sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao
vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều
người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử
dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với
Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng
thời gian có ích cho tha nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1,29-39 kể tiếp những
công việc khác của Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn (1,29-31), chữa
các thứ bệnh người ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều (1,32-34), và hôm
sau, Người đi cầu nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của Galilê (1,35-39).
Một khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu là chữa
bệnh. Trong lần đầu tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung cảnh và
tương quan của một gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa, theo sự
khẩn nài của cha mẹ xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9,14-27). Ở đây, con rể
xin Chúa chữa cho bà gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn toàn,
đến nỗi người phụ nữ nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức thì.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả thành
Capharnaum đều biết. Họ đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay chiều
hôm đó (1,32-34). Dân chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ bằng
quyền năng của Người. Tuy nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, mà
là sứ giả của Thiên Chúa, đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1,15). Vì
thế, việc chữa bệnh là dấu hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu hiện
giữa con người. Quyền năng ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh bại sự
chết - nguồn gốc mọi đau khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán cải và
tin vào Chúa Giêsu (1,15), thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của Người.
Sáng sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm thầm, để
cầu nguyện và để đi nơi khác (1,35-38). Người là Con được yêu mến của Chúa Cha
(1,10-11.24), nên luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm mọi dịp để
cầu nguyện trong thanh tịnh với Cha của Người (6,46), nhất là khi Người sắp làm
một thay đổi lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1,38), cuối cùng, lúc sắp
sửa nộp mình chịu chết (14,32-42).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì điều nầy
mà Thầy đã đi ra” (1,38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa Giêsu đã đi
ra từ đâu. Tuy nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha. Nói cách khác,
“Vì điều nầy mà Cha đã sai Thầy đến”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến và đi rao
giảng Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người đến để tiêu diệt
quyền lực ma quỉ và bệnh tật (1,24), đến để kêu gọi người tội lỗi (2,17), và đển
để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10,45).
Chúa Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng rao
giảng mà Thiên Chúa giao phó quyết định hành trình của Người.
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha
Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ
bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa
Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa
Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với
Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc
trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu
nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn
không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho
thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các
Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để
nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành
nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều
hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại,
chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt
tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu
mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói:
"Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi
ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận
lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp
mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý
Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu
trở về một căn nhà của một gia đình quen biết, gia đình của hai anh Simon và
Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài. Không may bà mẹ vợ của Simon lại
đang lên cơn sốt. Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà
dậy. Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu cho một phụ nữ,
tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm, nhưng cũng đủ để
làm người bệnh không hoạt động được, gây cản trở những sinh hoạt bình thường
trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại. Bếp lại có
lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé. Hạnh
phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này. Thật gần
gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ
uế. Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an. Ngài
đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách. Phục vụ
hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su sau khi ngài thắng các
cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến
cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê và họ
đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10,
43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng, phục vụ như Thầy Giêsu,
Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu của người vợ,
người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã
hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
(Suy niệm của John. W. Martens – Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy
còn rao giảng ở đó nữa” (Mc1,38)
Có nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công
việc thường ngày. Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh,
đời sống kinh tế sẽ không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người
ta dễ chán nản và mất tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an
tâm khi về hưu trí. Cho dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với
bao vất vả, nhưng nó rất cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống
mỗi người. Giữa hai trạng huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước
muốn thoát khỏi gánh nặng đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn
sâu nơi cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô
giáo, người ta vẫn nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi
người ta xem việc lao động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính
nhân loại trong chính thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng
ta cũng cần phân định rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng
gắn liền với kiếp nô lệ, và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn
(trích trong sách The end of Work)”
Gióp đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc
vất vả trong cuộc sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi
dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có
khác gì đời kẻ làm thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn
vào những vất vả lao động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công
việc thường ngày của kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn.
Ngày Sabbat mà Kinh thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng
ngày vẫn chỉ mang tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng
chúng ta đến một thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa.
Cùng đích của cuộc nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của
Thiên Chúa, nhưng cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi
phải có công ăn việc làm để mưu sinh.
Chúng ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh
nhai với công việc phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy
nhiên, không phải vì thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong
thực tại trần thế này không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta
làm, vẫn luôn hàm ngậm những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng
chúng ta cần phải tránh hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng
mà chúng ta cần phải tôn thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta
lại cố né tránh mọi việc làm để ở không một cách lười biếng.
Có lẽ, chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta
thực hiện hằng ngày, khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô
cũng đã từng làm việc để mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc
phục vụ cho Tin mừng vẫn ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện
sứ mạng tông đồ. Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do
để tự hào, mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi
không rao giảng Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa
thưởng công. Còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó.
Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng
không công chẳng hưởng quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc
của Thánh Phaolô để phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều
kích linh thánh, và những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi
vĩnh hằng trong tay Chúa.
Chính Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết
của công việc, cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ
ngơi để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người
mà chúng ta vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những
lao nhọc vất vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ
mạng xây dựng Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất
quân bình giữa công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc
mẫu của Thánh Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và
phục vụ các ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân
với nhiều chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi
thanh vắng để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút
giây tĩnh lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn
thường ngày.
Tuy nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm
Đức Giêsu, lúc Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài
không khiển trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự
tĩnh dưỡng của Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng mạc chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để
làm công việc này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở
đây, là Ngài đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương
quốc Nước Trời. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta
đã và đang làm những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên
thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên (Mad-Cow discease). Những người mắc bệnh này vì
họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần
dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu, người ta phát hiện có mười người mắc phải bệnh này ở Anh
quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế
của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố: “Có thể có sự liên quan giữa
bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”.
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của
Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn
khuyến cáo Anh Quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến
Anh Quốc thiệt hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ
được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị
hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng
nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà
đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm
sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng
giống như bệnh dịch (x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma
quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành
bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa
bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con
người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó.
Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm
vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy
khẳng định: “chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được
nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ
mọi người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh
tật linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh
em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật
nguyền. V. Ghika có viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến
thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy
nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa
ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương
thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời
nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của
bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh
trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin chúa thương chữa lành cho tất cả
chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và
chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen.
Chúa Giêsu vừa mới từ nhà hội Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự
Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa
lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ
của thầy đội (Mt 8,5-13). Khi Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um, Ngài không có nhà
riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta
có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một
loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt
rét da vàng. Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi
trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là điạ
bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chứng này thường kèm theo bủng
da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ
ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa
bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được
giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba hạng người:
1. Cho chúng ta biết về Chúa Giêsu.
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng,
Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng
như giữa đám đông trong nhà hội. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu
giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.
Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong nhà hội. Chúng ta thấy các phương pháp
có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy
trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình
thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong nhà
hội Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất
ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau
chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Kinh Talmud cũng chỉ
ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đen
cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc
sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,3 rồi đến câu 4,5. Rồi có một công thức
ma thuật được đọc lên, như thế họ xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn
toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu
và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sỹ Paul
Tournier có viết: “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn
của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là
sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín,
giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự
động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp
của Ngài.
2. Cho chúng ta biết về môn đệ của Ngài.
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ
ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài.
Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình
mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất
trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông
cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức
kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp
tục câu chuyện thân mật mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với
Chúa Giêsu. Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và
chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết
với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ
phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi
làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự
xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những
hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với
tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh
nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy
lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên
thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện
rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Cho chúng ta biết vài điều về bà nhạc gia của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ
đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã xử
dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết “chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông
kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần
sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn
lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ
phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa
chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài
thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao
ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là
người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Cuối cùng ở
giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi
được Chúa hỏi ông đáp: Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây
giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn,
vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô
đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách
chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như
thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên
giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục
vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn
trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ
bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên
Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô”(1Pr 4,10-11).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã đụng chạm đến đời sống chúng con, mỗi người mỗi
cách. Mỗi lần Chúa chạm đến đời con là mỗi lần con được đổi mới, được chữa
lành. Xin Chúa tiếp tục chữa lành không chỉ thể xác con mà cả tinh thần của
con, để con luôn biết diễn tả tâm tình biết ơn: Biết ơn Chúa và biết ơn mọi
người qua đời sống hy sinh phục vụ như Chúa. Amen.
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa
bệnh và giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là
"sinh, lão, bệnh, tử". Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai
có thể thoát khỏi nó. Một trong những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật.
Bệnh tật làm cho con người "đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm
cho họ "khổ" về tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái
cho rằng bệnh tật của con người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên
Chúa phạt. Do đó, những người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh
xa và ruồng bỏ. Họ đau về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì
phải đối diện với quan niệm này.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh phúc cho
con người. Bên cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu sống cho
con người. Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và
với nhau giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi lại việc Ngài
trả lại sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc cho bà và cho
những người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật và sự chết.
Ngài chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua việc chữa
lành Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nhờ
mầu nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích cực: đau
khổ không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường mới: trong
đau khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng tin và trông
chờ vào Đấng có quyền năng giải thoát. Như thế, Chúa Giêsu còn hơn vị lương y.
Ngài chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa lành những
bệnh tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của
tội lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát
toàn diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất tận. Nhờ đó, đau
khổ sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn còn là một mầu
nhiệm khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng đã có tình yêu
của Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho con người.
Ngài rao giảng Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín rằng dù con
người có phải vất vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con người vẫn có
Thiên Chúa hằng quan tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn có Thiên
Chúa ở ngay bên để thông cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được khoẻ mạnh
và sống bình an. Nhờ đó con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc hơn.
Nếu Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng ta hãy
chính là những người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc
chữa lành bệnh nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, có
thể giúp đỡ tha nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của nhân
loại mang lại niềm vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ của kẻ
khác, có khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp đỡ họ.
Những lúc đó, có thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ bằng thái
độ thinh lặng, lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi chúng ta
không thực hiện được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Cùng tất
cả tấm lòng yêu thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện với họ
cả con tim và đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã đến trần gian loan báo Tin mừng và chữa
bệnh cho con người. Ngài cho chúng con thấy tình thương của Thiên Chúa và giúp
chúng con thấy được mặc dù chúng con gặp đau khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở
bên chúng con và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con
luôn tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa tình thương và xin cho mỗi người Công
giáo chúng con cũng biết đem niềm vui và hạnh phúc cho những ai mà chúng con
gặp gỡ trong môi trường mình đang sống. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng
phải là thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận
của tôi là những đêm đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn
muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn
chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con
người được trình bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua
các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên
cớ nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó,
vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này
tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc
đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô
khỏi cơn sốt nặng thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem mọi kẻ
ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa
Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc
1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu
khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người
thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận
gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách
rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có
căn nguyên nơi cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không được
toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau
được đề ra là " diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời
"sinh - lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một
người được sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé".
Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn
trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình
"muốn" được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình
muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp
với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không
làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra
khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của
mình theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ.
Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có
đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may,
chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng
người điên không hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài
nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân nhận
rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại.
Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng
ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp
phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không
thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ
là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và
ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách
quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng
như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc
sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống
yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau
của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được
mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường
đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục
là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc
minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri kiến". Không phải cứ
thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm
khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ
thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa
Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn
đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho tha nhân
những gì ta muốn tha nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau
khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau.
Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ,
đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích
cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng
và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng
thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau
khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm
cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý
Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh khổ đau,
nhưng không lẫn trốn đau khổ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành
và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn
sứ Isaia đã loan báo:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để
tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị
giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do
cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).
Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính
trong bài tin mừng hôm nay:
- Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác
nhau, trừ quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi
ách thống trị của tội lỗi. ma quỷ.
- Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên
Sai phát xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
- Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng
cho mọi người. Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi
người. Thiên Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người
là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là
những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến
sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu
rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa,
thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên
Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự,
bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc
sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật
thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích
bài giảng của ĐGH Benêđictô).
Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn
của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và
chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều
quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.
Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao
quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành
động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình
với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi
sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự
chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý
nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai
của Người.
Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi
người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta
hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa
vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.
Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô
hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và
Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và
cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và
chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute
de Silence).
Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến
đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết
thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem
niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những
anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng,
chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói:
“Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh
hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Sốt không phải là một bệnh nan y. Nhưng người bị sốt cao không dậy
nổi, chỉ nằm thôi. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon thì bà mẹ
vợ ông đang sốt, nằm trên giường. Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia đình ông.
Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cơn sốt lui ngay khiến bà
có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái. Ngài cầm
lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng hội đường,
một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x. Mc 5,41), như sau này
Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên
(x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để một người nằm có thể đứng lên.
Sức sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay ấy? Quyền năng nào nâng con
người chỗi dậy?
Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi, cần được
Chúa đưa tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày sabát. Người ta đem đến cho
Đức Giêsu bao người yếu đau đủ loại. Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến nhiều
người phải đứng ngoài. Không rõ bao nhiêu người được chữa lành chiều tối hôm
đó. Nhiều người đã có thể tự về nhà một mình...
Đức Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong
múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế giới hôm nay vẫn phải đối đầu với bệnh tật. Những bệnh nan y
như ung thư, tim mạch, sida (aids), siêu vi... Cần có những người làm vơi nhẹ
nỗi đau như Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu và mệt mỏi, Đức Giêsu đã thức dậy sớm, khi
các môn đệ còn ngủ say. Ngài tìm được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo.
Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Đức Giêsu.
Ngài cần có thời gian rút lui, sống riêng tư một mình. Ngài cần
sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về
cuộc chiến chống Satan.
Đức Giêsu thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh
sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con, và vì
Ngài được Cha sai.
Ngài sống hết mình cho con người, cho đám đông, nhưng Ngài cũng
say sưa cầu nguyện và hoạt động.
Cầu nguyện đưa Ngài đến với con người, hoạt động đưa Ngài đến với
Cha.
Thành công ở Caphácnaum không làm Ngài dừng chân.
"Mọi người đang tìm Thầy", mọi người vẫn cần Thầy.
Nhưng Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng đang rất cần.
"Hãy đi nơi khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi.
Giữ được tính tự do và cơ động, Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những
yếu tố nào để được coi là một đời sống Kitô hữu quân bình?
Mẹ Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác ái,
nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để giúp
đỡ những người cùng khốn ở gần nhà bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo Mẹ Têrêxa Calcutta)
Trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế
này: có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu
cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết
đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng
hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi
ta đến để làm gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy
thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm
ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó
củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo
bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời
Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến
những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc
sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết
ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh
áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người
đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn,
ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm
không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm
người.
Trước cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở như trong
bài đọc thứ nhất của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của
tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi
phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn Lafontaine, làm
việc cực nhọc quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc
cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta
dễ có thái độ bi quan như thế.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng
dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay
tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà
dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó
là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới
chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để
cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay
dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ
sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản
thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người
ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức
Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: lao động là
bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao
động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh Kinh trong
Thánh Lễ hôm nay vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề
bộn cực nhọc.
. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc
lao động của chúng ta.
. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh
thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh
ra những kết quả tốt đẹp.
. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho
bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ,
một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin Chúa ban cho tất cả chúng con một khối óc biết sáng tạo, một
đôi tay biết làm nên những bát cơm đầy để xoa dịu những cơn đau do đói khát đem
lại, một đôi tay biết xây dựng một mái ấm gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng
đỡ những lao công vất vã của chúng con, và xin Chúa ban cho chúng con những ơn
lành hồn xác. Amen.
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng càng ngày người ta càng đi tìm kiếm một cái
gì đó, một lời gần gũi mình trong cuộc sống. Không ai còn thích nghe những diễn
từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp cao siêu, như những đám mây. Chúng ta hết thảy
đều tìm kiếm một lời nhanh chóng đưa đến hành động. Thế giới chúng ta khao khát
những gì cụ thể. Đây là một thế giới đòi hỏi có những người biết làm chứng bằng
chính cuộc đời mình trước khi làm chứng bằng lời nói.
Ngôn ngữ của con tim.
Cuộc sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài người. Ngài
không nói ngôn ngữ của những triết gia nay của những nhà thần học hoặc của các
tư tế và ký lục ở thời đại của Ngài. Người con trai bác thợ mộc nói ngôn ngữ
của con tim. Khi Ngài đến với con người, Ngài gặp họ trong toàn bộ con người
của họ, thân xác và tinh thần. Ngài không tách rời giữa lời nói và hành động.
Trước khi đến hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon và Anrê.
Ngài vừa mới đến thì người ta nói với Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu của ông
Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì điều
này sẽ an ủi bà chăng? Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài nói với
bà bằng ngôn ngữ của con tim. Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm tay và
làm cho bà chỗi dậy. Ngài không cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi. Ngài
chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon liền phục
vụ những người khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân đối với
việc loan báo Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn ngữ của
Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con tim.
Như một vệt thuốc súng.
Và này đây, tin đồn lan khắp cả thành phố. Có một người đáp ứng
được sự mong chờ của những con tim bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm. Lời của
Thiên Chúa đã trở nên hành động trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng tuôn
đến, mỗi người tìm đến một luồng khí mới cho cuộc đời của mình. Và này đây,
trong những phong trào của chúng ta, người ta khám phá ra hành động của Thiên
Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một nhóm khác nữa… Chúa
hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như một
vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở trong
nhóm trẻ của chúng ta, v.v… Nhưng chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy Ngài,
phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về “thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì thế giới?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì
trước sự kiện này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta
tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do
hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta,
Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp
Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam
hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của
chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta
mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng có thể hành động như nhạc mẫu ông Simon. Nếu
Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ điệp của
Ngài cho thế giới, bên ngoài thành phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa không còn đến
chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các
nhóm của chúng ta không còn là những nhóm khép kín, nhưng là những điểm chiếu
tỏa, từ đó phát xuất đời sống đức tin để mang Tin Mừng đến những làng mạc lân
cận.
Đối với chúng ta là những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên Chúa giao
cho nhiệm vụ loan báo cho loài người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho chúng ta.
Ngài mời gọi chúng ta làm việc này theo cách của Ngài, bằng lời nói và bằng
hành động, nói ngôn ngữ của con tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn ngoan
con người. Chính với những anh em đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai chúng
ta đến để nhân danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ phận sự
của chúng ta là trở thành tôi tớ mọi người để cứu được nhiều người. Amen.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu
cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và
nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc
nhiên”, có lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu
khi chọn Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú
ý chỉ một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì
rất quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là
Simon, đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi
Simon nói với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi
bà. Hành động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì
và hoàn toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các
môn đồ của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để
nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà
được tiền định này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ
người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ
về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là
đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa
lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh và những
người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau,
mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm
sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó
không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy
Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là
tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết
rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của
mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn
thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố và rao
giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục
vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã
được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào
khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài
không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng
Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của
thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng
được xem không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự
quảng đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có
cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của
chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn
bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể
trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho
chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của
Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh
thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha
mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một
linh mục, một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những
tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người
theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc
sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa
Giêsu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến,
Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc
có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện,
để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải
chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và
bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự
đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người
hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng:
“Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh
phúc bao giờ”.
Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm
thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình
phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền
đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt
hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan
tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật
nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên
giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau khổ
là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước
người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và
chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng
theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là
làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa
Cha.
Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì
sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục
Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có
được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là
một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải
thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải
lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi
đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một
niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và
đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi
người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận
ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi
vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái
chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con
người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây
mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay
mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì
là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ
vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng
đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ
thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành
mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên
Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không
thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu
thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh
phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình
Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những
vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của
Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách
khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người
trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy
rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng
loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng
lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất
cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng
giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc
đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại
nào” (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu
chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những
kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại
các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an
ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các
đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình,
tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con
người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức
(11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng
tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất
lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới
hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa
dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần
chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự.
Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi
không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng
tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về
Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính
cuộc đời chúng ta vậy.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest.)
Thánh sử Marcô trình bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang thi hành
chức vụ như: loan báo Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh
tượng được mô tả hôm nay nhấn mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào
cuộc đời bình thường của con người đến thế nào. Người mới giảng dạy ở Nhà Hội
là nơi thường để hội họp xong Người lại mau mắn theo Phêrô và Anrê về nhà họ.
Phêrô biết có chuyện không hay trong nhà mình, song điều đó cũng không ngăn cản
Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã
dọn. Vào buổi chiều, hẳn là vào lúc mà ngày Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho
nhiều bệnh nhân được mang tới. Người biểu dương quyền năng Người trên sự dữ
bằng cách đẩy lui bệnh tật và xua đuổi tà thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê
để qua đêm, nhưng sau khi đã chia sẻ những thực tế tầm thường ấy của đời sống
nhân loại, Chúa đã thức dậy trước bình minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân
mật của Chúa Cha. Người trở về nguồn. Người không giây phút nào mất liên lạc
với Cha Người. Người trở lại cùng với loài người, với những tư tưởng và ý muốn
của Chúa Cha. Người không để bị lôi cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức
thời và ích kỷ của những người ở Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt
những kích thước của sứ mạng mình. Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền
Galilê, trong lúc đợi chờ sai môn đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu
tâm đến hai câu nhỏ, song gợi ý trong bài này.
1) Tiến lại gần, Người cầm lấy tay bà. Thánh sử Marcô ghi rõ chi
tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu của Phêrô. Qua cung
cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra nỗi quan tâm của Chúa,
muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên Chúa, Người rất có thể,
tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh tẩy con người sạch mọi
sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài người. Thiên Chúa của Chúa
Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu việt thi hành vai trò mà
Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con người trong nhân cách riêng
và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn, Thiên Chúa đã nắm lấy tay con
người; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con Người của Thiên Chúa Con nhập
thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách “cầm lấy tay” từng người, bất luận
họ ở trình độ lương tâm và kiến thức nào. Không một con người nào, dầu là sơ
khai đến mấy, mà không được chính Đức Kitô chú ý riêng. Con Thiên Chúa tự mặc
lấy nhân tính để chiếm đoạt được nhân loại, Người tự cho mình đôi tay để cầm
lấy từng người. Trong giây phút chúng ta đang lâm cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn
phiền, thất vọng, chúng ta có nghĩ tới bàn tay nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ
không?
2) Chúng ta hãy đi đến khắp mọi nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa,
bởi chính vì mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa Giêsu, từ Thiên Chúa mà ra,
không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể nọ. Chức vụ Người
thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình nồng nhiệt. Người ta
bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự tháo gỡ.
Tại sao vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích vô biên lôi cuốn.
Trước hết là kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều kích vô biên sâu
thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy của Chúa Giêsu một
cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo. Chúng ta là công
giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để cho trí óc của
mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là một nền thần
học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc suy tư trong
lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo ngăn cản nó
khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động, khi nào
người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho Thiên
Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo trong
việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó với “nơi
khác”, tức là đời sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự
hướng lòng mình, vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô
biên, chính là đức ái thần linh vậy.
Cho đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề nan giải
trong số kiếp của con người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ? Phải chăng
đau khổ là một hình phạt do tội lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại sao những
người công chính cũng gặp phải nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã bất công khi
cư xử với chúng ta?
Từ câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút ra được một bài học đức
tin, đó là trong những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng vội kêu trách Thiên
Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho con người phải khổ,
phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là do con người gây ra cho nhau, vì thiếu yêu
thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng với ông Gióp, là người tín hữu, chúng ta phải có thái độ đúng
đắn đối với Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối, cũng như phải sống Tin
Mừng thế nào trong mối liên hệ với những người đau khổ.
Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người, nhưng đồng
thời lại là cơ hội để con người đến với nhau một cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm
thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa yêu thương mọi người,
cho nên không thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật là hình phạt của tội lỗi.
Một quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta tới một
lối sống đạo đức một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho những khổ đau xảy ra,
cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập công. Cách thức suy
nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ bất hạnh.
Mọi thái độ cam chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại bằng một thái độ tôn
giáo hoàn toàn trái ngược lại với sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ của
Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa những
kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài thật là
cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn giáo.
Vì tin vào Chúa của tình thương mà phải ra tay cứu chữa những kẻ
đau yếu tật nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng tin rằng
quả thật Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng con người để cứu chữa con
người. Bởi vì khi con người được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh tật và
khổ đau, thì vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau bất hạnh của người khác, chúng ta đã có thái
độ như thế nào? Cảm thông và giúp đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà
hàng xóm bình chân như vại.
Vấn nạn về nỗi đau khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của
người công chính, là một vấn nạn lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ. Đây là
một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt. Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông vẫn
phải chịu đựng những thảm cảnh khủng khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn ảm
đạm về cuộc sống.
Nỗi đau khổ vẫn còn là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều người
có thể có cùng một quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đau
khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức, thảm cảnh… Trong
thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa, vì tội
lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đối với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì?
Người không chấp nhận quan điểm rằng đau khổ là một sự trừng phạt đến từ Thiên
Chúa. Thiên Chúa không làm điều ác. Thiên Chúa luôn muốn sự tốt lành. Trong Tin
Mừng, chúng ta nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng trước nỗi đau khổ thực sự, điều
đó chẳng khác gì một câu trả lời đối với câu hỏi “tại sao có đau khổ?”.
Phản ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta nhận thấy trong bài Tin
Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận thấy đám đông những người bị đau yếu về thể
xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân mình cho
mỗi người, chữa lành cho từng người một. Người không tự cô lập khỏi đau khổ của
nhân loại. Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những người bị
thương tích và đau yếu.
Nỗi đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị
trước nỗi đau khổ. Người cũng không giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường
làm. Người không thích nhìn thấy con người đau khổ. Đau khổ là một trong những
sự dữ mà Người đến để kháng cự lại. Người có lòng thương xót đối với những kẻ
đau khổ, và mang lại điều tốt lành cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội
lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng… đã ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một cơ hội
để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu, Người mặc
khải cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân
loại.
Nỗi đau khổ của những người khác cũng là một cơ hội cho chúng ta nữa.
Chúng ta không có khả năng chữa lành, nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc
người khác. Và chăm sóc chính là một công việc có tác dụng chữa lành. Chỉ cần
hiện diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó rất có giá trị rồi. Nhưng đây
không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có nghĩa thay vì giải tỏa được
nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng ta đến với những người đau khổ với đôi bàn tay trống rỗng.
Chúng ta có thể làm được gì cho họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay trống
rỗng đó, để an ủi họ. Những người đau khổ mong mỏi rằng chúng ta không bỏ rơi
họ, rằng chúng ta giữ vững lập trường đứng dưới chân thánh giá, giống như Đức
Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà trong một số chừng
mực nào đó, đã là gay go lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau khổ khát khao,
chính là thông truyền cho họ sức mạnh của sự ấm áp tình người. Một người vẫn có
thể được lành mạnh, mặc dù không hề được chữa lành.
Còn đối với nỗi đau khổ của riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một
yếu tố không tránh khỏi của tình trạng nhân loại, mặc dù con đường đau khổ là
một con đường chật hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta,
khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường này, và Người đã đi cho
đến tận cùng. Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường đau khổ, thì nó không còn giống
như trước nữa. Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho
chúng ta rằng mặc dù con đường này dẫn tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở
đó, mà kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó, đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở
thành một cơ hội để chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng
được chia sẻ trong vinh quang Phục sinh của Người.
Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa
và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất
tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”
Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy
hỏi con ngựa ấy”.
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách
sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công
việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát
được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta,
đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.
Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không
dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một
thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng
sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ
gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là
cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn
thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân,
thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức
Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và
tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu.
Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó,
chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy,
đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó”. Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ
vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.
Nơi hoang vắng làm được gì cho Người? Nơi đó tạo cho Người khả
năng để phục hồi năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung.
Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố
được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với
Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.
Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của
Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được ngồi với
sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng
ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn.
Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí
có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều cho rằng
bản thân mình có giá trị qua công việc. Họ cho rằng giá trị của con người tùy
thuộc vào ích lợi của người đó. Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và
tĩnh mịch. hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt. Mặt khác,
khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên
Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và
chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc,
mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là
sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi. Rất
nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công
tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh
né và trốn tránh. Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng. Công việc có
thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa.
Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người
hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào
Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng
chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao
trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải học hỏi từ
gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Ra đi
cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam
kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có
được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống
trên.
Anh chị em thân mến.
Nhìn những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó, cực nhọc,
đổ rất nhiều công sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà thật đẹp.
Họ dùng hết khả năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời. Khi kết thúc
một công trình, họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng, họ cũng không
lưu luyến nơi mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không có người nào
đòi ở lại hay muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên. Nhưng mọi
người đều vui vẻ ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và tiếp tục
công việc của mình và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới. Đó là
nghề của họ, công việc họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ công
trình mà họ làm nên, vì họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ chỉ là
công việc của người thợ, họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc của mình
thật tốt.
Chúa Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những ngôi nhà
bình thường, nhưng để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa. Ngài làm
việc cả ngày lẫn đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều người.
Những ngôi nhà tâm hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những ngôi
nhà không đứng vững được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những ngôi
nhà tưởng chừng như bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những ngôi
nhà mọi người đều muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài chạm
tới, nó trở nên mỹ miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi người
tìm đến để ca tụng, yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp tục
xây dựng, để làm đẹp cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một sự
đáp trả nào. Ngài ra đi để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải ra
đi và đến nơi khác để rao giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Một công việc hết sức bình thường của một người thợ, không có gì
khác thường, công việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm như thế.
Nhưng công việc bình thường như thế lại có những người không làm như thế. Chúng
ta những người được mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để làm người thợ
như Ngài.
Những người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề cho bằng
thợ của ngày xưa, nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có điều
kiện thuận tiện, phải được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng
những nhu cầu cần thiết và phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ
âm thầm lặng lẻ mà làm việc thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp
nhận được.
Nhu cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn thành được
công việc của mình, mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề quá kém mà
lại thiếu chữ tín.
May thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công việc của
mình. Nhưng khi mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng, thế là anh
ta chiếm ngay công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không muốn rời
xa nó. Càng không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi buộc.
Người thợ đã bỏ nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong mơ,
xa rời thực tế, một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại mới nầy.
Họ noi gương Ngài thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm, chu toàn
thật tốt, đem niềm vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là họ biết
ra đi, biết tiếp tục công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi họ.
Chúng ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại chúng ta
đang làm việc như thế nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không chấp nhận
được hoàn cảnh hiện tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của những thành
công và không muốn từ bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng ta không phải
là người thợ chân chính.
Nếu trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách nhiệm, chấp
nhận hoàn cảnh sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và cho người với
tất cả những gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân theo Chúa Giêsu,
biết ra đi rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi người nhìn
thấy được những việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
Một người đàn ông kia có thói quen tự mình ra đi, vào một khu rừng
hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh ta đi đâu, nên có người bạn đã đi
theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người bạn đó thấy anh đang ngồi yên
lặng trên một khúc gỗ.
Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm gì thế?”
Anh trả lời “Tôi đang cầu nguyện”.
“Nhưng tại sao anh phải đi đến nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên Chúa hiện diện ở đây”.
“Nhưng phải chăng chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi
nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một Thiên Chúa đó sao?”.
“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi thì không”.
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện với
Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố, trên
xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi
có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi
đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của cuộc
sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần gũi
hơn và thân thiện hơn. Toàn thể bầu khí ở đó dường như tràn ngập sự hiện diện
thần thánh của Người. Thiên Chúa nói với chúng ta qua làn gió thổi, qua âm
thanh của giòng suối, qua tiếng chim hót, nơi nét đẹp của một bông hoa dại,
trong chính sự thinh lặng.
Tại những nơi này, chúng ta cũng trở nên khác hẳn. Chúng ta trở
nên trầm tĩnh hơn, yên lặng hơn, và do đó, chúng ta cởi mở hơn với những gì mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta, trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi nơi.
Quả thật là rất tốt, nếu chúng ta có được một nơi đặc biệt, một
nhà nguyện nhỏ bé, một không gian của riêng mình, tách biệt khỏi tất cả mọi
chuyện khác. Một nơi như vậy đặc biệt hữu ích trong việc yên lặng suy niệm, và
nói chuyện với Thiên Chúa từ tận thẳm sâu tâm hồn mình, trong một tương quan
giữa cá nhân với cá nhân. Ngay cả khi chỉ được ngồi trong một căn phòng đặc
biệt cũng là một điều tốt đẹp. Tại nơi thần thánh này, bạn không chỉ tìm thấy
Thiên Chúa, mà còn tìm thấy chính mình nữa. Khi quá bận rộn, quan hệ của chúng
ta với bản thân mình trở nên lỏng lẻo. Người ta không thể nhìn thấy khuôn mặt
của mình, khi soi mình xuống những giòng nước bị khuấy động.
Mặc dù người ta có nhận ra điều đó hay không, thì tất cả mọi người
vẫn đều cần đến một không gian như vậy. Nếu muốn có một cuộc sống nội tâm,
chúng ta tuyệt đối cần đến khoảng không gian đó. Khi càng đi vào nơi cô tịch,
chúng ta càng được bình an, dù với bất cứ điều gì xảy ra. Điều tốt nhất chính
là nơi đó giúp cho chúng ta tìm thấy, hoặc tạo ra được một không gian thánh
thiêng, ngay bên trong con người của mình. Ngay cả trong khi duy trì tương quan
với thế giới bên ngoài, thì chúng ta vẫn có thể sống từ trung tâm đó.
Để được thư giãn, chúng ta cần có một không gian – một không gian
của riêng mình, một nơi cô tịch mà tại đó, chúng ta có thể thực sự có quan hệ
với con người sâu xa nhất của mình. Nếu chúng ta không có được điều đó, nếu
không gian của chúng ta bị tước đoạt hoặc xâm phạm, nếu chúng ta chịu sức ép,
hoặc có quá nhiều việc phải làm, thì chúng ta có nguy cơ bị rơi vào sự hỗn
loạn. Đây là điều mà Đức Giêsu đang làm, khi Người thức dậy sớm, và đi đến một
nơi hoang vắng để cầu nguyện.
Kinh nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương
hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng
nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện
buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ
nhõm và tìm lại được niềm vui sống. Thì ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ
và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay: Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân, với những chứng bệnh khác nhau. Sở
dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn với chúng
ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ, không thể cứu chữa họ.
Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như
vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách thăm viếng an ủi họ.
Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta
thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài phán với
những người bên hữu:
- Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ
thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho
uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi ta đau yếu và bị cầm tù các
ngươi đã viếng thăm. Vì khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những kẻ
hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Trong Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế:
- Đừng chậm trễ trong việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con
được quý mến.
Tại gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa dịu những
đớn đau tinh thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải những gì
cho các bệnh nhân? Tôi xin thưa:
- Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một thái độ chia sẻ và thông
cảm.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên
trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại
nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu
chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ nói những
gì và sẽ nói như thế nào? Ngoài ra chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng
như trái cây và các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân phần nào trong việc bình
phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng, chúng ta cũng cần phải tế nhị, chọn quà tặng
nào phù hợp với sở thích hay nhu cầu của bệnh nhân. Những món quà đơn giản,
không xa xỉ lại thường là những món quà quý giá. Ngoài ra, một cú điện thoại,
một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất nhiều.
Trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ những
người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm.
Ở một phòng thí nghiệm, người ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ
kiếng không chỗ bám. Lúc đầu cho năm con vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm.
Họ cho một đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng 7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại
cho vào hồ tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do
nào mà chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các nhà khoa học nghiệm ra rằng:
sở dĩ chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm hy vọng nhờ vào kinh nghiệm
được cứu thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt
qua được những khó khăn trong cuộc sống là nhờ biết hy vọng. Ai không có hy
vọng thì sẽ bị đau khổ và thử thách của cuộc sống nhấn chìm.
Người kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy
vọng này không phải hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua
chóng tàn nhưng là hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã
hy sinh mạng sống vì chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc,
cam go theo từng giai đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ
phải tập đi vất vả, phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để
có miếng cơm manh áo để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó
khăn đột xuất khác.
Trong bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ,
cuộc sống con người cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề,
ngày đời thấm thoát như thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy
hạnh phúc. Niềm hạnh phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu.
Chính Chúa Giêsu đem lại niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng
Thiên Chúa hứa ban để cứu nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi
đến đâu là đem tin mừng và cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội
đường Caphanaum, Chúa Giêsu đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên
cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật
định. Nhưng khi vừa hết ngày Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem
theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và
giải thoát họ.
Sáng sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta
đã kéo đến tìm, nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem
niềm hy vọng, niềm hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó
mà tiếp tục đi đến những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng
và sự sống cho thế giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài
không chỉ đem hạnh phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì
Tin mừng đó mà thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh
phúc.
Chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời
mình vào Chúa Giêsu hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng
địa vị. Nếu chúng ta đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa
là hàng ngày xét mình xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có
sống vì Chúa Giêsu như thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa
và nói về Chúa cho những người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt
thôi! Mỗi người chúng ta hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với
những người xung quanh để họ nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người
kitô hữu đang theo đuổi để họ cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ
phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là hy vọng của đời con, là niềm trông cậy, là nguồn
hạnh phúc cuộc đời con. Xin Chúa ban ơn giúp con sống niềm hy vọng thật trọn
hảo để mai sau được về cùng Chúa hưởng phước Thiên đàng. Amen.
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm
phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai,
cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài
vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là
một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi
đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm
sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ
mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài
làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những
bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa
làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các
bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và
linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài
có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một
cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất
cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ
dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi
con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có
ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu
rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế,
Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng
khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình
phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép
lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã
loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi
điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt
quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép
lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng
là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì
ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa.
Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự
thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá,
nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em
ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng,
cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại
cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục
Samsông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris
như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc
tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một
đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi:
“Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng
đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa,
tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh
thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của
chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ
ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người
Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất
kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao
ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân,
xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người
bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho
đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham
quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là
người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ
để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và
tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc
thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có
thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên,
cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những
bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh
thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin... chúng ta hãy cảm
thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng
không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân
đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau
khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với
các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho
họ.
Một trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến trần
gian này là loan báo Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời nói
suông nhưng bằng những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người giải
thoát con người khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người
đem đến cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không dừng lại ở
bất cứ nơi nào. Vì Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được hưởng nhờ sự
giải thoát ấy. Cho nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những người ở thành
Capharnaum mặc dù được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"
(Mc 1, 37) Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để
làm việc đó" (Mc 1, 38)
Đoạn Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá đỗi kinh
ngạc về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy như một
Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của Chúa
Giêsu không phải để cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để phục vụ
và hiến mạng sống vì và cho con người.
Cảm nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai gởi tín
hữu Côrintô đã viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải
là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở lại thánh
nhân đã thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều không
đúng. Do đó, suốt cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho Tin
mừng của Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang được đón
nhận sự giải thoát cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo của chúng
ta mỗi ngày được tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với Chúa Giêsu
qua việc trung thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng tối. Được
như vậy là chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho nhiều anh
chị em xung quanh.
Một triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại
như sau:
Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu
xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ hội để thay đổi cả thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi bỗng nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng
thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu của tôi với thượng đế.
Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi đủ khả năng hoán cải những người
tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người thân yêu trong gia đình cũng như
những người bạn tôi hằng tiếp xúc.
Thế rồi đến nay, tôi thấy mình đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không
còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:
- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc rằng tôi đã không xin với thượng đế điều đó ngay từ tuổi
thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đạt được sự hoàn thiện nơi
chính bản thân mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng
ta nhận thấy: Chúa Giêsu là một nhân vật hết sức đặc biệt.
Trước hết trong phong cách giảng dạy.
Phúc âm đã ghi lại Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chính vì
thế mà Ngài đã lôi cuốn hấp dẫn được đông đảo quần chúng đến nghe Ngài.
Tiếp đến là những phép lạ Ngài làm.
Đoạn Phúc âm hôm nay cho hay: Bà mẹ vợ Phêrô đang sốt nặng, thế mà
Ngài chỉ cần động tới là bà liền được khỏi, trỗi dậy tiếp đãi Ngài. Hơn thế nữa,Ngài
còn chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, cũng như xua trừ ma quỉ.
Tất cả những phép lạ đều nói lên rằng: nơi Ngài có một uy quyền
tuyệt đối và uy quyền tuyệt đối này thuộc về Thiên Chúa. Hay nói cách khác:
Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ một chút, chúng ta còn nhận thấy: Ngài
không phải chỉ là một vị Thiên Chúa quyền năng mà còn là một người như chúng
ta, một người như mọi người.
Trước hết, Ngài cũng đã gặp phải những cám dỗ, những thử thách.
Chẳng hạn tại hoang địa, sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ma quỉ đã
cám dỗ Ngài biến những hòn đá trở nên bánh để ăn, rồi Ngài còn bị cám dỗ thử
thách Thiên Chúa, cũng như chiếm hữu những vinh quang phù phiếm. Thế nhưng Ngài
đã chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng ta.
Tiếp đến, Ngài còn là một người khiêm nhường.
Chính Ngài, mặc dù không hề vướng mắc một chút bùn nhơ tội lỗi nào
cả, nhưng Ngài cũng đã đến để xin Gioan làm phép rửa để biểu lộ tâm tình sám
hối.
Nhưng quan trọng hơn cả, Ngài còn có một trái tim biết rung động,
một tấm lòng nhân hậu bao dung.
Chính vì thế, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu những đớn
đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc với. Cũng như đã mở rộng vòng tay
đón nhận và tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Hãy cố gắng sửa đổi bản thân, để nhờ đó chúng ta trở thành những
chứng nhân sống động cho tin mừng, đồng thời nhờ đó, lôi cuốn người khác trở về
cùng Chúa.
Trong một giai thoại về Đức Thích Ca, người ta kể lại rằng: một
hôm, ngài rơi vào tay một tên cướp khét tiếng. Sau khi hành hung ngài, tên cướp
dọa sẽ giết ngài. Trước khi chết, ngài xin tên cướp một ân huệ. Hắn đồng ý.
Ngài bảo hắn: “Ngươi hãy chém đứt một cành cây”. Thoáng một cái, tên cướp vung
kiếm chém đứt một cành cây. Đức Thích Ca liền nói: “Nào, ngươi hãy tháp cành
cây cho liền vào thân cây”. Tên cướp nói: “Ngươi quả là tên khùng nên mới nghĩ
rằng ta có thể làm được điều đó”. Đức Thích Ca liền dạy cho tên cướp một bài
học: “Ngươi mới là tên khùng khi ngươi nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây
thương tích và phá hủy. Người có sức mạnh thật sự là người chỉ biết sáng tạo và
chữa lành”.
Lời nói trên đây của Đức Thích Ca quả thực đã ứng dụng cho chính
Chúa Giêsu. Ngài đến trần gian để phục hồi lại những gì đã hư mất. Các sách Tin
Mừng đã ghi lại rất nhiều phép lạ của Ngài. Thường thấy hơn cả là những phép lạ
chữa lành bệnh tật. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng những phép lạ
chữa lành bệnh tật Ngài thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những đau thương nơi
thân xác con người mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Đó là bày tỏ tình
yêu thương của Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao ban tình yêu
thương ấy.
Quả thực, tất cả đều do lòng nhân từ thương yêu của Chúa. Chúa làm
phép lạ không phải để tạo cho mình một uy thế trong xã hội, cũng không hẳn là
để tỏ uy quyền Thiên Chúa của Ngài, nhưng là để chứng tỏ tình yêu thương của
Ngài. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa đến trần gian để giải thoát
con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn cũng như phần xác. Vì thế, Chúa cảm thông
với những đau yếu tật bệnh của con người. Thấy họ, Chúa không xa tránh nhưng
đến gần họ và chữa cho họ.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài còn chữa
trị tâm hồn con người. Ngài muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người thành tâm
hồn quảng đại biết yêu thương. Đó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ Chúa
Giêsu làm. Trong suốt thời gian Chúa rao giảng, các bệnh nhân và những kẻ tật
nguyền luôn thu hút được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những phép
lạ để chữa lành họ, Chúa luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến
khích để gợi lên hay củng cố niềm tin của họ. Bài học “Hãy trao tặng những
người bệnh tật và những kẻ xấu số những cử chỉ và những lời nói yêu thương chân
tình” chúng ta có thể học nơi Chúa Giêsu.
Tại một trung tâm y tế ở miền nam tiểu bang Ca-rô-lai-na, Hoa Kỳ,
hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân có thể thấy được trong ngày, đó là nụ cười
của cụ bà Phờ-lo-ren Hớt (Florence Hert). Từ 6 giờ sáng, cụ đến bệnh viện thăm
hỏi các bệnh nhân và an ủi thân nhân của họ. Ngày nào cũng thế trong suốt nhiều
năm trời. Cụ thường nói với các bệnh nhân: “Năm nay tôi đã 90 tuổi, nếu tôi còn
có thể đến đây mỗi ngày với nụ cười trên môi, thì các bạn cũng thế, các bạn
cũng có thể cười như tôi. Nào, các bạn hãy thử đi”.
Một trong những cách thế hữu hiệu nhất để xoa dịu nỗi đau khổ của
chính mình, đó là ra khỏi chính mình để tìm cách làm cho người khác bớt đau
khổ. Đau khổ được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, nhưng còn được xoa dịu
bởi những nghĩa cử mà chúng ta làm cho người khác. Cụ bà trong câu truyện trên,
hẳn không phải là một người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, đau khổ…
có ai thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với đôi
chân dù phải bước đi khập khiễng, với tấm lòng chia sẻ chân thành… cụ đã biến
ra khỏi chính mình để đến với tha nhân…
Ra khỏi chính mình, đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt
được nỗi khổ đau riêng tư của mình. Có ai trong chúng ta thoát khỏi những dằn
vặt, bất an của khổ đau? Mỗi người là một nỗi khổ. Mỗi ngày qua đi là một cơn
đau. Ai trong chúng ta cũng có một thập giá để vác. Sức nặng của thập giá ấy sẽ
vơi đi, sẽ nhẹ bớt đi, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha
nhân, xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Một cụ già 90 tuổi, chân đi khập khiễng, vẫn
có thể ngày ngày mang nụ cười và niềm an ủi lại cho người khác. Anh chị em và
tôi, chúng ta có thể hé mở, dù chỉ một nụ cười hay không?
Thế giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, có lẽ đang cần đến
những cái mỉm cười ấy hơn bất cứ một cuộc truyện trò tào lao nào. Sự giúp đỡ
nhân đạo có thể sẽ không bao giờ đến với những người đang cần đến, hoặc nếu có
đến cũng chỉ đến như một quà tặng vô danh. Điều thiết thực nhất đang ở trong
tầm tay mỗi người chúng ta, và mọi người đều chờ đợi, có lẽ chỉ là một nụ cười,
một lời an ủi, một mẩu bánh nhỏ… nhưng được trao ban với tất cả lòng yêu mến.
Đó là những điều tất cả chúng ta ai cũng có thể làm được.
Giữa biết bao nhiêu con người đau khổ, xin cho sự hiện diện của
người Kitô trở thành dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa đối với con người. Xin
cho mỗi người Kitô trở thành bàn tay đưa ra nối kết con người với tình thương
Thiên Chúa.
Vị linh mục dừng lại nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi
Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước mắt kêu lên: "Ôi thưa
cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con."
Bà dốc bầu tâm sự; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào
một vài lời khích lệ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của
bà. Kể xong, bà ngừng một lát rồi kêu lên: "Ôi thưa cha, cha giúp con
nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề". Vị linh mục bối rối,
ngài chẳng giải quyết vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: Bà chỉ cần và
mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh nhân,
những chứng bệnh khác nhau. Người làm được vì Người là Thiên Chúa. Làm sao
chúng ta có thể làm đuợc như Chúa? Chúng ta không thể làm phép lạ, không thể
chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên, chúng ta
có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng ta có thể thăm người bệnh, như vị linh mục trong câu chuyện,
chúng ta cảm thấy bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm, thiếu thốn
mà chúng ta không thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai viếng thăm người bệnh.
"Ta đau các con đã viếng thăm… Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng thúc dục
chúng ta: "Đừng chậm trễ thăm người bệnh vì nhờ thế con được quí
mến." Thăm viếng người bệnh một cách thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong
bệnh viện; có thể xoa dịu tinh thần, trợ lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì
cho người bệnh; lắng nghe khi họ cần biểu lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là
một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển, một người đến thăm biết thông cảm khi
họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu
rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem đến một tin vui một sự kiện xây dựng hoặc nụ
cười, một câu chuyện trên Tivi hay báo chí. Cắt một bài vắn trong báo hay tạp
chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn sẽ nói
gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh tinh thần.
Khi chọn quà bạn cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để món quà thích hợp với tư
cách, khung cảnh, nghề nghiệp và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn giản,
không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông: "Tôi sẽ cầu nguyện cho." Tốt hơn nên
nói; "Tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay… "Sáng
mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị)". Đừng nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm,
nội qui của bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô
trong giới hạn của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành
nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh
cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người
Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc
chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình
tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm
sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành: "Nhiều bệnh
nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon
đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ
Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích
xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí
tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu
nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích, đem lại ơn ích cho người
lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người tín hữu trong cơn đau yếu,
để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong thử thách cả và thể xác lẫn
tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới những bệnh nhân, Chúa cảm
thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm hồn tội tình con người
"bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và tăng sức con người đau yếu
bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua cái chết, đi vào vinh
quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân xác và tinh thần.
Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục vụ mọi
người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không làm việc được, không
phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải phục vụ anh em, làm đầy
tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả năng phục vụ, Chúa đã
ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta không mang bệnh nạn, nhưng
mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu tinh
thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh do tà thần được phép
Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm
hồn và thân xác chúng con, cho chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt
thành phục vụ anh chị em chúng con.
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm
thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế"
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài (Outdoor World) có đăng một bài rất hay
của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong
rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry
vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã
được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những
hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm
gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng
trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho
chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời
ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào
rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng,
chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới,
được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi
dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính
là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia,
đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một mình đi
đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng
chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục
lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng
suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau trong Phúc
Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá trị tâm linh
mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ nữ bệnh đã 12
năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng được vào Ngài,
bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh Maccô Chúa Giêsu
biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc 5: 30)
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa Giêsu. Tương
tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn sinh lực, thế
nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết hồi phục sức lực
cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được vịêc này bằng cách
đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ yên tĩnh để ở một
mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm một điều gì đó; ít
là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công việc để hồi tâm và
lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng minh điều này quan
trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu
vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên". Tín hiệu này
có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem
xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan".
Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào
là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết
được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng
sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng
khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la
toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?". Thực sự, điều tốt nhất
chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều
kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta
có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài còn ở
dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét mình
lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa trong
lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri
Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần
như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa
nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của
ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả
hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi
buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ
ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm:
"Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu
tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được
phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn
hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của
tôi".
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André
Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta, hoặc nói cách
khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta cũng phải thỉnh
thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm điều các thủy thủ
Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là phải nghỉ ngơi và yên
lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm. Thỉnh thoảng chúng ta phải
dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực là quan
trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau;
Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ
nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khẩn nguyện:
Lạy Chúa,
Xin dừng bước chân con,
Xin dừng bước chân con;
Xin cho trái tim con trĩu nặng được thư thái,
Tâm trí xôn xao được lặng yên.
thần kinh rã rời được dịu lại
gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật
Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba phút,
trở lại tiếp xúc với lòng mình,
lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra
nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.
lạy Chúa,
xin hãy dừng bước chân con,
xin hãy dừng bước chân con.
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra
trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc
sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực
khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để
kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí
óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để
có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con
người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con
người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa
Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ
ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng.
Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có
cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần
tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải
làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho
bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không
những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao
giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu
muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là
cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích
cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác
lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng
ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những
công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi
làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha
nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn
thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì
lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin
Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên
Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng.
Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở
Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách
sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của
người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra
ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về
đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà
bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải
không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm.
nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp
anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín
hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh
ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời
danh: " con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện".
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa.
Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người.
Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy
những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết
mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho
tốt đẹp!
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người
ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành
nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và
người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người
ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số,
sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế
giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi
nơi".
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài
không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài
cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành
việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban
cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh
Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu"
chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ:
Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba
Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin
Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh
người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức
Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba
Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi
của nhiều người".
Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể
lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng,
thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con
cám ơn cha đã giúp con". Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng
bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ
của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi
nghèo".
Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa
bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình
quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người
nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi
chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ
cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể
cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi,
đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh
chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000
đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười
nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi
học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô
đơn".
Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình".
Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng
xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một
người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói:
"Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu
nào trong túi mình cả". Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho
tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật
chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang
trọng bố thí cho tôi".
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình"
của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho
chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con
biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem
an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã
có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc
đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung
sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như
thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc
phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn
văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con
người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình,
bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt...
Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải
đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ
phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự
gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải
gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão
lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục
nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể
lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp
dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được
niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con
Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan
báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo
sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác
giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu
cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô
là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra
khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người
chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở
mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa
bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi
đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến
con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy
các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8).
Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên
thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận
một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là
để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).
Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng
là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng
sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ
Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả
năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan
báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương
cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo
Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín
hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một
người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta
không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu
đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một
người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được
sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là
ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng
thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết
cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như
Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước
của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ
quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung
của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ
lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý
Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này
cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con
đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ
giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được
Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều
làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua
đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù
sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu
độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng
nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của
cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những
khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài,
của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự
hơn....
Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên
chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được
lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư
cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết
ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận
con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật vất vả.
Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người phải
kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do một
người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa lành
cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông Simon
và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi trời
tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần cũng
như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa lành
nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."
Trong bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã
thức dậy thật sớm, tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày
hôm nay Ngài sẽ vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông
dân chúng sẽ chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài
ở đâu đi nữa, dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn
trong đó sẽ có những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng
dậy của Ngài, đặt những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài
bị ô danh. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn
Ngài làm vài điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có
những giây phút để cầu nguyện.
Một nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:
Tôi thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.
Với quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.
Những khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi
công việc.
Tôi tự hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con
không kêu cầu Ta."
Tôi cố tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.
Tôi hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi
Ta."
"Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa
Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai
lầm khi tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ
của chúng ta. Ngay khi vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm
thấy mâu thuẫn: Thầy bảo các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy
gì mà ăn, hay lo cho thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng
không gieo, không gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang
của ông, cũng không trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn
mai mất mà còn được Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng
ta biết mấy. Hỡi những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa
trước còn những điều khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).
Hãy tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện
không phải là để kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa
biết mọi sự sẽ xẩy đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng
ta nói với Chúa về những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng
ta cần những gì. Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện
điều Chúa muốn nơi chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản
và biết rằng Ta là Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe
tiếng Chúa nói trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể
làm cho chúng ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin
những gì Chúa có thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho
Chúa được gì.
Nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện.
Ông ta nói rằng: Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng
triệu triệu cây số được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ
xuống và cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần
gian.
Là con người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải
những gian nan khốn khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn
nhân. Và những lời cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống
thân mật với vợ con. Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm
gì để cho chóng chấm dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ
thương con.
Một người đàn ông bị đưa ra toà để xét xử về tội giết người. Ông
ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa
cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao cho vị quan toà một gói tiền. Khi
vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài
phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng: "Ông có thấy khó khăn trong
việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có! vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô
tội."
Khi cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy
Chúa, nếu Chúa ban cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù
có điều gì xảy ra, cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn."
Nhưng thật ra Chúa không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của
Chúa không bao giờ bị chúng ta đánh đổ.
Nếu chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong
cuộc lữ hành trần gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu
của chúng ta phải được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận
thấy sự cầu nguyện ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết
được Chúa là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của
Ngài trong tâm hồn chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng
ta sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng.
"Hãy thi hành ý muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng
theo ý Ngài."
Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự
Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa
lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ
của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không có nhà
riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi là Malta
có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một
loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất là sốt
rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi
trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là địa
bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng da
và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông
Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa
bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin
được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:
1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng,
Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng
như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu
giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.
nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các phương pháp
có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy
trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình
thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong Hội
Đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được hoàn tất
ngay.
Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô
đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn sốt
thiêu đốt". Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này.
ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc.
Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,
3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế người
ta xem phần chữa trị đã xong.
Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông
thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã
chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi
thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều
tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm".
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín,
giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự
nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu
giúp của Ngài.
2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ
ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho
Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài
trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất
trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và ông
cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức
kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp
tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa
Giêsu.
Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho vợ tôi
nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được
thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành
trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui
lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân
tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những
niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi
một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được
nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với
Ngài về người ấy".
Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người Kitô hữu.
Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời
sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ
mình.
3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA PHÊRÔ:
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ
đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử
dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất Thế
Giới" trong đó, ông kể:
"Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành
phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía
trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi:
"Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa
Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì
khác hơn"? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo
theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của
ngươi trong trác táng?" Chàng đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được
Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa
thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được
Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại,
bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn,
vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô
đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách
chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như
thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư khuyên
giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà
phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn
trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ
bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên
Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).
Chúa Giêsu Kitô, "trọn một ngày đời" vì mọi người và cho
mọi người.
"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày
sabbat), các tín đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách
Luật. Đó là dịp để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Chúa Giêsu cũng đến hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế
nữa, để chính Thiên Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp
giảng dạy loài người, dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy
từ sáng đến trưa, Chúa ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi
người hiểu biết Kinh Thánh.
Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu đến nhà
thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời Chúa, thực
hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại: "Người lại
gần, cầm tay bà mà đỡ dậy". Con người bị mất cuộc sống an nhàn, đời sống
yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm giường). Chúa
Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng khôi phục lại
những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền năng Cứu
chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc sống an
nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi người ở
mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta mới đem
mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành tất cả.
Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc, những người
đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi được cứu
chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không thể thiếu
trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm ngày để cầu
nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở đây, trước
khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của Chúa, ví như
việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng xa càng nhiều
xăng dầu...
Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước sự việc
càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của ma quỷ,
chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành thời
gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.
"Mọi người đang tìm Thầy!"
Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi người đang
tìm Thầy". Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của Chúa, cùng
sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy nhất chỉ có
Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và nếu mất
Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.
Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể thiếu
vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"
Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và cho mọi
người". Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở
Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở
mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi
khác".
Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta phải là
hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc Chúa làm
cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm
phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai,
cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài
vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? là
một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong
khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan
niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần
sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng:
Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả
những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc
Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên
các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và
linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài
có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một
cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất
cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ
dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi
con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có
ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu
rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế,
Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô.
Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là
hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép
lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a
đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy,
bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm
kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa,
phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa
cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng
thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu
chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự
thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá,
nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em
ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng,
cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại
cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục
Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris
như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc
tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một
đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi:
“Chị quì làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó
thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi
thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần,
nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y
tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ
ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người
Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất
kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao
ông yêu thương bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân,
xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người
bệnh”. Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho
đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham
quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là
người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ
để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và
tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc
thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có
thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên,
cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những
bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh
thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm
thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng
không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân
đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ,
nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các
bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.