SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - C
MỤC LỤC
1. Phục vụ
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những
thái độ của Macta và Maria. Trước hết là thái độ bận rộn và lắng
nghe.
Thái độ của Macta là thái độ bận rộn, vồn vã để tiếp đãi Chúa Giêsu
cho thật thịnh soạn, chứng tỏ một tấm lòng hiếu khách. Còn Maria thì lại biểu
lộ cũng tâm tình ấy bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người. Hai
thái độ, nhưng cùng chung một tâm tình, cùng chung một đối tượng. Chỉ có điều
là Chúa Giêsu đã từng coi những mối bận rộn là như một bụi gai làm nghẹt sức
sống của Lời Chúa, hay có thể biến thành một ông chủ thống trị trong trái tim
con người, chống lại chính Thiên Chúa tình thương, hoặc tệ hơn nữa là làm cho
lòng con người ra nặng nề, đến độ không còn nhạy bén để đón chớ Chúa đến.
Trong khi Lời Chúa mà Maria đã chọn để lắng nghe là một ưu tiên
tuyệt đối. Được coi là mẹ và anh em thật của Chúa Giêsu chính là những ai nghe
và tuân giữ Lời Chúa. Khi quá bận rộn vì vừa phải lo phục vụ vật chất, lại vừa
phải rao giảng trong cộng đoàn, các tông đồ đã ưu tiên chọn việc rao giảng Lời
Chúa.
Tiếp đến là ý mình và ý khách. Macta đón tiếp Chúa Giêsu là để thiết đãi Người theo sở thích của
cô, như một bà chủ nhà có dịp trổ tài nội trợ và bày tỏ tấm lòng hiếu khách, mà
chả cần hiểu khách đang mong đợi điều gì. Trong thâm tâm của bà chủ nhà đó,
niềm vui không phải là vì người khách, nhưng là vì tự mãn, tự thấy mình tài
khéo và đức độ.
Điểm khác biệt còn rõ nét hơn nữa trong thái độ của Macta so sánh
với tinh thần của Chúa Giêsu, và đã bắt Người phải can thiệp, chính là vì cô đã
đánh giá, và đã lên tiếng phiền trách Maria và cả Chúa Giêsu sao lại không thấy
việc cô làm mới là đúng, mới là quan trọng. Cô như muốn nói với Chúa Giêsu:
Thưa Thầy, Thầy không thấy rằng em tôi để mặc tôi một mình lo phục vụ là sai
quấy hay sao? Xin Thầy bảo nó giúp tôi với.
Thực ra vẫn có những cách tiếp đón làm cho chúng ta không còn gặp
gỡ được Chúa Giêsu và tha nhân. Chẳng hạn Giáo Hội Do Thái thời đó với những
chuyên viên về tôn giáo, với những tín đồ sùng mộ, lại đang thiết tha mong đợi
Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không gặp được Người suốt hơn ba mươi năm trời Người
sống giữa họ. Chẳng hạn hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cùng đi với Người cả
một ngày đàng mà vẫn không gặp gỡ được con người thật của Người. Phải chăng vì
trong những trường hợp đó, mặc dù hình ảnh Chúa đang chiếm ngự tâm hồn họ, nhưng
lại là hình ảnh do họ tư vẽ ra theo những ước vọng của bản thân họ mà thôi.
Điều kiện và quy luật cho mọi cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa,
đó là phải từ bỏ chính bản thân mình, để ngồi dưới chân Chúa, và lắng nghe Lời
Người như Maria ngày xưa.
2. Phần tuyệt
hảo.
Có một thời người ta đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời
sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình.
Còn đời sống bôn chôn hoạt động của Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa
Giêsu không thể bênh vực cho thứ chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động
múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng nghe và thực thi lời Chúa.
Ngày kia, có lẽ bất ngờ, Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị
em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái, thì được tiếp đón một người
khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất
hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ
chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm.
Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết
Maria là người được phân công rửa chân cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa
Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân
Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ địa vị của một người
nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc tiếp đón phải thật chu
đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác. Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa
nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã
bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ thuộc, để mình chìm
nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và sức lực để nghe và
đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia đình Bêtania, hẳn
không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để thiết tiệc lời hằng
sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn gì, uống gì mà là
lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước
Trời.
Chúng ta còn nhớ một lần kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác
quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài
chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì thế, những ai muốn
theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện những lời Ngài truyền dạy.
Vào một dịp lễ trọng như lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết
tâm trí vào việc dọn dẹp và trang trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa,
khiến cho không còn thời giờ, không còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa
của việc Con Thiên Chúa làm người. Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và
bỏ mất phần tối hảo.
Bởi đó chúng ta đã kiểm điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu
tư một cách đầy đủ cho điều chính yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay
vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng ngoài, ở những cái phụ thuộc.
3. Chọn phần
tốt nhất – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp
vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn
là một sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một
ngôi thánh đường cổ ởParis. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang
quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận
ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng
lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi
giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè,
nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán
vật lý nào không?
Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:
- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học
lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp
anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?
Chàng sinh viên liền hỏi:
- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu
cầu nguyện bình thường không?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi
môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:
- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Chúa phán: “Marta, Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện
quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ
không bị lấy đi”. Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa
nói, và cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về
điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của
nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ
đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.
Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước
khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi
vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện
trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng
can đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với
anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương.
Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng
ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ
lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.
Các triết gia Phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa
không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Phương Đông trái lại ưa thích
thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng
thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Marta phải đi đôi với Maria.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện.
P.Graef có một câu nói rất thâm thúy: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là
thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo
hạt”. Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi
chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình.
Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng
ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con
phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Chúng ta
mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình.
Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để
cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng
ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ
của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi
tìm chính mình!
4. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ
Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa
quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục
vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà
Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ
thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ
của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ
lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ,
lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa
một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không
được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm
nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình
ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn
thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không
quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình.
Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay
phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so
sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi
đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn
phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.
Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không.
Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô
ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố
thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái,
cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải
đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết
lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý
Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu
nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi
bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa
làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc
hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè,
và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến
thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân
bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá
băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn
khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách
thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết
giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu
nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và
thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu
nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng
ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha
mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó
là một kho tàng bền vững mãi mãi”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy
đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ
theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện
trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Cầu nguyện là lắng nghe
Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện
thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều, nhưng
bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?
3- Khi phục vụ, bạn có thực
sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ thực sự
tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?
5. Phần tốt
nhất
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta
phải nhận được một lời ca ngợi, vì chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng
ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời trách móc.
Đức Giêsu có đối xử bất công không?
Chúng ta cần nhìn ngắm chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao
việc phải làm ngay cho kịp. Lòng chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa.
Vậy mà cô em Maria lại ngồi không... Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời
lúc Đức Giêsu đang trò chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình
xuống bếp. Câu nói của chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và
Maria đều bị coi là những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc
đang ngập đầu.
Câu trả lời của Đức Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối
rối của Mácta khi tiếp đãi Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách
tiếp đãi, thậm chí một cách tiếp đãi tuyệt vời.
Trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá
nhiều Mácta và rất ít Maria.
Lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều
vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động. Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi
nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.
Một Hội Thánh quân bình khi có cả Mácta và Maria.
Một Kitô hữu quân bình khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.
Không phải chỉ là làm cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một
tương quan mật thiết bền chặt. Đừng đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa.
Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận bịu, lo âu.
Con người hiệu năng là con người cầu nguyện.
Khi được hỏi về bí quyết của mình, Mẹ Têrêsa đáp: “Bí quyết của tôi
rất đơn giản: tôi cầu nguyện.”
Có ai trong chúng ta muốn chọn phần tốt hơn như Maria?
Khi nhìn Mácta, chúng ta thấy khuôn mặt của mình.
Lúc đầu, chị chỉ muốn phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối
chị không phải là Chúa nữa, mà là sự thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu.
Chị huy động mọi người để phục vụ cho dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa.
Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng
không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình, tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá
nhân.
Có khi chúng ta cũng bắt Chúa đứng vào phe mình để cho công việc
mình chóng thành tựu.
Làm thế nào để chúng ta phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không
ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của mình?
Làm sao tôi có thể yêu một cách trong suốt như Maria?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong
tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng
và thời gian ra sao?
Cái khó và cái dễ khi bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp
hiện đại?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng
đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính
toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu
toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
6. Chỉ có
một điều cần
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các
môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình người.
Mácta là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi
nấu nướng, chị lo lắng trước bao việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh
soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại
vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người.
Maria say mê nghe Lời Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân
trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe
Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.
Mácta không hiểu được cô em gái, chị cũng không hiểu được Đức
Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta
muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải
chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ.
Chị không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là
một cách phục vụ.
Xin Thầy bảo em giúp con một tay.
Mácta kéo Đức Giêsu vào cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía
đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn Maria phải vào bếp với mình, phải phục
vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria.
Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có biết bao việc quan trọng
khác cần làm.
Đức Giêsu không ghét Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị,
nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng. Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn
chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để
nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì
nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.
Cần thanh lọc lòng mình khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh
tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư
thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.
Chỉ có một chuyện cần mà thôi.
Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất
chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi
ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.
Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động,
âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút.
Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và
qua tôi thay vì tự mình bươn chải một mình.
Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất
bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?
Để rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy an tĩnh, - giữa lăng xăng, tôi
thấy mình ngồi yên, - giữa hoạt động, tôi thấy mình chiêm niệm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào những khúc mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân
Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời
bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu không?
Cầu nguyện là gặp gỡ và lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có
kinh nghiệm như Maria không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng
không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những
lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh
thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và
khuôn mặt thật của Chúa.
7. Hiếu khách –
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hiếu khách là một đức tính tốt. Một người hiếu khách là người có
tính xã hội. Họ dám mở cửa lòng đối diện với đời và với tha nhân. Kinh nghiệm
cho chúng ta thấy trong bất cứ lĩnh vực nào như mở tiệm buôn bán, công ty, xí
nghiệp, trường học, hội đường, chùa chiền, nhà thờ, tư gia… càng có nhiều người
tham gia, sinh hoạt và thăm viếng thì càng sầm uất và thành công sinh hoa lợi.
Người ta thường nói "đa khách đáo, đa ngân vào". Đúng thế, mở một cửa
tiệm hay một dịch vụ mà khách ra vào tấp nập thì việc làm ăn sẽ mau khấm khá.
Một trong những yếu tố quan trọng là vấn đề nhân sự. Chủ nhân hay tiếp thị phải
là những người hiếu khách luôn tươi cười và niềm nở. Vui lòng khách đến vừa
lòng khách đi.
Nhân cách con người đi theo với sinh hoạt cuộc sống. Tính tình thể
hiện qua cách xử thế, gọi là giao tế nhân sự. Câu truyện trong sách Sáng Thế kể
rằng có ba vị khách đi ngang qua nhà ông Abraham. Ông đã vui vẻ chào đón khách
một cách niềm nở, ông thưa: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì
xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài." (St 18,3). Thái độ
của Abraham bày tỏ lòng thành kính và hiếu khách. Ông biết thương người và đáp
ứng đúng nhu cầu cần thiết. Ông tiếp rước khách một cách rất tận tình: Tôi xin
đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các
ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây! Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa
nói.” (St 18,5).
Một phần thưởng ngoài sức tưởng tượng của cả hai ông bà. Ông bà đã
nhận được một hồng ân quý báu trong lúc tuổi già. Ông bà sẽ sinh một cậu con
trai nối dòng. Đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất của ba vị khách: "Người
nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một
con trai." Bà Sara bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau." (St
18,10). Thiên Chúa đã gọi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở để đến miền đất hứa.
Lòng thành tín của Abraham đưa dẫn ông trở thành cha của một dân tộc. Cha của
những kẻ tin. Ông đã biết đón nhận và cho đi. Ông đã tuân theo đường lối của
Chúa nhưng ông cũng đã trải qua muôn vàn khó khăn, đắng cay và thử thách. Ông
đã đi đến cùng đường và giữ vững lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.
Mở cửa đón khách cũng giống như mở lòng với tha nhân. Nếu tư gia
của chúng ta có mở cửa đón mời anh chị em và bạn bè, nhà sẽ vui nhộn tiếng
cười. Phòng khách sẽ ấm cúng với mối tình thân. Nhà bếp cũng được ấm lên nhờ
nấu nướng những món ăn mỹ vị đãi khách. Niềm vui sẽ trào dâng trong lòng mọi
người. Càng có đông khách và bạn bè, cuộc sống càng nới rộng tình thương mến.
Mở cửa như mở lòng. Chúng ta biết rằng ai có lòng quảng đại giúp đỡ tha nhân,
họ sẽ được đáp trả mối ân tình. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Đón tiếp anh
chị em bạn bè đến với gia đình, niềm vui của chúng ta sẽ được nhân lên. Nếu
chúng ta chỉ biết đón nhận mà không biết cho đi, cuộc sống sẽ bị đóng khung hạn
hẹp. Cảm nghiệm đời sống, chúng ta đóng cửa nhà và cửa lòng vì sợ bà con làm
phiền, cuộc sống sẽ buồn tênh.
Cũng không ngoại lệ, khi Chúa Giêsu đến thăm nhà chị em Martha và
Maria. Hai chị em đón tiếp Chúa, mỗi người một cách, làm cho Chúa rất hài lòng.
Câu truyện được lưu truyền kể lại trong Phúc Âm. Martha lo nấu nướng phục vụ và
Maria ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người giảng dạy. Cả hai việc đều tốt nhưng
việc ngồi bên và lắng nghe lời Chúa thì tốt hơn: "Cô có người em gái tên
là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy." (Lc 10,39).
Chúa Giêsu đã biến đổi cả hai tâm hồn nên thánh thiện. Chúa nhìn thấu tỏ tâm
hồn của Martha và Maria, hai chị em trở thành những chứng nhân đích thực cho
Chúa Kitô Phục Sinh. Trong Giáo Hội đã có những vị dõi theo bước của Martha,
chuyên lo phục vụ. Có những người đi theo đường lối của Maria, lắng nghe, suy
niệm và chiêm niệm trong các dòng tu. Chúa Giêsu đã xác nhận Maria đã chọn phần
tốt nhất: "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10,42). Giáo Hội đã tuyên phong cả hai
chị em lên bậc hiển thánh: Thánh Martha và Thánh Maria.
Như Abraham đã đón tiếp các vị khách và được phước lộc có con cháu
nối dõi hoàn thành sứ mệnh. Martha và Maria đón rước Chúa vào nhà, các bà đã
trở nên môn đệ và sinh hoa kết qủa trong vườn nho của Chúa. Thiên Chúa rộng
lượng ban phát mọi ơn lành cho những ai đón rước Chúa. Chúng ta đọc câu truyện
về hai biển hồ ở Palestine, biển Galilê và biển chết. Biển hồ Galilê có nguồn nước
trong xanh mát. Trong hồ có đủ các loại tôm cá sinh sống. Có những vườn cây
xanh tốt nhờ nguồn nước. Nhà cửa dân cư sống rất sầm uất. Biển thứ hai là biển
chết. Biển chết vì nước mặn và không có loại cua cá nào sống nổi. Trơ trọi
không có cây xanh tươi. Chúng ta biết cả hai biển hồ đều nhận nguồn nước từ
sôngJordan. Nước chảy vào biển hồ Galilê và tiếp tục chảy tràn lan qua các hồ
nhỏ, nhờ vậy mà nguồn nước luôn lưu chuyển trong lành. Còn biển chết cũng đón
nhận nguồn nước nhưng bị tù đọng vì không chia sẻ, nước trở nên mặn chát. Sinh
vật không thể sống được. Cuộc sống con người cũng thế, nếu chỉ biết khư khư giữ
lại tất cả kho tàng cho riêng mình, thì sự sống cũng dần lụi tàn.
Thánh Phaolô đã nhận lãnh sứ điệp Tin Mừng từ chính Chúa Kitô Phục
Sinh. Ngài đã hăng say nhiệt tình truyền rao lời chân lý. Phaolô đã thiết lập
nhiều cộng đoàn tín hữu và đặt căn bản giáo lý trong các sinh hoạt sống đạo:
"Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ
thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho
trọn vẹn." (Cl 1,25). Phaolô trở thành chứng nhân đích thực xông pha trong
mọi lĩnh vực, cốt là để vinh danh Chúa Kitô. Tin Mừng đã lãnh nhận như một kho
tàng, Ngài đã đem ra rao truyền và phân phát một cách nhưng không để lôi kéo
mọi người về với Chúa.
Thánh Phaolô đã đến với dân ngoại, nơi có một cánh đồng truyền giáo
bao la. Ngài rao giảng, thuyết phục và làm nhân chứng sống động. Ngài chấp nhận
bị xua trừ, tẩy chay, đánh đập, tù đày và bị thiệt thòi danh phận để danh Chúa
được cả sáng. Phaolô rao truyền Tin Mừng một cách nhiệt thành sứ vụ được Chúa
Kitô trao: "Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển
hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng
ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang." (Cl 1,27). Tất cả đều
chung quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Bất cứ sự gì ngài đã lãnh nhận nhưng không,
thì ngài đã cho nhưng không. Không giữ lại điều gì làm của riêng để được vui
hưởng một mình.
Cuộc sống của chúng ta phát triển không ngừng. Mỗi ngày, chúng ta
hãy cố gắng làm một việc tốt, dù nhỏ, nó sẽ sinh hoa kết quả tốt. Một lời nói
nhẹ nhàng êm dịu, có thể cải hoá được lòng người. Một cử chỉ đón tiếp ân cần,
có thể làm vui mảnh hồn cô đơn, giá lạnh. Một hành động bác ái nhỏ như cho đi
một ly nước vì danh Chúa sẽ không mất phần thưởng. Một ngọn lửa, dù bé nhỏ, có
thể toả lan ánh sáng và sưởi ấm lòng người. Một bàn tay rộng mở, ân phước ngập
tràn niềm vui. Chúng ta hãy cùng mở rộng tấm lòng đón nhận và mở cửa nhà chào
đón anh chị em, cuộc sống gia đình của chúng ta sẽ thêm phúc lộc đầy tràn.
Lạy Chúa, Chúa rộng lượng từ bi và nhân hậu với hết mọi loài. Xin
cho chúng con biết mở lòng quảng đại với tha nhân. Chúng con nhận lãnh quá
nhiều hồng ân, nhưng cho đi chẳng bao nhiêu. Xin cho chúng con biết nhận lãnh
và biết tiếp tục trao ban.
8. Phần tốt
nhất – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khung cảnh gia đình
Bước vào Chúa nhật XVI thường niên C, thánh sử Luca thuật lại cho
chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Gia đình hai cô hàng ngày ra sao
chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất
bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân nghe Chúa và nghe lời
Người chúng ta mới có chuyện (Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu
em trai là Lazarô không thấy nói tới.
Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh diễn ra trong nhà: người chị
chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với
Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã đứng lại và
lên tiếng nói với vị Khách: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà
không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?" Xem ra cô chị
Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa. Nhưng
Chúa Giêsu bình tĩnh đáp lại: "Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều
chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị
ai lấy mất" (10,41-42).
Thái độ cần phải có
Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác
nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc
cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta
đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: "Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện,
Maria đã chọn phần tốt nhất". Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.
Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ
hiếu khách của Matta khi Ngài nêu bật hành vi của Maria "ngồi bên chân
Chúa mà nghe lời Người." Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn
thích người "nghe" lời Người hơn là loay hoay chuyện rót nước, dọn
cơm... Ngài cũng cho biết đây là "phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy mất.
"
Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của
Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để
trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu
khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được
thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của
Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại
càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria
đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với
Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại
ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.
Gương của Matta và Maria
Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo
chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này
làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời
Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công
việc: “Maria đã chọn phần tốt nhất”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà
không ai có thể lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không
phải là đãng trí, nhưng là chú ý; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống
cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất
tốt, tức là nghe những không được đón nhận (Lc 8, 5.12)
Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm
cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những
lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan
đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng
ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con
người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà
ông, khi thưa: "Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và
đồng lao cộng khổ với con" (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời
trách móc những việc Matta làm: Maria được Đức Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn
phần tốt nhất. Đức Giêsu là Đấng giầu có, và Ngài trao ban cho cả hai cô Matta
và Maria cách quảng đại; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và
chọn lựa điều quan trọng nhất.
Các Tông Đồ cũng cho rằng: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời
Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa
hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đểu là việc khôn
ngoan: Stéphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông
Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn
thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)... Như thế, Giáo hội là một thân thể,
các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể: "Vậy mắt không có thể bảo
tay: "Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo hai chân:
"Tao không cần chúng mày". (1 Cr 12, 21)... Nếu có một vài chi thể
quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn
ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.
Lời Chúa trong cuộc đời
Sống trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh,
trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải
lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe
tiếng Ngài, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu
nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh
Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Đặc biệt vào
ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa.
Điều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong
đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự
sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ
ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa
ngày của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe
và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời.
Amen.
Có những điều chúng ta muốn và có những điều chúng ta cần. Những gì
cần thì quan trọng hơn là muốn bởi vì muốn có nghĩa là có cũng được mà không có
cũng chẳng sao. Quá quắt lắm muốn mà không được thì cãi nhau một trận, giận
nhau một thời gian, rồi thôi. Nếu giận mãi, giận hoài sẽ trở thành quá khích mà
quá khích thì khó chiều.
Điều cần là điều không thể thiếu. Nếu thiếu mà chấp nhận được, điều
đó có thể nằm giữa cần và muốn. Điều cần là điều không thể thiếu vì nó cần
thiết cho cuộc sống. Điều chúng ta muốn nếu có sẽ làm cho cuộc sống bảnh hơn
trong khi điều cần mang lại sự sống cho con người vì thế điều cần là điều không
thể thiếu vì nó liên quan đến sống còn.
Những điều chúng ta cần cũng thay đổi tùy hoàn cảnh cuộc sống. Hôm
nay tôi cần có thời gian thinh lặng một mình, ngày mai tôi lại cần có bạn. Hôm
nay tôi cần lắng nghe bạn và rất có thể ngày mai lại cần bạn lắng nghe tôi tâm
sự. Hôm nay tôi cần bạn chia sẻ niềm vui ngày mai tôi cần bạn cùng tôi suy gẫm
sự đời. Tình cảm con người lạ lắm. Cũng là tình cảm nhưng mỗi loại khác nhau.
Niềm vui chia sẻ làm tăng niềm vui, tâm sự buồn chia sẻ làm vơi nỗi sầu. Cơn
nóng giận tăng lên nếu có người châm dầu trong khi lời an ủi làm tươi làn môi.
Có điều cần liên quan đến bản thân, có điều cần liên quan đến tâm
lí, có điều cần liên quan đến tâm linh con người. Những điều liên quan đến bản
thân dễ nhận ra; điều cần liên quan đến tâm lí hơi khó nhận biết, đôi khi cần
có người trợ giúp để nhận biết. Điều cần liên quan đến tâm linh rất khó nhận ra
vì nó không gây áp lực mãnh liệt trong cuộc sống nhưng bàn bạc khi ẩn, khi
hiện, khi mãnh liệt, lúc lại nhẹ nhàng. Dấu chỉ nhận biết nhu cầu tâm linh lệ
thuộc vào đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm không nhìn được chỉ cảm nhận được.
Người cảm nhận mãnh liệt nhất chính là đương sự. Nếu đương sự không quan tâm để
í vấn đề còn khó hơn nữa. Cảm thấy chán nản trong cuộc sống, bình an nội tâm
thiếu vắng, mất í nghĩa cuộc đời, tương lai mù mờ, đời vô vị, mất nghị lực làm
việc. Những dấu chỉ đó cho thấy tâm hồn đói khát tâm linh. Thân xác có thể no
đủ nhưng tâm linh đói khát. Tâm linh mạnh khoẻ mang lại bình an nội tâm, hướng
tâm hồn về tương lai trong tình yêu hy vọng. Không giống nhu cầu thân xác khi
đói khát nó đòi hỏi rất mãnh liệt trong khi nhu cầu tâm linh đòi hỏi nhẹ nhàng,
thoang quảng trong cuộc sống. Mất bình an nội tâm, cô đơn và mất hy vọng là
những dấu chỉ rõ nhất. Một số tìm niềm vui nơi chốn đông hy vọng lấp khoả trống
vắng tâm hồn, số khác trốn cô đơn qua rượu và thuốc. Tất cả những thứ đó làm
dịu nhu cầu đang thiếu, thoả mãn nhu cầu tâm linh cách giả tạo. Tâm linh muốn
những gì lâu dài, trường cửu. Vật chất trần thế có giới hạn riêng của nó, nên
không thể tìm niềm vui vĩnh cửu nơi trần thế mà phải tìm niềm vui đó nơi Đức
Kitô vì Người là nguồn tình yêu vô tận.
Trốn tránh cô đơn trong vật chất biến ta thành con người ích kỉ,
chỉ biết đến mình, mong thoả mãn nhu cầu riêng mình, quên nhu cầu tha nhân.
Kinh thánh hôm nay nhắc chúng ta một điều quan trọng. Đó là không cần phải đi
tận chân trời, góc biển tìm kiếm bình an nội tâm. Tìm ngay trong gia đình, nơi
người mình đang chung sống, nơi cộng đoàn mình đang sinh hoạt vì những nơi đó
Lời Chúa được thể hiện, được mang ra thực hành. Điều rõ ràng là cô Martha bận
rộn liên tục nhưng tâm bất an; trong khi cô Maria ngồi dưới chân Đức Kitô và cô
tìm được bình an nội tâm. Những ai lắng nghe Lời Chúa sẽ tìm được bình an nội tâm.
Dùng Lời Chúa biện hộ khi tranh luận là tỏ ra có kiến thức nhưng trong họ không
có ơn khôn ngoan. Lời Chúa phải được thực hiện qua hành động bác ái, yêu
thương, mà không dùng để nói lí lẽ.
10. Để cho
Lời Chúa soi dẫn cuộc đời
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau
khổ của nhân loại.
Người thì nói là do lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì
cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui
khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo phát sinh...
Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: "Mọi
đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng
nghe..." (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
* * *
Yên lặng để lắng nghe! Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan...
Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc
nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu
đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria
hơn và trách Mácta:
"Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ
có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy
đi." (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời
Chúa là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.
Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi
cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời.
"Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con
đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý,
người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm
thấy niềm tin và hy vọng tràn trề... Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm
trong tối tăm.
Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm
trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời
người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt
đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi
tai ương.
Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời
Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong
đời mình.
Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của
cuộc sống.
Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới
ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng
bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng
hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều
đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực,
đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh
hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu
tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng
của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi...
Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra..."
Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi
và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người
Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.
Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng
đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã
đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi
và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.
Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn
đề và thách thức trong cuộc sống.
Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí
cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối
nầy.
Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe phải vượt những chặng đường
đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm. Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì
chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời
chúng ta.
Khi Chúa Giê-su đến thăm nhà, cô Mác-ta đã dành cho Người một cuộc
tiếp đón rất nồng nhiệt. Cô "tất bật lo việc phục vụ" Chúa thật chu
đáo, Cô "băn khoăn lo lắng nhiều chuyện"... để cho Chúa được vui
lòng. Thế mà chẳng được Chúa khen, lại còn bị trách là: "Sao con băn khoăn
lo lắng nhiều chuyện quá!" Thế có oan không chứ?
Thật ra, Chúa Giê-su không có ý trách Mác-ta về việc phục vụ hầu hạ
tận tình của cô. Chúa chỉ muốn lưu ý Mác-ta rằng: Điều cần thiết hơn cả là lắng
nghe, là đón nhận lời Người. Cô Maria đã khôn ngoan chọn làm việc nầy (tức lắng
nghe Lời Chúa) và Chúa Giê-su cho đó là chọn phần tốt nhất.
Maria đã chọn phần tốt nhất vì lắng nghe lời Chúa là việc làm hệ
trọng nhất trên đời, là khai thác một kho tàng vô giá không có gì trên cõi đời
nầy có thể sánh được, là nắm lấy bí quyết để được sống hạnh phúc muôn đời. ..
***
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng lại đến nhà chúng ta và trao gởi cho
chúng ta những tâm tình, những lời châu ngọc, những giáo huấn khôn ngoan... như
Người đã trao ban cho cô Maria hôm xưa. Đó là cuốn Tin Mừng.
Để có thể trao tặng cho chúng ta cuốn Tin Mừng như chúng ta hiện có
hôm nay, Chúa Giê-su đã phải 'biên soạn' rất công phu. Người đã phải mất đến ba
mươi ba năm mới hoàn thành tác phẩm rất vĩ đại nầy.
Thật ra, Chúa Giê-su không viết Tin Mừng nhưng Người đã dệt nên Tin
Mừng bằng ba mươi ba năm cuộc sống.
Tin Mừng của Chúa Giê-su được dệt bằng chính cuộc sống dương gian
của Người, kể từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria, sinh ra trong chuồng bò,
trốn lánh sang Ai Cập, trở về sống đời niên thiếu ở Na-da-rét, rồi lớn lên
trong phấn đấu nhọc nhằn, đổ mồ hôi lao động đổi lấy áo cơm...
Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô được tiếp tục dệt bằng ba năm thao
thức rao giảng trên các nẻo đường Do-Thái, dệt bằng lòng yêu thương người tội
lỗi, dệt bằng lòng thương xót các bệnh nhân và người đau khổ, dệt bằng lòng thứ
tha vô hạn, bằng tình yêu không biên giới...
Tin Mừng Đức Giê-su được đan dệt bằng nước mắt và mồ hôi máu cùng
nỗi buồn sầu quá đỗi trong vườn Cây Dầu, bằng roi đòn tươm máu, bằng vác thập
giá đau thương, bằng những giọt máu cuối cùng vọt ra từ cạnh sườn bị đâm thâu
trên thập giá...
Tin Mừng Đức Giê-su được thành hình như thế đó, không phải bằng chữ
viết mà bằng cả cuộc đời, một cuộc đời sống cho tình yêu, chết cho tình yêu,
yêu cho đến cùng...
Để trao tặng cho chúng ta một cuốn Tin Mừng, Đức Giê-su đã phải trả
giá như vậy đó ! Vậy thì Tác Phẩm nầy đắt giá biết bao !
Tin Mừng Đức Giê-su cũng là kho tàng khôn ngoan siêu đẳng của Thiên
Chúa, được Đức Giê-su đem từ trời xuống ban tặng cho thế gian để nhờ Tin Mừng
của Người, loài người học được sự khôn ngoan của Thiên Chúa, được sống trong an
bình và được vui hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên quốc.
So với sự khôn ngoan được Chúa Giê-su bày tỏ trong Tin Mừng, thì sự
khôn ngoan của thế gian nầy chỉ là rơm rạ, cỏ rác!
Tóm lại, Tin Mừng là kho tàng trên hết mọi kho tàng, là nguồn mạch
khôn ngoan trổi vượt khôn ngoan thế gian, là nguồn phát sinh hạnh phúc và sự
sống, là con đường đưa tới sự sống đời đời. Đây là một công trình vĩ đại được
hình thành suốt ba mươi ba năm dương thế của Thiên Chúa Ngôi Hai với sự chỉ đạo
của Chúa Cha và sự cộng tác của Chúa Thánh Thần.
Công trình vĩ đại nầy, quà tặng vô giá nầy, kho tàng quý báu nầy
được Thiên Chúa trân trọng trao vào tay chúng ta. Vậy mà chúng ta không muốn
nhận. Chúng ta quá thờ ơ hờ hững với tặng phẩm cao quý nầy; như thế là xúc phạm
đến Đấng đã trao ban.
Có lẽ cũng như Mác-ta ngày xưa, chúng ta "lo lắng băn khoăn về
nhiều chuyện quá" nên chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới Tin Mừng; cõi lòng
chúng ta đầy ắp những tham vọng trần thế, những ham muốn phàm trần nên không
còn chỗ cho Tin Mừng của Chúa bén rễ. Đáng tiếc thay!
***
Hôm xưa, khi Chúa Giê-su đang giảng giữa đám đông, một phụ nữ thán
phục Người quá đỗi nên đã cất tiếng ca tụng: "Phúc thay người Mẹ đã cưu
mang và cho Thầy bú mớm !" Nhưng Chúa Giê-su trả lời người ấy rằng:
"Đúng hơn phải nói rằng: "Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa". (Lc 11, 27-28)
Ước gì hôm nay chúng ta trân trọng đón nhận quà tặng vô giá Chúa
ban là Tin Mừng sự sống và sốt sắng lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, để
mai ngày đáng được Thiên Chúa liệt vào hàng ngũ những người được hưởng phúc đời
đời.
12. Maria đã chọn
phần tốt nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Chỉ còn ba cây số, Đức Giêsu và các môn đệ sẽ đến trung tâm
Giêrusalem, Người đã dừng lại tại làng Bêtania, vào nhà Mácta, Maria và Ladarô,
ngôi nhà Người quen biết. Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần. Gioan trong một
câu ngắn ngủi, đã kể lại: "Đức Giêsu quý mến cô Macta, cùng hai người em
là cô Maria và anh Ladarô" (Ga 11,5). Macta, một người hoạt động; Maria,
một người trầm lặng. Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn hữu.
Hôm nay, khi Đức Giêsu vào nhà, Macta phục vụ bữa ăn, Maria ngồi
dưới chân Chúa. Đức Giêsu nói chuyện với Maria... cô lắng nghe. Hai người cùng
nhau nói điều gì? Chắc Đức Giêsu sẽ tâm sự với Maria về cái chết và sự Phục
sinh của Người, Người lên Giêrusalem là vì việc đó. Nó chiếm trọn tâm hồn
Người. Đã nhiều lần Người chia sẻ với các môn đệ, nhưng xem ra họ không hiểu.
Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng
cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao?
Dẫu sao, nhờ Maccô và Gioan, ta biết người phụ nữ trực cảm này đã
hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của
Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô, những ngày trước Lễ Vượt
Qua. Một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước việc ướp xác bằng dầu thơm cho
Người, một việc mà các phụ nữ khác không thể thực hiện được, khi họ đến mộ
"ngày đầu tiên trong tuần", bởi mộ trống. Maria đã làm việc đó với sự
tinh tế tuyệt diệu. Đức Giêsu hiểu điều đó: "Điều gì làm được, cô ấy đã
làm. Cô đã lấy dầu thơm ướp xác Tôi, để chuẩn bị ngày mai táng" (Mc 14,8
& Ga 12,2-8).
Đang khi Maria tâm sự với Đức Giêsu, Macta tất bật lo việc phục vụ,
đã nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới
sao? Thầy bảo nó giúp con một tay". Hẳn ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu
gọi Maria phải ngoan ngoãn giúp chị. Trong nhiều tình huống, Đức Giêsu yêu cầu
ta phải phục vụ, phải yêu thương. Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giêsu lại
ngược hẳn: "Macta! Macta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có
một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Vâng, Macta lo lắng, dao động quá nhiều. Đây là một đề tài được Đức
Giêsu ưa thích. Người đã nói, "những lo lắng về đời sống có thể bóp nghẹt
Lời Chúa đã được gieo vào lòng người" (Lc 8,14). Người yêu cầu các Tông đồ
không nên bận tâm về của ăn và áo mặc (Lc 12, 22-26). Người cũng bảo chớ để
lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời, trong lúc chờ đợi Con Người lại đến (Lc
21,34). Đức Giêsu không trách Mácta về công việc cũng như sự nhiệt tình tiếp
đón tích cực của cô, nhưng trách sự căng thẳng, sự dao động thái quá mà dường
như cô đặt vào công việc. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó, làm cho cô co quắp
lại với chính mình.
Phần chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như Mácta, lúc nào cũng
chạy phi nước đại, bận trăm công nghìn việc. Cuộc sống thường ngày của chúng ta
được cấu thành bởi hàng loạt những việc mọn và bổn phận, chia làm hai hạng: Cấp
bách và chính yếu. Rất nhiều việc chúng ta làm được gọi là cấp bách, nhưng chỉ
có ít việc là thực sự chính yếu. Chúng ta cần phân biệt giữa hai hạng đó. Như
Mácta, chúng ta có xu hướng coi trọng việc cấp bách. Việc chính yếu, việc cần
thiết lại bị coi là thứ yếu và để lại làm sau. Nhưng khi được làm, nó được làm
cách vội vàng, chiếu lệ.
Làm sao chúng ta có thể biết đâu là việc chính yếu, việc hàng đầu
của mình? Cách tốt nhất để nhận ra nó, là phải suy nghĩ theo cách cư xử thông
thường của mình. Điều gì làm cho chúng ta tốn thời gian nhất? Điều gì làm ta
phải bỏ nhiều năng lực nhất? Đích thực đó là việc chính yếu của ta.
Maria đã làm điều chính yếu: "Ngồi bên chân Chúa, nghe lời
Người dạy". Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người,
bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải:
Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian. Đức Giêsu cũng đã đưa ra
cùng một yêu sách như thế trong những dịp khác: "Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh mà còn bằng Lời từ miệng Chúa phán ra" (Lc 4,4), "Lương
thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy" (Ga 3,34). Đức Giêsu
không đánh giá thấp sự phục vụ mà Macta đem lại, khi bận rộn với việc nội trợ
và bếp núc. Nhưng để đi theo Đức Giêsu, ngay cả những gì có giá trị nhân bản
nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18; 22,9). Hãy lắng nghe lời Chúa, đó là bổn
phận đầu tiên của con người. Giảng dạy lời Chúa là bổn phận trước hết của nhà
truyền giáo. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để.
Đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải lần cuối cùng, Đức Giêsu khẳng
định điều đó. Không lắng nghe lời Chúa, chính là xây nhà trên cát (Lc 6,47-49),
lắng nghe lời Chúa chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15).
Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria không phải vì là Mẹ của Chúa,
song vì Mẹ đã "lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành" (Lc 11,27-28).
Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời Chúa như thế nào? Có phải đó
là phần tốt nhất của chúng ta? Chúng ta có ưu tiên không? Điều nào là điều
chính yếu?
13. Cầu nguyện
hướng tới phục vụ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mẹ Têrêxa Calcutta chia sẻ bí quyết: "Nếu chúng ta cầu nguyện
thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng
ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ. Bí quyết sống của tôi hết sức đơn sơ.
Tôi cầu nguyện. Và trong cầu nguyện, tôi say mê yêu mến Chúa Kitô, và tôi hiểu
rằng cầu nguyện với Chúa là yêu mến Chúa, và điều này có nghĩa là chu toàn Lời
Chúa dạy. Hãy nhớ những lời của Phúc Âm theo thánh Mathêu:Ta đói và các con đã
không cho ta ăn, Ta khát và các con đã không cho ta uống; ta là khách lạ và các
con đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các con đã không cho mặc. Ta bệnh hoạn
và bị cầm tù, các con đã không đến thăm Ta.
Những người nghèo của tôi ở mức độ tận cùng của xã hội là như Chúa
Kitô chịu đau khổ. Nơi họ, Con Thiên Chúa sống và chết, và qua họ Thiên Chúa
chỉ cho tôi nhìn thấy dung mạo thật của Ngài. Đối với tôi, cầu nguyện có nghĩa
là sống 24 giờ một ngày hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu, là sống
nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài.
Nếu chúng ta cầu nguyện, thì chúng ta mới tin; nếu chúng ta tin,
thì chúng ta mới yêu thương; nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mới phục vụ.
Chỉ khi đó chúng ta mới có thể đặt tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa
trong hành động cụ thể, là phục vụ Chúa Kitô trong dung mạo cùng khổ của nguời
nghèo".
Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả: "cầu nguyện thế nào thì sống
như vậy" (số 2725). Đời sống Kitô hữu đích thực vừa là một hoạt động có
chiêm niệm vừa là một chiêm niệm có hoạt động. (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu,
số 23).
Cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu.
Cần thực hiện cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống hàng ngày.
Tin mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria đón tiếp Chúa
Giêsu, mỗi người mỗi cách. Maria ngồi bên chân Chúa với tâm thế lắng nghe. Cô
không làm gì, không nói gì, chỉ ngồi nghe. Cô đón tiếp Chúa Giêsu với một phong
cách tốt nhất.
Matta lo việc bếp núc, phục vụ ăn uống. Có lẽ Matta ganh tị với em
nên khiếu nại với Chúa: "Thưa Thầy, em con để một mình con phục vụ mà Thầy
không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Matta trách em,
nhưng cũng là một cách kể công và khoe mình quan trọng và có thể coi đó như một
lời trách khéo đối với Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa nhẹ nhàng đáp lại: "Matta, Matta ơi, con lo lắng
bận rộn nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn
phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất ". Chúa đã khen Maria biết chọn
phần tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là chọn làm nhiều, nhưng là biết
nghe, hiểu, và làm theo ý Chúa. Việc lắng nghe để nhận ra thánh ý Chúa nhiều
khi đòi hỏi người ta phải biết cầu nguyện, phải giữ một tâm hồn thanh tĩnh và
phải biết tập trung cao độ để nhận ra được thánh ý Chúa. Đức Hồng Y FX Nguyễn
Văn Thuận bị chính quyền Cộng sản bắt khi ngài đang tiến hành những công việc
của giáo phận như mở Đại Chủng viện, các dòng tu, các khoá huấn luyện... Ai sẽ
là người kế nhiệm để lo công việc mục vụ quan trọng này? Ngài lo lắng ngày này
qua ngày khác. Rồi đến một ngày, ngài nhận ra rằng: "Tất cả những gì tôi
đang lo lắng là việc của Chúa. Còn lúc này đây, Chúa muốn cho tôi tìm chính ý
Chúa. Tôi đang làm việc cho Chúa thì tại sao lại lo lắng những công việc của
Chúa. Nếu đã đạt được ý Chúa thì công việc của Chúa khắc có người lo". Và
từ lúc ấy, ngài tìm được bình an. Ngài chỉ tìm ý Chúa, còn công việc của Chúa
thì người này lo, người khác lo và Chúa quan phòng luôn tiếp tục. Ngài nhận
định "Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc Âm không
phong thánh cho người làm biếng. Maria chọn phần tốt nhất: nghe Chúa nói, để
Lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt
động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy?" (ĐHV 147).
Người ta thường giải thích câu nói của Chúa Giêsu như một sự đề cao
chiêm niệm trên hoạt động. Matta tiêu biểu cho đời sống hoạt động, lo lắng về
những nhu cầu vật chất. Maria tiêu biểu cho đời sống chiêm niệm, lắng nghe Lời
Chúa, cầu nguyện. Trên thiên đàng người ta chỉ còn chiêm ngắm Thiên Chúa trong
niềm hạnh phúc vĩnh cữu. Như thế, Maria đã đạt tới cùng đích của đời sống Kitô
hữu. "Phần hơn" của cô là ở chỗ đó. Có Chúa rồi, "chiếm
hữu" được Chúa rồi thì còn gì hơn nữa!
Chúa Giêsu đón nhận sự phục vụ ân cần của Matta và đưa ra bậc thang
giá trị, cần "chọn phần tốt nhất". Chọn Lời Chúa và lắng nghe. Đó
chính là "phần tốt nhất" như lời Tv 119: "Lạy Chúa, con đã nói,
phần của con là tuân giữ Lời Ngài ". Lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà
mình trên đá (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời giúp tâm hồn trở thành mảnh đất trổ
sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc của Đức Maria là "lắng nghe Lời Thiên
Chúa và đem ra thực hành" (Lc 1 1,27-28).
Đối với Chúa Giêsu, cả hai cách phục vụ của Matta và Maria đều cần
thiết và bổ túc cho nhau. Điều Chúa muốn nhắc cho Matta là: việc cốt yếu đối
với người môn đệ là "nghe Lời Chúa và đem ra thực hành". Nhiều lần,
Chúa nói về điều cốt yếu ấy: "Phúc cho ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra
thực hành" (Lc 11,28); "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe
lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21; Mt 12, 46-50; Mc 3, 31-35).
Hoạt động và cầu nguyện là nhịp sống đời Kitô hữu. Cầu nguyện là
linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. Cầu nguyện làm
nền tảng cho mọi hoạt động.Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt
hơn. Mẹ Têrêxa Calcutta và các Nữ tu dù bận rộn công việc hằng ngày vẫn luôn
dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Mẹ luôn là gương sáng cho các
Nữ tu, cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày dành một giờ chầu Mình Thánh
Chúa, sau đó mới đến các nơi nghèo nàn ở Calcutta để chăm sóc những người
nghèo khổ hoặc đi vào trong các căn nhà tồi tàn giúp những người hấp hối được
chết lành.
Tham dự Thánh lễ chính là lúc chúng ta như Maria ngồi dưới chân
Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, xin đừng dè sẻn cò kè thời giờ,
đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, xin đừng dự lễ "đạo gốc cây",
"đạo vòng vòng" ở ngoài sân nhà thờ. Xin đừng đến với Chúa chỉ vì bắt
buộc, miễn cưỡng, sợ tội. Hãy đến với Chúa như một người con thảo, đến để gặp
Chúa, lắng nghe Lời Chúa, đến là vì lòng yêu mến Chúa và muốn sống hiếu thảo
với Ngài mà thôi.
Thánh lễ cũng chính là lúc Chúa đến thăm và ban ơn sủng cho chúng
ta. Hãy quý trọng sự hiện diện của Chúa. Hãy tham dự tích cực, linh động, cầu
nguyện sốt mến, thưa chuyện với Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể ban thêm cho chúng
ta đức tin, tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ để chúng ta
dấn thân phục vụ anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những
lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh
thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và
khuôn mặt thật của Chúa. Amen. (Mana)
14. Thời giờ cho
Chúa và cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hóa ra một món quà tặng không quan trọng bằng
sự hiện diện bên nhau. Vì món quá có thể mua được, có thể thay thế được, nhưng
không thay thế một người trong trái tim một ai đó. Có lẽ vì thế mà nhiều người
cảm thấy cô đơn khi thiếu sự chia sẻ, sự hiện diện của người mình yêu. Họ được
chu cấp tiền. Họ có thể đang ngồi trên nhung lụa nhưng vẫn không hạnh phúc cho
bằng có người mình yêu bên cạnh.
Thế nhưng, vẫn còn đó những người chồng bỏ rơi
vợ con chỉ vì quá chú trọng đến công việc để kiếm tiền. Vẫn còn đó những người
cha người mẹ chỉ mải mê công việc mà thiếu quan tâm đến con cái. Vẫn còn đó
những người con nại vào nhiều lý do để trì hoãn việc về thăm gia đình, thăm cha
mẹ. Họ đã vì công việc, vì đồng tiền mà để cho những người thân của mình sống
trong cô đơn. Họ đâu hiểu rằng: tình người quan trọng hơn đồng tiền. Ai cũng
cần được quan tâm, được hỏi han, được chia sẻ, nhưng đôi khi chúng ta lại tưởng
chỉ cần hàng tháng mang về ít tiền là đủ rồi! Đây là một sai lầm khiến cho biết
bao gia đình tan vỡ.
Chúa Giê-su trong thân phận con người, Ngài
cũng đề cao tình người. Mân cao cỗ đầy là tốt, nhưng tốt hơn vẫn là thời giờ
dành cho nhau. Ngài đã trách Matta lo lắng nhiều chuyện. Ngài trách Matta lấy
phụ thành chính. Ngài đề cao Maria, biết chọn phần tốt nhất là dành thời giờ
cho Chúa và bên Chúa. Bữa ăn biểu lộ lòng hiếu khách nhưng bữa ăn sẽ mất ngon
nếu thiếu những câu chuyện, những lời nói rộn ràng với nhau. Maria đã chọn phần
tốt hơn. Khi cô không vì công việc mà bỏ bê khách. Cô ân cần, chu đáo ngồi bên
Chúa để lắng nghe và tâm sự với Chúa.
Ngày hôm nay, thế giới càng văn minh, con
người càng vội vã, bận rộn. Người ta có trăm ngàn công việc để quan tâm nên
tình người bị xao nhãng. Người ta mải mê với công danh sự nghiệp mà quên đi
tình người. Điều đáng sợ cho con người hôm nay là không còn thời giờ bên Chúa.
Họ đi lễ vội vàng. Họ đến muộn nhưng về sớm. Họ đi lễ nhưng không gặp Chúa vì
chỉ tranh thủ đi lễ cho xong. Họ có thể ngồi hàng giờ bên quán cafe để tán ngẫu
với nhau nhưng lại không thể ngồi yên đến năm phút để tưởng nhớ đến Chúa. Họ
bận rộn công việc làm ăn buôn bán mà quên rằng có một Đấng luôn chúc phúc cho
việc làm ăn của mình. Họ quên sự hiện diện của Chúa. Họ quên cám ơn Chúa. Họ
mải mê với công việc và vui chơi giải trí mà quên rằng cuộc đời của họ được như
vậy là bởi ơn trời ban xuống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy quảng đại dành
thời giờ cho Chúa. Chúa vẫn viếng thăm chúng ta. Chúa vẫn đang lặng lẽ viếng
thăm hồn ta. Hãy mở rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy ngồi lại bên Chúa để tạ ơn về
những ơn lành Chúa ban, để thưa chuyện với Chúa về những khó khăn mà chúng ta
đang trải qua.
Việc chúng ta dành thời giờ cho Chúa xem ra có
ích cho chúng ta hơn là cho Chúa. Vì qua thời giờ bên Chúa ta kín múc được muôn
vàn ơn thánh của Chúa. Ta cầu xin ơn trên ban xuống cho cuộc đời chúng ta. Ta
phó dâng vào sự quan phòng của Chúa những ưu tư khó khăn trong cuộc đời chúng
ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết ưu tiên cho việc
thờ phượng Chúa và biết dành thời giờ cho nhau. Ước gì chúng ta đừng phung phí
thời giờ trong những giải trí vô bổ, những đam mê bất chính. Amen.
15. Chúa
viếng thăm – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam thường có câu: "lời chào cao hơn mân cỗ". Vì cái tình quý
hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng
cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy,
cái qúy giá ở đời là được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh
em chia sẻ, cảm thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay
đói khổ nhưng được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan
và bình an.
Người ta kể rằng thời Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường có thói quen đến thăm các nhà thương để có
dịp chuyện vãn với các anh em thương binh trong thời nội chiến.
Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng Thống tới phòng các thương binh đang được
điều trị và đến bên một bệnh nhân rất nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông
hỏi:
- Tôi có thể làm chút việc gì giúp anh được không?
Có lẽ không nhận ra người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân
gắng gượng nói:
- Xin ông làm ơn viết lá thư cho mẹ tôi.
Người ta trao bút giấy cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống
những gì bệnh nhân có thể nói lên được.
"Mẹ rất yêu dấu của con! Con bị thương nặng trong khi thi hành
nghĩa vụ quốc gia. Có lẽ con sẽ không bao giờ bình phục được nữa. Xin mẹ đừng
khóc nhiều vì con. Xin mẹ hôn hai em Mary và John dùm con. Nguyện xin Chúa chúc
lành cho mẹ, cho ba và hai em."
Nói tới đây, người thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp
nữa, nên ông Lincoln ký thay cho anh ta và thêm: "Viết thay cho con trai của bà. Ký
tên: Abraham Lincoln."
Bệnh nhân xin cho xem lại những gì người khách đã viết thay cho
mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra người đã tới thăm mình. Anh hổn hển hỏi với
giọng ngạc nhiên:
- Ông thật là Tổng Thống của Hoa Kỳ ư?
Abraham Lincoln trả lời cách âu yếm.
- Phải chính tôi đây.
Tổng Thống hỏi thêm xem mình còn có thể giúp anh thương binh được
việc gì nữa chăng. Gương mặt anh bỗng chốc bừng lên, anh sung sướng nói:
- Xin Tổng Thống cầm tay tôi, và giúp tôi đi đến cùng.
Trong căn phòng bé nhỏ, ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha,
âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh
những lời khích lệ thân mật cho tới khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.
Lời Chúa hôm nay cũng gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà
Chúa Giêsu đã dành cho gia đình ở Betania. Ngài đã đến với gia đình Matta và
Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước,
nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình
côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại
quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh
soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô
chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria
giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp nhận. Vì Chúa đến đây
không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được phục vụ. Con đường Chúa đến với
tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa không muốn trở thành gánh nặng cho
tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói lên sự quan tâm,
tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói với Matta: "Matta, con lo
lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở
việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo".
Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm
sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự
sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm
tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Đôi khi những người trong gia đình cũng
chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm
tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu
đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc
chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại,
để băng bó những thương tích của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần
gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau,
thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những
việc viếng thăm, qua những việc giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì
mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em,
để biết sống mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình
yêu thương. Amen.
16. “Con
lo lắng bối rối nhiều chuyện” – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tôi thèm muốn được ở với Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách.
Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón Chúa Giêsu! Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài
đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến Maria hơn.
Mến Maria hơn sao? Chắc chắn rằng Ngài quý mến tấm lòng tự do hoàn
toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài không khinh dể Mácta, Ngài khó chịu do sự ân
cần của chị. Phải hiểu sự lắng nghe và sự ân cần được nói đến ở đây.
Trong khi biết rằng những lo lắng không ngừng rơi xuống trên chúng
ta. Chúa Giêsu không muốn chúng ta để cho những lo lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ.
Vì như thế là nghi ngờ Thiên Chúa, là mỉa mai kinh “Lạy Cha”, lời kinh của sự
không lo lắng, của tấm lòng tự do. Chỉ có một ước muốn lớn lao duy nhất: “Xin
cho Nước Cha trị đến!” và một niềm tin cũng lớn lao không kém: “Xin cho chúng
con hôm nay lương thực hàng ngày”. Thánh Têrêxa nói: “Chỉ cho ngày hôm nay mà
thôi”.
Đúng như ý tưởng của Chúa Giêsu: “Đừng băn khoăn chi cho ngày mai,
ngày mai sẽ lo cho ngày mai… Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ
ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm
chúng ta quá bận lòng, và Chúa Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này
của chúng ta: “Các ngươi lo ăn gì, mặc gì… Các ngươi đừng lo phải nói gì trước
toà án… Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa… Các
ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi…”. Chắc Ngài đã phải
kinh ngạc vì thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần phải có
tinh thần hoàn toàn tự do.
Không thể lui tới với Ngài nếu chúng ta không luôn luôn chú ý giữ
gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng nghe hoặc để phục vụ Ngài, chúng ta cần loại
bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta đã phá hoại rất nhiều sự lắng nghe của chúng
ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra điều đó.
Chúng ta ít chú ý đến việc các lo toan xâm nhập vào sự phục vụ. Sự
lo lắng thái quá thì không tốt, nó có thể làm hỏng sự ân cần, người tận tuỵ trở
thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự bận rộn của mình và nhanh chóng ghen tị với
những người khác vì “họ chẳng làm gì cả”. Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế
nhưng lại tạo nên một bầu khí phản kháng, khó chịu.
Đây là điều đã xảy đến với Mácta đáng thương. Chị cũng cần phải có
những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe và những giây phút cao cả để phục vụ. Ngày
hôm đó chị đã không biết hài lòng về tất cả trong sự độ lượng. Chúa Giêsu đến,
bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui được thấy Maria hạnh phúc.
Ôi Mácta, chị đã bắt đầu một ngày tốt đẹp biết bao! Chị có thể vừa
làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng lòng và không còn tấm lòng tự do nữa.
Chính sự tự do này là phần tốt nhất.
17. Chỉ có
một việc cần mà thôi – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Có một câu chuyện vui kể rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại
nhỏ có bốn người và một phi công, một thương gia, một linh mục nhà truyền giáo
và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang bay, bỗng một động cơ bị trục trặc, ngưng
hoạt động, viên phi công cố gắng mãi mà động cơ vẫn không hồi phục và cũng
không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối cùng, ông phải tuyên bố một giải pháp
là nhảy dù để thoát hiểm.
Ông mang ra ba cái dù và nói: Tôi là phi công, tôi còn có vợ và ba
đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế là ông ta đeo một chiếc dù rồi nhảy xuống.
Liền sau đó vị thương gia tuyên bố: Tôi là một kỹ sư và là một thương gia, hiện
thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại nên tôi cần phải sống, rồi ông vội vã
khoác tay vào dây đeo, lao đầu ra cửa nhảy xuống. Vị linh mục hốt hoảng nhìn
chàng hướng đạo sinh và nói: Này con, con còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, con
cần phải sống và để giúp ích mọi người, con hãy mang cái dù còn lại mà thoát
hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh thưa với vị linh mục: “Tất nhiên ai cũng
cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc này hãy còn một cái dù cho cha và một cái cho
con. Vì ông thương gia hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại đã đeo
cái ba lô của con nhảy xuống mất rồi”.
Ai cũng cần phải sống, đó là lẽ tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn
hết là biết cách làm thế nào để sống. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha
và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Mattha tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến
nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em Maria không biết chia sẻ gánh nặng và thầm
trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến sự tất bật của mình.
Nhiệt tình đón tiếp vị khách, nhất là khách quí như Chúa Giêsu, đó
là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu lại nói với Mattha: “Chị băn khoăn và lo
lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt
nhất”.
Có người xem ra đồng tình với Mattha và phản kháng Đức Giêsu khi
đưa ra câu nói: “Có thực mới vực được đạo”. Đúng! Có thực mới vực được đạo,
nhưng đáng tiếc có người chỉ hiểu được có một nửa của câu nói. Họ không biết
rằng bên cạnh cái thực còn có đạo; bên cạnh của ăn vật chất còn có của ăn
thiêng liêng. Ngoài cuộc sống đời này còn có cuộc sống đời sau, và người ta còn
nói: “Sống không phải để ăn, nhưng ăn để sống”. Cho nên trong khi lo lắng kiếm
cái thực, cái ăn để sống thì cũng phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra
sống và để sống được trọn vẹn.
Đức Giêsu không phủ nhận giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng
như không từ chối sự đón tiếp của gia đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria
nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng quan tâm đến những sinh hoạt đời thường
và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của dân chúng sao? Ngài đã từng làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã từng hóa nước thành rượu để niềm vui
tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho
người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, người chết sống
lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn hết là cho mọi người được nghe,
được lãnh nhận Lời Hằng Sống.
Có lần Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn
bởi Lời của Thiên Chúa”. Con người sống không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn
chải những vấn đề cơm bánh mà còn phải có đời sống tinh thần, đời sống thiêng
liêng nữa.
Đây chính là điều cần thiết hơn hết mà Tin Mừng hôm nay mời gọi
chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều chúng ta
cần phải sống và sống hạnh phúc. Tất nhiên, Lời Chúa không phải là cái dù, chỉ
cần đến khi nguy biến để thoát hiểm, nhưng chính Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý
hằng sống làm cho những sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có hiệu quả và có ý
nghĩa hơn.
Thật khó hiểu khi một người cho mình là Kitô hữu mà không bao giờ
biết lắng nghe và đón nhận Lời Thiên Chúa. Càng khó hiểu hơn khi một người làm
việc tông đồ mà không được Lời Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn.
Thánh Phêrô và các tông đồ đã cho chúng ta một cái nhìn khi thưa
với Đức Giêsu: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời
đời”. Và có một lần khi Đức Giêsu đang giảng trong hội đường thì giữa đám đông
có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy
bú mớm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại, đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng
nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa”.
Ước gì mỗi người chúng ta ý thức rằng, mình đã được mời gọi để sống
hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón nhận Lời ban sự sống. Lời của Thiên Chúa chính
là điều tôi cần phải sống. Giờ đây mỗi người chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
Có nhiều cách phục vụ khác nhau. Tuỳ theo hoàn cảnh, khả năng và ý
thích mà ta co thể chọn lựa phương cách phục vụ thích hợp. Đức Kitô đến thăm
nhà hai chị em Maria và Martha. Hai cô rất vui mừng vì được Chúa đến thăm. Mỗi
người tự nguyện chọn phương thế khác nhau tiếp thượng khách. Cô em Maria tiếp
khách bằng cách ngồi bên lắng nghe tiếp chuyện. Cô chị Martha có lẽ giỏi về gia
chánh hơn nên nhận việc nấu ăn cho cả nhà.
Không biết cô nấu món gì? Có lẽ là món cô thích nhất, nấu ngon nhất
ngặt một điều món này khá phức tạp cần nhiều thời gian chuẩn bị. Sau thời gian
làm việc cô cảm thấy khách đói, chờ đã lâu. Trễ lắm rồi mà bữa ăn chuẩn bị chưa
xong, còn nhiều việc phải làm cô đành lên tiếng kêu cứu. Martha than phiền với
Chúa.
Than phiền
Than phiền do nhiều yếu tố hợp lại. Một là do công việc đa đoan làm
không xuể, đầu tắt mặt tối việc vẫn bề bộn. Hai là thời gian cấp bách, gấp rút
lắm rồi, bấn súc xích lên mà công việc vẫn ì ra đó. Thời giờ cấp bách, việc
nhiều tạo căng thẳng, lo lắng, bất an dễ đổ quạo, than phiền. Ba là quá chú
trọng vào thành quả công việc, sợ thực phẩm không ngon, không vừa ý. Chính cái
sợ là nguyên nhân gây nên phàn nàn, bất bình. Bốn là cảm thấy bị quên lãng. Năm
là không hài lòng việc đã chọn. Cái hăm hở lúc đầu chìm xuống không còn thích
như trước nữa. Nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm này. Khi mới bắt đầu
có việc cảm thấy rất vui, làm một thời gian bắt đầu nhàm chán. Rồi 'Thưa Thầy,
em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin thầy bảo nó giúp
con một tay'.
Đức Giêsu đáp: 'Martha, Matha ơi, chị băn khoăn lo lắng nhiều
chuyện quá ! Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ
không bị lấy đi’.
Điều cần
Lời Chúa là của ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Thực phẩm nuôi
dưỡng thể xác cũng quan trọng, cần thiết để sống còn. Lời Chúa nuôi dưỡng tâm
hồn, thực phẩm nuôi dưỡng thể chất. Cả hai đều cần thiết. Chúa biết rõ điều này
nên Chúa ra lệnh cho các tông đồ nuôi dân chúng sau khi họ đã nghe Chúa giảng.
Các ông lo lắng không biết lấy gì cho họ ăn vì nơi đó là đồng hoang, hơn nữa
nuôi tới năm ngàn người quả là tốn kém ngoài khả năng. Tài chánh đâu ra mua
thực phẩm cho từng đó người. Chúa yêu cầu làm điều ngoài khả năng của các tông
đồ. Các ông xoay xở không được trở lại với Chúa mặt nhăn nhó. Khó quá Thầy ơi!
Chúng con lo không nổi. Chúa làm phép lạ nuôi năm ngàn người ăn no bằng năm
chiếc bánh và hai con cá (Gioan 6). Đám dân được Chúa nuôi dưỡng cả hồn lẫn xác
và còn dư tới 12 thúng đầy bánh vụn. Nuôi sống cả hồn lẫn xác là việc quan
trọng và cần thiết. Chúa nuôi phần hồn trước sau đó lo cho đám đông phần xác.
Cả hai công việc đều do Chúa lo.
Xem thế không thể kết luận ngồi lắng nghe lời Chúa quan trọng hơn
nấu ăn đãi khách. Chúa hài lòng với sinh hoạt gia đình và chỉ lên tiếng khi có
bất bình. Việc lắng nghe lời Chúa được tuyên dương nếu đem ra thực hành lời
Chúa mới thực sự sinh hoa kết trái tốt lành, còn nghe cho biết, không thực hành
bị coi là khờ dại. 'Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì
ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa nước cuốn, hay bão táp ập
vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời
Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà
trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành’
(Mt 7,24-27)
Việc cần
Ngày phán xét không phải kẻ ngồi nghe lời Chúa được tuyên dương
công phúc mà kẻ phục vụ được thưởng công. ‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy
đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập điạ.
Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khác các ngươi cho Ta uống. Ta là khách
lạ, các ngươi tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi cho mặc. Ta đau yếu, các
ngươi thăm nom. (Mt 24,34-37)
Cựu Ước cũng coi trọng bác ái, hiếu khách, nuôi khách. Chuyện
Abraham trong bài đọc I hôm nay nêu rõ điểm đó. Gia đình ông có con vì ông đã
mời ba người khách lạ vào nhà thiết đãi và ông đã nhận được lời hứa ‘sang năm
tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sarah vợ ông sẽ có một con trai’.
Phần tốt
Maria đã chọn phần tốt nhất vì cô lắng nghe Lời Chúa để học hỏi,
đây cũng là cách cô chọn để thiết đãi khách, chào đón và làm cho khách cảm thấy
được săn đón và tự nhiên. Như thế cả chủ lẫn khách đền tìm thấy ấm cúng, vồn vã
và thân mật.
Chọn phần tốt nhất vì chọn lựa đó đem lại bình an, hạnh phúc ngập
tràn không còn ước mong gì khác. Chọn lựa đó đem lại nguồn vui sung mãn,
Maria chọn phần tốt nhất vì điều cô chọn mang đến bình an thực sự
bắt đầu nội tâm tuôn trào ra bên ngoài.
19. Sự cân
bằng
Có một ông bố đã tâm sự với thầy giáo đang dạy cho các con ông như
sau: Các con tôi mặc dầu không còn sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương
chúng và muốn biết chúng hiện đang học hành ra sao? Rồi ông kể cho thầy giáo
hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã lìa bỏ ông như thế nào. Ông vốn là một
nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận rộn. Có ngày ông phải làm việc tới 16
tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt trong gia đình, nền dần dần những
người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn bã cho biết: Tôi rất ao ước sắm
sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước. Nhưng vì quá mải mê với công
việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ con tôi đang cần đến, đó là họ
cần một người cha, một người chồng để yêu thương và nâng đỡ họ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ
đích của đoạn Tin Mừng ấy là như thế này: Chúng ta có thể vì quá mải mê công
việc làm ăn, đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải vất vả như thế. Chúng
ta có thể vì quá mải mê khiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc
đời. Chúng ta trang bị những vật dụng mà đồng tiền có thể mua sắm được, để rồi
quên mất tất cả những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được.
Đây cũng chính là sự lầm lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin
Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến
nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn
miễn phí.
Thực vậy con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho
thân xác là điều tốt. Thế nhưng con người còn có những nhu cầu, cần đến những
phục vụ thiêng liêng cho linh hồn. Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải
chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia
sẻ những khó khăn họ gặp phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn
phần tốt nhất bởi vì cô đã ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài
giảng dạy.
Còn chúng ta thì sao? Hiện thời chúng ta đang sống trong một thế
giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta vì bận rộn với công việc làm ăn, vì mải mê
tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất mục đích của đời mình, quên mất cái nào là
ưu tiên số một trong cuộc sống, quên mất sự sáng suốt để lựa chọn, quên mất điều
mình đang làm và lý do khiến mình làm điều đó.
Chúng ta giống như chú bé vẽ voi, đáng lẽ phải vẽ: con vỏi con voi
với cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước, hai chân sau đi sau, còn cái
đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé lại vẽ: con vỏi con voi, cái đuôi đi trước, hai
chân sau đi trước, hai chân trước đi sau, còn cái vòi thì đi sau chót.
Và quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta quên mất phần rỗi của linh
hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh
hồn thì nào có ích lợi gì?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cứ mỗi lần nghe trích đọc bài Tin Mừng thánh sử Luca kể chuyện hai
chị em nhà Bêtania, thì người ta dễ liên tưởng đến việc so sánh hơn kém giữa
đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động. Mọi sự thường có nguyên do. Đã một
thời các nhà tu đức căn cứ vào đoạn tin mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm.
Không riêng gì Kitô hữu mà anh chị em lương dân và bà con khác đạo vốn kính
trọng những con người như là “xuất thế” trong các đan viện. Chính
vì thế ít có ai thắc mắc khi hình ảnh cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu để
nghe Người tâm sự được ví với đời sống chiêm niệm thì được đề cao hơn đời sống
hoạt động qua hình ảnh cô Matta bận rộn với chuyện nấu nướng.
Thế nhưng nếu đọc kỹ lời Chúa Giêsu nói với Matta thì chúng ta sẽ
thấy lối so sánh và áp dụng ở trên có phần khập khiểng và khiên cưỡng cách nào
đó. “Matta! Matta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ một chuyện
cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi” (Lc
10,42). Khi khẳng định rằng Maria đã chọn phần tốt nhất thì Chúa Giêsu cũng hàm
ý rằng cô chị Matta cũng chọn phần tốt nhưng chưa tốt nhất, mà nói nôm na là
tốt nhì, tốt ba hay tốt tư…
Chọn điều tốt để cho mình hay để dâng? Câu hỏi dường như đã có câu trả
lời cụ thể qua hành vi của cô chị Matta. Matta chọn điều tốt không phải cho
mình mà để dâng cho Chúa Giêsu. Đó là các món thức ăn mà chị đang tất bật nấu
nướng. Và có thể nói rằng đó không chỉ là món ngon mà còn nhiều đến nỗi cô chị
phải cầu cứu Chúa Giêsu biểu cô em phụ giúp một tay. Chọn các món ăn để kính
dâng Chúa là một hành vi tốt đẹp. Dâng trao cho ai đó cái mà chúng ta có, tuy
tốt đẹp nhưng vẫn còn hạn chế, vì những cái chúng ta có, nếu làm bản liệt kê
thì quá nhiều không sao kể xiết và có lẽ chúng ta không thể dâng tất cả được.
Trái lại khi dâng trao cái chúng ta là, thì chúng ta đã dâng trao trọn vẹn con
người chúng ta.
Matta dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể kính dâng tất cả
những gì cô có cho Chúa Giêsu. Bằng chứng là mới chỉ có chuyện cơm nước, cô đã
tất bật đủ bề mà vẫn như chẳng xuể. Một nhận định thực tế, đó là những gì Matta
chọn để dâng cho Chúa Giêsu thì “sẽ bị những ai đó lấy mất”, nghĩa là Chúa
Giêsu không thể tự mình dùng tất cả những thức ăn Matta dâng. Xin đừng quên sự
hiện diện của các tông đồ. Trái lại phần của Maria dâng cho Chúa Giêsu thì sẽ
không bị ai lấy mất vì Maria đã dâng cho Thầy Chí thánh cái mình là, đó là con
người của chị. Khi ta thật tình chăm chú lắng nghe một ai đó tâm sự, thì một
cách nào đó ta đã dâng trao trọn tấm lòng của mình cho người ấy.
Một nghịch lý của tình yêu: Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và
có thể lãnh nhận lại gấp bội so với phần đã hiến dâng. Bài đọc thứ nhất trích
Sách Sáng Thế tường thuật tấm lòng hiếu khách của Abraham dành cho ba sứ thần
của Thiên Chúa đã được đền đáp. Một chút nước để các vị rửa chân, một ít bánh,
chút thịt bê cũng như chút sữa chua kính dâng các vị ấy dùng có thấm vào đâu
với phần mà Abraham lãnh nhận lại. “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi
đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18,10). Chắc hẳn Abraham và bà Sara
phải rất đỗi kinh ngạc trước phần mình sẽ lãnh nhận. Có được một đứa con trai
làm người thừa tự trong cảnh hai ông bà đã cao niên mà còn son sẻ quả là một
hạnh phúc vượt quá mọi niềm mơ ước.
Khi Maria dâng trao cho Thầy Giêsu tấm lòng của mình như là một
người môn đệ ngồi dưới chân Người mà lắng nghe thì Maria đâu có ngờ rằng cô
không chỉ được đón nhận một vị Thầy, một Vị Chúa mà còn đón nhận được một người
bạn. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết”(Ga 15,15). Chúng ta có thể đoán chắc rằng
trong cuộc nói chuyện hôm ấy, Chúa Giêsu ít nhiều đã tỏ cho cô Maria biết về
hành trình lên Giêrusalem của Người cũng như cuộc khổ nạn Người sắp chịu. Tin
Mừng thánh Gioan tường thuật sự kiện cô Maria đã lấy một cân dầu thơm cam tùng
nguyên chất và quý giá mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà nức
mùi thơm khiến cho ông Giuđa Iscariô phải chép miệng tiếc rẻ. Và chính Chúa
Giêsu đã phân minh cho cô Maria rằng cô ấy đã dùng số dầu thơm hảo hạng ấy để
làm trước việc mai táng mình (x.Ga 12,1-8).
Chuyện kể rằng có một vị vua thuộc hàng “minh quân lẫn thánh quân”
trong một lần kia đi thị sát vương quốc mình bỗng gặp một ông lão hành khất
ngồi bên vệ đường. Xuống xa giá, vua đến bên người hành khất. Người hành khất
kia khấp khởi mừng, chìa bàn tay ra trong im lặng và chờ đợi ân lộc vua ban.
Nhưng người hành khất kinh ngạc vì đức vua không ban gì mà lại ngửa bàn tay
trước mặt mình. Hai bên nhìn nhau một lúc, người hành khất cho tay vào bị lấy
ra ba hạt lúa bỏ vào bàn tay đức vua. Đức vua nắm tay lại, cám ơn, rồi lên xa
giá tiếp tục hành trình. Dù lẩm bẩm kêu trách “sự keo kiệt” của vị vua vốn được
dân tôn xưng là minh quân, thánh quân”, người hành khất vẫn tiếp tục việc ăn
xin. Ngày hôm ấy cũng có nhiều người hảo tâm đổ vào bị ông ta nhiều bát lúa.
Tối đến, người ăn xin đổ bị lúa ăn xin ra để đong đếm thành quả. Bỗng nhiên ông
thấy lấp lánh ba hạt lúa bằng vàng to bằng đầu ngón tay ở giữa nhúm lúa ăn xin
hôm ấy. Nhớ lại chuyện gặp đức vua hôm nay, ông lão hành khất đoán ra sự việc
và cười sung sướng. Bỗng nhiên ông ta lại khóc to tiếng với lời rủa thầm trong
lòng: tiếc quá, giá như sáng nay mình dâng cho đức vua hết cả bị lúa này.
“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho
anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh
em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc
6,38).
Biết lấy gì để dâng lên Thiên Chúa, vì mọi sự đều là của Người.
Thiên Chúa không cần chúng ta dâng gì cho Người, nhưng Người lại muốn chúng ta
trao dâng cho nhau, nhất là cho những người anh em bé mọn những gì tốt nhất của
mình. Chắc hẳn cái tốt nhất của chúng ta, cái mà không ai có thể lấy mất được
đó chính là con người chúng ta, tấm lòng của chúng ta, một tấm lòng huynh đệ
thủ túc, một tấm lòng bằng hữu nghĩa thiết. Và dù nhiều khi chúng ta không biết
thì Thiên Chúa vẫn nhận đó là đã làm cho chính Người (x.Mt 25,31-46).
21. Ngồi dưới
chân Chúa Giêsu – Charles E. Miller
Tôi nghĩ rằng khi nghe câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người
trong chúng ta có khuynh hướng cảm thấy đáng tiếc cho Matta. Maria đã bỏ mặc
tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với
Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu có vẻ như gắt gỏng cho dù Ngài
gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc đầu và nói: “Matta, Matta con lo lắng
nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất”. Nhưng chính xác là Maria có chọn
phần tốt nhất không? Có phải đơn giản là vui hưởng ân sủng và là bà chủ đáng
yêu trong lúc Matta thì tất bật trên bếp lò nóng?
Khi Thánh Luca viết rằng Maria ngồi nơi chân Chúa Giêsu, Ngài không
miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ giữa Maria với Chúa Giêsu. Cụm từ”ngồi nơi
chân” của một người nào có nghĩa là môn đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái
thời Chúa Giêsu, không nghe nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy
Rabbi. Theo trong tôn giáo hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ
đều là những người đàn ông. Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa
xưa bởi vì truyền thống không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người,
người phụ nữ cũng như người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay
cả những kẻ được xem như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã
nhấn mạnh rằng Maria đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài,
đã chấp nhận nó. Matta cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý
rằng chỗ của cô ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực
phẩm đã được sửa soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một
đĩa, một cái gì đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho
tất cả mọi người trong mọi thời: “Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không
bị ai cướp mất”. Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.
Maria đã được giới thiệu với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng
trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được
kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà
Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng nghe Người với tất cả sự chú ý như
Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên trước mọi việc trong cuộc sống của
chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi
mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng hiến sự hiếu khách cho các thiên thần
như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự
hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.
Chúng ta sẽ hiểu trong một ý nghĩa sâu xa, chúng ta ngồi nơi chân
Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử hành phụng vụ Lời Chúa. Theo Công đồng Vatican
II đã long trọng dạy cho chúng ta rằng: “Đức Kitô đang hiện diện trong Lời của
Ngài, đó chính là Ngài đang nói khi Thánh Kinh được đọc trong nhà thờ” (Hiến chế về phụng vụ, số
7). Chúa Giêsu đã ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào
Người. Lắng nghe Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống
của chúng ta. Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể,
bữa tiệc này không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.
Có lẽ chúng ta có thể thấy gương của Maria thì thật khó để theo.
Thật là quá dễ để cho phép những lo toan trong cuộc sống hằng ngày làm chúng ta
xao lãng việc nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu. Đó là những cám dỗ cho phép
những giá trị gian dối mà những giá trị đó giới thiệu cho chúng ta một xã hội
vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài những chân lý của đức tin. Chúng ta phải
trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở đây chúng ta có thể đặt những sự chia
trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những gì thật sự là quan trọng cho chúng ta.
Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi thờ lạy của chúng ta sẽ trở thành
Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học để trở thành những môn đệ thật.
22. Mời Chúa
vào nhà.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cách đây ít lâu, trong một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang
trí nội thất của gia đình bà như sau:
Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau
cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo một
bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ lớn: 40x50 vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà
cố gắng thuyết phục chồng đổi ý, nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời
của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn
nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu
nghe ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói, bà rất vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng
bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn
bè khách khứa của bà. Chẳng hạn, ngày nọ có người khác lạ, sau khi chăm chú nhìn
vào bức ảnh liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không
nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn,
sau khi ngồi ngắm bức ảnh cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà
chị rất bình an”. Tuy nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên
các bạn bè khách khứa xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn
họ luôn được nâng lên cao”.
Cuối cùng, bà nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn
nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: “Theo
thiển ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến
đổi không còn như trước nữa”.
Thưa anh chị em,
“Một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến
đổi”. Sách Sáng Thế trong Bài đọc thứ nhất hôm nay đã kể lại câu chuyện ông
Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham vồn vã, nhã nhặn ra đón khách lạ theo kiểu
Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng mời Chúa ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa
ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa chân, lấy bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông
đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được Chúa hứa ngay: “Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở
lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”. Thế là ông được một
người con nối dõi tông đường trong lúc tuổi già và son sẻ.
Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện hai chị em Matta và
Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà. Matta người chị vốn có lòng hiếu khách và
muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với một bậc thầy, là bạn của gia đình, nên
chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật ngon để chiêu đãi Chúa. Chị lăng xăng
chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự chu đáo…
Trong khi đó, Maria lại nghĩ rằng không nên để Chúa ngồi đơn độc
một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn chỉ vác bụng đến ăn không, nhưng còn
muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban sự sống. Do đó, một người thì muốn
nói, một người lại thích nghe, quên hết cả mọi sự!
Thế là Matta nổi cáu, trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình
vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng chính đáng. Nhưng Chúa cũng trách nhẹ Matta sao
lo lắng nhiều chuyện quá làm chi. Chuyện ăn uống đâu có quan trọng đến nỗi ấy.
Chỉ có một chuyện cần thiết thôi: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị
ai lấy mất”.
Có người giải thích câu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”,
cho rằng Chúa muốn nói: “Chỉ cần làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!”. Lời giải
thích ấy không phải là vô căn cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa,
thì lời trách nhẹ của Chúa Giêsu vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp
khách, vấn đề không phải chúng ta chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận,
mà chính chủ nhà cũng phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho
và nhận, đây không phải là có ý nói tới những gì là vật chất, như ăn uống, quà
cáp… mà trước hết là sự hiện diện cũng như những câu chuyện trao đổi. Một người
bạn thân khi đến với chúng ta, dù có được mời đến để dự tiệc, cũng không bao
giờ chỉ biết vác bụng đến, nhưng còn đến trước hết với tình bạn của mình: người
ấy muốn gặp chúng ta, muốn nói chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là
một phương tiện, một bối cảnh được tạo ra, như người xưa thường nói: “Miếng
trầu là đầu câu chuyện”.
Vậy, nếu được phép góp ý kiến cho hai chị em Matta và Maria, thì
chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai chị em nên phân công nhau rõ ràng, mỗi
người một việc. Nhưng làm sao luôn có người ngồi đó tiếp chuyện với Chúa, và
nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích ăn uống giản dị, thì cũng không nên trổ
tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ, Chúa đến không chỉ để ăn uống với hai chị,
mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên Chúa cho hai chị nữa, nên cũng phải biết tỏ
ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói với các chị nữa.
Còn chúng ta thì sao, thưa anh chị em?
Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý
do khiến chúng ta phải lao khổ như thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến
nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những
cái mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền
không thể mua sắm được. Và chúng ta vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình
thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện, mà quên mất “một chuyện cần thiết
nhất”: lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện với Ngài.
Chúng ta lo xây cất cho Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy,
nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe
Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời làm cho chúng ta được sống. Bời vì “con
người sống không chỉn hờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa” (Mt 4,4). Thực
tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới
chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc
Kinh Thánh hay sách báo đạo đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.
Quả thật, Chúa muốn chúng ta vừa là Matta, vừa là Maria: vừa lao
động vừa cầu nguyện. Chúa không nói rằng khi chúng ta làm việc như Matta, chúng
ta không thể cầu nguyện như Marai, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với
nhau. Chúng ta phải vừa là Matta vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh
tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Matta thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã
truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu
nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa
trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc những người nghèo khổ hoặc đi
vào trong các “nhà hấp hối” để giúp những người sắp chết được an nghỉ trong
Chúa.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là lúc chúng ta trở thành những Maria ngồi dưới chân Chúa
Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, chúng ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật
đật vội vã đến trễ về trước, sợ thiệt thòi, mất mát, hay đến ở ngoài sân nhà
thờ không chủ tâm dự lễ, không đón nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa, không mời
Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến với Chúa ngày Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc,
miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với Chúa như một người con, một người bạn, đến
để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, chỉ vì tình yêu mến Chúa mà thôi.
Thánh lễ còn là lúc Chúa đến thăm chúng ta như đã đến với hai chị
em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự hiện diện của Ngài trong lòng chúng ta và
biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện diện của Chúa và Lời Chúa nuôi sống chúng
ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến cuộc sống muôn đời.
Có ba hình ảnh ngồi dưới chân Chúa. Hình ảnh thứ nhất cô Maria ngồi
dưới chân Chúa nghe giảng - Luca 10
Hình ảnh thứ hai cô Maria ngồi dưới chân Chúa lấy thuốc thơm mà sức,
lấy tóc mà lau - Mathew 26: 6-13
Hình ảnh thứ ba Mẹ Maria và mấy bà đạo đức ngồi dưới chân Chúa,
dưới chân thập tự, mắt đẫm lệ nhìn Chúa - Gioan 19,25
Cả ba hình ảnh ngồi dưới chân đều do phái nữ chủ xướng. Đây là hình
ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh. Trước khi nuôi năm ngàn người ăn trong phép lạ
hoá bánh ra nhiều Đức Kitô bảo các môn đệ hãy cho đám đông ngồi xuống - Gioan
6. Hình ảnh ngồi để được cho ăn, nuôi sống.
Khiêm nhường
Đức Kitô ghé thăm nhà chị em Maria and Martha. Maria chọn ngồi dưới
chân Chúa để nghe Ngài giảng. Cô chị tiếp khách kiểu khác, lo nấu nướng chuẩn
bị thực phẩm nuôi thân. Cô em chọn tiếp khách bằng cách ngồi dưới chân. Cô
không ngồi ngang hàng tiếp khách - chủ khách ngang nhau- nhưng cô chọn thái độ
ngồi dưới chân. Một thái độ khiêm nhường. Một hành động tự nguyện, khiêm nhu,
quí mến, tỏ ra rất gần, thân thiết với khách mà vẫn biểu tỏ lòng tôn kính.
Ngồi dưới chân để nghe giảng nói lên tinh thần hiếu học, ham học
hỏi Lời Chúa. Maria không những yêu mến Đức Kitô, kính trọng Ngài mà còn yêu
mến ngay cả lời giảng dạy, giáo huấn của Ngài. Người do Thái khuyên phụ nữ đừng
đi học. Đức Kitô trái lại khuyến khích phụ nữ học, lắng nghe.
Thống hối
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh Maria ngồi dưới chân Chúa khóc lóc, tỏ
lòng thống hối, ăn năn. Sự việc xảy ra tại nhà ông Simon, người mời Đức Kitô dự
tiệc với các tông đồ. Cả chủ nhà lẫn tông đồ đều chê trách hành động của người
phụ nữ. Đức Kitô lên tiếng bảo họ hãy để cho cô ta chuẩn bị cho ngày an táng
Ngài. Qua cái chết của Ngài kẻ thống hối, tội dù nhiều vẫn được thứ tha. Hình
ảnh khóc dưới chân Chúa không mang ý nghĩa nỗi buồn bất tận mà là giờ của mừng
vui. Vui vì tội dù nhiều nhưng vẫn được tha vì trong lòng yêu mến nhiều.
Maria khóc vì vui mừng. Tai được nghe Chúa thứ tha. Nhận được lời
Chúa an ủi, bênh đỡ, khuyến khích. Việc làm khiêm nhường bị người đời lên án,
chê trách. Chúa thưởng công, âm vang ngàn năm vì Maria làm với tâm tình yêu mến
chân thành, tạ ơn tha thiết.
Hiệp thông
Hình ảnh các bà ngồi dưới chân thập tự khóc lóc tỏ lòng hiệp thông.
Tự biết mình bất lực không làm gì được kẻ có quyền, có thế. Lên tiếng phản đối
không ai nghe; gào thét ai thèm đáp trả; phản đối mấy ai quan tâm. Muốn yên thân
hãy câm nín, ngoảnh mặt làm ngơ, tránh đường, nhường lối cho bạo quyền hành
động. Bao nhiêu người sợ đứng nhìn qua khe cửa. Các bà cũng run sợ trước bạo
quyền mà không lẩn trốn. Để nước mắt lăn dài trên má biểu tượng của cảm thông,
chia sẻ nỗi đau khổ của Đức Kitô treo trên thập tự. Cảm xúc đau đớn là biểu lộ
hiệp thông rõ ràng hơn cả. Lệ nhoà, lăn dài trên má, biểu lộ cảm thông chia sẻ
niềm đau mãnh liệt hơn ngàn câu an ủi, lời than van. Mắt nhìn thân Chúa da nát,
thịt tan, đầu đội mạo gai, chân lơ lửng giữa đất trời biểu tỏ lòng mẹ chơi vơi
nhìn con trên thập tự. Ngồi dưới chân thập tự thông cảm niềm đau người mẹ mất
con. Người bạn mất bạn.
Phần chúng ta
Ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh gần gũi, quen
thuộc, của mỗi người trong chúng ta. Bao lần chúng ta ngồi trong thánh đường.
Cũng ngồi dưới chân Chúa nghe lại các bài đọc được công bố, lời Chúa giảng năm
xưa, nay được lập lại trong thánh đường, trong các phiên họp, các buổi cầu
kinh, tụ họp và Lời Chúa được chia sẻ trong các bài giảng, nhảy nhót theo cung
điệu nốt nhạc. Chúng ta lắng nghe với tâm tình lúc thắm thiết, lúc chán nản,
lúc hoài nghi.
Ngồi dưới chân Chúa trong thánh đường là hình ảnh quen thuộc khi
chúng ta thầm thĩ kêu xin, giãi bày tâm sự, nói lên cái thống khổ, đau xót của
thân phận làm người. Nhiều lần chúng ta cũng khóc lóc van xin ơn tha thứ. Chúng
ta cũng để giòng lệ tuôn dài khi thấy gánh nặng vơi đi, bình an nội tâm trở
lại, và hy vọng một tương lai tươi sáng loé lên trong khoé mắt. Giọt nước mắt u
sầu thành giọt lệ reo vui. Những lần như thế chúng ta ngồi dưới chân thập tự
tâm tư tràn ngập niềm vui, miệng luôn cao rao lời cảm tạ. Vui mừng đến chảy
nước mắt vì cảm thấy Chúa yêu thương tha thứ như chính Maria cảm thấy được Chúa
yêu thương, thống hối đến dưới bàn thờ Chúa dâng lời tạ ơn.
Bao lần chúng ta cũng ngồi dưới chân thập tự khi trong thánh đường,
lúc ngoài nghĩa trang. Lòng đau như cắt, tâm tư tan nát. Giọt nước mắt vơi đầy
thương nhớ người thân. Chúng ta ngồi dưới chân thánh giá nói không nên lời, tư
tưởng đứt đoạn vì người thân ra đi, câm nín trong quan tài cô đơn giữa nơi
thánh đường đông người thân quen. Người nằm đó mà xa cách ngàn trùng. Cách nhau
một lớp gỗ mỏng mà lòng thấy vĩnh biệt. Cũng bản nhạc này sao nay u buồn thế.
Cũng lời kinh nọ nay cất lên tang thương nhiều hơn hy vọng.
Hình ảnh ngồi dưới chân Chúa hay dưới chân thập tự là hình ảnh của
người đặt niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, Đấng đến xoá tan u tối. Đấng đến
mang lại ánh sáng chiếu dọi tâm hồn. Đấng đến mở đường dẫn về nhà Cha sau cuộc
hành trình dương thế.
Hãy mở cửa tâm hồn đón Chúa vào nhà để được ngồi dưới chân Ngài.
24. Sai lầm của
người thầu khoán – Lm. Mark Link
"Trong cuộc đời, chúng ta cần thời gian thinh lặng cầu nguyện
nếu chúng muốn quân bình và biết nhìn xa."
Vào buổi tối kia, một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và
phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong bài nói
chuyện của một thầy giáo, người cha này đã bật khóc nức nở.
Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: "Con tôi
không còn sống với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc
học hành của cháu như thế nào."
Sau đó, người cha cho biết vợ ông và 4 đứa con đã bỏ ông chiều hôm
đó.
Ông là một thầu khoán xây cất và nhiều khi làm việc đến 16 giờ một
ngày. Đương nhiên, ông ít gặp gia đình hơn và dần dà họ càng xa ông hơn nữa.
Sau đó, người cha nói lên một điều thật buồn thảm. Ông nói:
"Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng
rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến
nhất: đó là một người cha có mặt trong gia đình hàng đêm để yêu thương và nâng
đỡ vợ con."
Câu chuyện có thật này cho thấy điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm
nay. Đó là:
Chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao
chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục
đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua
được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.
Đó là một loại sai lầm mà cô Martha đã vấp phạm trong bài Phúc Âm
hôm nay. Cô quá bận tâm đến việc nấu nướng cho Chúa Giêsu đến độ cô quên đi lý
do tại sao Chúa đến nhà cô. Người đến không vì miếng ăn; Người đến vì tình bạn.
Giả như khi chúng ta còn nhỏ, sống với cha mẹ và nếu Đức Giêsu cho
biết Người sẽ đến thăm gia đình, chúng ta biết các bà mẹ sẽ làm gì. Họ sẽ động
viên toàn thể nhân lực trong gia đình từ nhiều ngày trước để dọn dẹp, lau chùi
nhà cửa. Họ sẽ sai con cái đi chợ mua thứ này thứ kia. Nói tóm, họ sẽ hành động
giống như cô Máctha.
Nhưng mẹ chúng ta cũng giống như cô Maria. Họ luôn dặn dò để biết
chắc là con cái ăn mặc đàng hoàng tử tế, đến ngồi chung quanh Đức Giêsu, chú ý
đến những gì Người nói. Mẹ chúng ta sẽ quân bình giữa sự lưu tâm đến miếng ăn
cho Đức Giêsu và lưu tâm đến tình cảm mà gia đình dành cho Người.
Đó là những người mẹ có tài giữ quân bình mọi sự, từ việc cơm nước
trong nhà đến việc giặt giũ lau chùi. Nhưng các bà mẹ còn cần đến các người làm
cha có khả năng quân bình mọi sự, từ việc kiếm tiền cho đời sống vật chất đến
việc giáo dục con cái, nâng cao giá trị tinh thần của đời sống.
Ngày nay, không may, chúng ta sống trong một thế giới thật khác
biệt.
Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ
để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên.
Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm
công việc ấy.
Trong Thế chiến II, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc
Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi
ở một chỗ vắng vẻ kín đáo, ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá
bao quanh.
Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá
bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng
đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn thấy được
dưới đáy dù chỉ cách có một feet.
Nhưng hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng. Nước lại trong
trẻo như trước.
Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì
những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ
ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù
mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị
mất.
Khi điều này xảy ra, điều chúng ta cần thi hành là tạm ngừng và để
nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần thi hành điều mà cô
Maria đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu
trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì
là quan trọng và điều gì không đáng kể.
Bài Phúc Âm hôm nay là một lời mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy dừng
lại ở dưới chân Đức Giêsu trong sự cầu nguyện, cũng như cô Maria đã làm trong
Phúc Âm.
Điều này nêu lên một câu hỏi. Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất
cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện
dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?
Thật may mắn là có chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và
chúng ta có thể bắt đầu ngay tối nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu
nguyện đơn giản đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta làm lại thói quen cầu
nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện.
Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần 3 phút để làm 3 điều.
Trong phút thứ nhất, chúng ta thinh lặng và nhớ lại những gì xảy ra trong ngày. Chúng
ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, tỉ như nhận được thư của
người bạn cũ. Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó. Sau
cùng, chúng ta cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.
Trong phút thứ hai, chúng ta cũng nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Lần này, chúng
ta nhớ đến điều không tốt, những điều làm chúng ta hối hận, tỉ như la hét cha
mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin
Người tha thứ, chữa lành cho chúng ta.
Sau cùng, trong phút thứ ba, chúng ta nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một số điều quan trọng
phải thi hành, tỉ như việc nói chuyện ôn hoà với cha mẹ, vợ chồng hay con cái
về một vấn đề đã xảy ra. Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi
sáng, thêm sức để chúng ta có thể thi hành cách tốt đẹp.
Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lấy lại
thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của
phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta quan hệ đến đời sống
thực tế mà còn giữ liên lạc với Đức Giêsu.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên
đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.
Xin giữ chúng con quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của
nó.
Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể
mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.
Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN
Tôi có một giấc mơ. Chúa đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và
Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ trên xuống dưới, rửa sạch và đánh bóng
mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn tốt nhất, bộ chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa
muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng bài trí nến và hoa. Về thức ăn, tôi chọn
món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng và khách mời sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra
tận cổng nhà.
Người đến và tôi nghĩ tôi đã làm Người phải tự hào. Tôi phô bày
thành tích cao. Tôi cung kính đứng hầu bên cạnh. Không ông vua nào có được sự
phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng cuộc đàm đạo sẽ không bao giờ nhạt nhẽo.
Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ vẻ cảm kích khi thấy tôi lúng túng. Mọi
việc kết thúc chính xác như đồng hồ. Khi Người đã ra về, tôi cảm thấy tốt đẹp,
và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi phải băn khoăn.
Có một lúc tôi như đã hụt hẫng với điều lẽ ra phải có. Rồi một câu
hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn điều gì nơi tôi? Thức ăn? Lòng hiếu khách?
Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy một câu hỏi thứ hai vang lên trong tôi:
Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm tháy chắc chắn Người muốn cho tôi điều gì?
Nhưng dù là điều gì, tôi đã không cho Người cơ hội để ban nó cho tôi. Tôi đã
tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn hảo và tôi không muốn có thêm điều gì nữa.
Có những người rất hào phóng và tốt bụng khi cho nhưng rất nghèo
nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de Hennezel thành thập một số bộ phận tiếp nhận
những người bệnh ở giai đoạn cuối trong một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách
của bà nhan đề Intimate Death, bà nói về một phụ nữ được đưa đến bộ phận ấy.
Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi người nhưng giờ đây không thể giúp đỡ
chính mình. Bà luôn luôn muốn được người ta ban cho thật nhiều yêu thương.
Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn. Bà nói về sự yêu thương của gia
đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà như “một suối nước mà bà không
biết phải uống như thế nào”. Bà cần học cách nào để lại trở thành một trẻ nhỏ,
khiêm tốn đủ để nhận một món quà. Nhưng điều đó không dễ dàng bởi vì bà hoàn
toàn đối lập với điều đó: bà thích cho một cách vị kỷ.
Những người vị kỷ, coi mình là trung tâm không thích nhận. Tại sao
thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy thấp kém hơn người khác và đặt họ vào sự mắc
nợ những người khác. Mặt khác họ thích cho bởi vì điều ấy tâng bốc cái tôi của
họ, do đó (có lẽ một cách vô thức) làm cho họ cảm thấy cao sang hơn những người
khác.
Cho là việc quan trọng. Nhưng nhận cũng thế. Không ai trong chúng
ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng ta đều bất toàn. Chúng ta cần tiếp nhận
của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ Thiên Chúa. Không có khả năng tiếp nhận quả
là bi thảm. Biết cho như thế nào chưa đủ, chúng ta cũng phải biết nhận như thế
nào. Cả hai đều là những hoạt động của ân sủng.
Câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta
và Maria. Mácta không có khả năng nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món
quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Mácta, trong lúc rất
tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể
cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn nói lên điều ấy:
Nếu bạn có thể làm cho mình trống rỗng
Giống như một vỏ sò không
Hẳn Người sẽ tìm thấy bạn
Trên một bãi cạn của đại dương
Và Người tự nhủ: Nó chưa chết.
Và làm đầy bạn bởi chính Người
Nhưng nếu bạn quá đầy với chính bạn
Và với bao hoạt động khôn ngoan,
Đến nỗi khi Người đến Người liền nói:
Nó đủ cho nó. Nó quá đầy
Không còn chỗ dành cho Ta
(T. Brown. Thi sĩ xứ Manx)
Suy Niệm 2. SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA
Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta
không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người.
Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những
kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy
móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo nhưng công việc đang chờ đợi
chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình
khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cô. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập
trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói phải được no thoả mà không gì
có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức
mạnh. “Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là
sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng ta”.
Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu
nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm
dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường chỉ là những làn sóng
trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh
lặng.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là ở trong sự hiện diện của
Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên
Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu. Nhưng đối với một số
người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có rất nhiều việc phải
làm.
Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc làm điều gì, không phải là một
việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng
kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua
việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động.
Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt bên ngoài.
Phần đông con người có xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với
hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là một sự tránh né và thoát
ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của chúng ta có thể là một sự
tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện người ta có thể dễ
dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.
Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì
trong suốt hai năm ấy? Ông trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên
nhiên. Nhưng một đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói: “Thỉnh thoảng vào một
buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm
cho đến trưa, mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và
bất động yên tĩnh, trong khi bầy chim ca hát xung quanh tôi”.
Ông đã thu hoạch được gì từ điều đó? Ông nói:
“Trong những mùa ấy, tôi lớn lên như ngũ cốc trong đêm. Đó không
phải là thời gian bị lấy mất khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự
bớt đi thông thường. Cần cù như những con kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì?
Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết thúc; đúng hơn phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt
đầu”.
Một số người có thể cho rằng Thoreau là một người mơ mộng lười
biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc
chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời
gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố
gắng, dù chỉ trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô
chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Mácta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng
ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong
hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác
không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn.
Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn lao.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài
một lời khuyên khi ngài đã được truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: “Thưa
cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao
giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên Chúa”.
“Con có để cho Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?” ngài hỏi.
“Ồ không”, bà nói, “Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế
không phải là cầu nguyện sao?”.
“Không,” ngài nói. “Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế
này. Con hãy dành riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa”.
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại
và nói: “Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi
con nói với Người, con không thấy điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên
tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy được bao trùm trong sự hiện diện của
Người”.
Sau cùng, cầu nguyện không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự
hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của
Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là
việc đọc kinh.
Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay, đều than phiền:
- Phải rồi, nếu không có Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ
rửa chén.
Cũng vậy, nếu tôi chỉ ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao
siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng có ai làm những công việc tầm thường ấy.
Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người trong chúng ta cũng tự hỏi:
- Làm thế nào để dung hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của
Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.
Thực tế cho hay cuộc sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta
không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn,
chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm
lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi chúng ta lại không có thời giờ.
Quả thật, Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria.
Ngài không nói rằng: Khi làm việc như Martha, chứ không thể cầu nguyện như
Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện như Maria, chúng ta không thể làm việc như
Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa
phải là Martha vừa phải là Maria. Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như
thế nào?
Tôi xin thưa: Chúng ta hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên
Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:
- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay.
Còn nếu như có đủ thời giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi
việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu
chuộc chúng con.
Đồng thời, thỉnh thoảng trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh
trên, nhờ đó thánh hóa những công việc tầm thường của chúng ta, biến những công
việc tầm thường ấy trở thành một lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến
cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài.
Các vị thánh là những người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái
cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được coi như là những chén thánh ở trên bàn
thờ. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa vì những dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm
tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục
vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta
đang tham dự cũng là một hình ảnh lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là
Maria. Như Martha chúng ta cùng hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như
Maria chúng ta lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu
nguyện với Chúa.
Khi rước lễ, Chúa Giêsu sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn
chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài
hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh thần phục vụ như Martha và Maria, đó là
hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những
việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải
cuộc đời chúng ta.
27. Những mẫu
gương sáng ngời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời
Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.
Chọn điều tốt nhất
Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến
Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi
khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm
bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Giêsu và các tông đồ là những
vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria
vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc
nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức
Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức
Giêsu can thiệp: “em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó
giúp con một tay”.
Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu
đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức
Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.
“Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được”. Trên đời có nhiều điều
có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp
này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài.
Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại
là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người
khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm,
và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người
không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.
Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử
như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?
Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân
“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần. Abraham
chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong
một môi trường nóng bức, và dùng bữa”. Với Abraham, đây không phải là những
người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ
hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt,
đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.
Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay.
Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón
tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu
cũng đã đồng hoá mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là
đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ
người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là
đối xử với Thiên Chúa.
Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô
Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin
Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của
Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng
cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình
thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong
những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo
Hội. Với Phaolô, Ngài “học no học đói”, Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh
hơn.
Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ
kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối
với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Giêsu Kitô.
Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao
giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức
Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở
thành người tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có chấp nhận chọn lựa của Maria không? Tại sao?
2. Theo bạn, hiếu khách có còn giá trị trong xã hội hiện tại không?
Xin cho biết lý do.
3. Có cần phải rao giảng Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay
không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho con người ngày nay?
28. Gia đình chị em
Maria – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Trong cuộc đời công khai giảng dạy, Chúa Giêsu được nhiều người
thương mến và giúp đỡ. Trong số đó không thiếu những người phụ nữ đi theo Chúa,
cách đặc biệt một gia đình mà Chúa thường đến thăm và quan tâm tận tình: gia
đình của chị em bà Matta và Maria. Các Tin mừng ghi nhận ít là ba lần Chúa đến
nhà chị em này (Ga 11, 1-45; 12, 1-11; Lc 10, 38-42).
Làng Bêtania
Nói đến gia đình Matta và Maria chúng ta không thể nào không nhắc
đến một địa danh lịch sử, gắn liền với tên tuổi của hai Thánh nữ. Bêtania một làng
nằm ở phía đông nam núi Cây dầu, thuộc vùng phụ cận Giêrusalem, trên đường nối
liền với Giêricô. Nơi ở của Lazarô, Mátta và Maria (Ga 11,1). Là nơi Chúa cho
Lazarô sống lại (Ga 11). Bêtania bây giờ là El-Azariyeh, “nhà của Lazarô”. Nhìn
từ xa, làng Bêtania được mô tả như là “nơi tốt đẹp đáng ghi nhớ, nơi ẩn náu của
sự bình yên, của nguồn yêu thương”. Bây giờ cũng chỉ là một làng nhỏ. Dân số
hiện nay khoảng 5000 người. Bêtania ngày nay là vùng đất tự do, chẳng thuộc
quản lý của Israel hay của Palestine. Từ Giêrusalem về Bêtania xe hơi chạy khỏang một giờ đồng
hồ”.
Mátta và Maria
Câu chuyện Chúa Giêsu vào nhà Mátta và Maria nghỉ ngơi, khi cùng
với các môn đệ đang trên đường rao giảng Tin mừng, cho chúng ta một nét đẹp trong chân
dung của người Tông đồ phục vụ anh chị em mình. Trong khi cô em là Maria đang
ngồi lắng nghe lời chúa, thì Mátta tất bật với công việc một người nội trợ thật
tuyệt vời. Chúa Giêsu không có ý xem nhẹ, thái độ đón tiếp của bà. Bởi Chúa
cũng cần lắm những cộng sự viên năng nổ, năng động như Mátta. Nếu làm một cuộc
so sánh hai chị em thì chúng ta phải khẳng định rằng: Maria là người thiên về
đời sống nội tâm, còn Mátta thì hướng đến sự chia sẻ và trao ban. Cả hai đều là
những cách thế thể hiện một tình yêu đón nhận từ Thiên Chúa và tặng ban cho con
người. Vả lại, Maria là người em nên có khi hơi ỷ lại một chút, công việc bếp
núc cũng có phần nặng nhọc và cần đến sự khéo léo và tài tình, nên dành cho
người chị thì có lẻ tốt hơn.
Một lần khác, khi ra chào đón Chúa Giêsu vào thăm trong hòan cảnh
người em mới qua đời, Mátta bộc bạch cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy
có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy
xin cùng Thiên chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11,21). Lazarô đã chết,
thế nhưng Mátta vẫn tin rằng Chúa Giêsu là sự sống vĩnh cửu của con người. Nói
cách khác Mátta tin nhận Thầy Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng Messia mà thiên
Chúa tặng ban cho nhân loại.
Lắng nghe và thực thi Lời Chúa dạy
Tin mừng dù ghi nhận sự khác biệt của hai chị em Maria và Mát-ta
trong việc đón nhận lời Chúa, một bên là tĩnh lặng của tâm hồn, một bên là xao
động của từng đường gân thớ thịt. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận con tim
của cả hai đang dạt dào tình yêu mến Thiên Chúa một cách vô bờ bến, trong con
người của Mát-ta và Maria.
Kết hợp những nét đẹp rạng ngời của cả hai chị em, mỗi người sẽ
thấy được việc lắng nghe và thực thi lời Chúa, chỉ là hai cách thế diễn tả của
một tình yêu Giêsu.
29. Yêu
theo cách của người mình yêu
Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé
lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen
thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô.
Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả
trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được
một bức hoạ tâm lý sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là
người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và
lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu
kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt
thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn
Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe
lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho
họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của
nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của
vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị
nàng.
“Mácta tất bật lo việc phục vụ”. Nàng bù đầu với nhiều công việc
mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị
thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu
kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị
khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để
con một mình phục vụ mà Thầy không quan tâm sao?”.
Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng
trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta!
Mácta! Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết
mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Ý Ngài muốn nói:
không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một
điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.
Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:
Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biệt
Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm
tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm
tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những
người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã
không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria,
nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa.
Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục
vụ mới là chính đáng.
Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây
nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả
ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến: Chị và chúng em
cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!
Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai
lầm
Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài
đang trên đường đến Giêrusalem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc
chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha.
Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày
trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể
thực hiện được. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là
điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình
ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước
về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng
hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ
tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem
đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi.
“Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta
chỉ cần một món thật đơn giản”. Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây
là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với
mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không
được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng
mình.
Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng
ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những
chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội
chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để
thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy
tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng
thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi
bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn
đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có
những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi
hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và
tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút
bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt.
Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln
chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu
tâm sự của ông thôi.
Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng
khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự
không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa
Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa.
30. Một sự cần
thiết
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và
cần thiết tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt
đối?
Cứ chung mà nói, ai trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như
cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng
sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu
khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để
tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong
bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.
Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành
và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong thời gian một chút danh
giá, một chút tiếng tăm.
Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông
đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi
tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người
giàu có đã mang tiền đến giúp vì họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi
với thời gian.
Một trường hợp khác, đó là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc
làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới
chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp
Pullman và nói:
- Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với
ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy hợp tác với nhau.
Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại.
Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:
- Vậy ông tính đặt tên cho công ty là gì?
- Công ty Pullman chứ sao nữa.
Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng
cơm tối.
Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu
điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh vọng.
Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt
đối hay không? Chắc chắn là không. Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta
sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.
Với chúng ta thì khác, sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi
linh hồn như lời Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và
loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ
Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.
Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng
Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.
Đúng thế, chúng ta được sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng
không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất cả đều do mình trao ban. Những sự vật
rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau cỏ để cho chúng ta được sống là do
ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.
Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên
Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất
quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới thực sự là cần thiết.
Cavalière là một nữ tài tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế
nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến
cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết. Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng
nói:
-Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù
du giả tạo đó hay sao?
Một hôm, người ta không thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh
sáng nữa. Cô đi tới một miền núi, sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà
dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô
đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã nói:
- Sống như thế này thì có chi là sung sướng.
Nhưng cô đã trả lời:
- Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó,
tôi được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là
niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.
Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh
cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải
thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen.
31. Điểm dừng
Khi nói đến điểm dừng, tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ
chuyển động thì đó không phải là điểm dừng, mà là điểm cố định, một điểm chết.
Điểm dừng thì trước khi dừng đã chuyển động, và dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi
lẽ, dừng mà không bao giờ chuyển động nữa thì cũng là điểm dừng chết.
Từ những điểm dừng trong đời.
Quan sát cuộc sống quanh ta, chúng ta sẽ bắt gặp được những điểm
dừng. Có những điểm dừng chết chóc, nhưng cũng có những điểm dừng sống động. Có
những điểm dừng mang đến tai họa, nhưng cũng có những điểm dừng mang lại niềm
vui, một sự đổi mới, một sự cứu rỗi: đồng hồ đang chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt
giống gieo xuống đất rất cần để yên một thời gian nó mới nẩy mầm. Một người
đang đi trong một cánh rừng, anh dừng lại quan sát xung quanh, sau đó quyết
định đổi hướng đi vì biết mình đã lạc đường một điểm dừng cho sự đổi mới, một
cái dừng giải thoát.
Trở lại bức tranh Tin Mừng hôm nay mà Luca phác họa cho chúng ta.
Chúng ta cũng gặp được những điểm dừng: Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân ở nhà
Mácta và Maria; Maria dừng chân dưới chân Chúa Giêsu; Mácta dừng chân bên chân
Chúa Giêsu. Tất cả những điểm dừng đều có mục đích: Chúa Giêsu và các môn đệ
nghỉ chân để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem; Maria dừng bên chân Chúa để
nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để cầu cứu Chúa, dường như muốn làm nũng, dường
như muốn trách Chúa.
Qua điểm dừng của Mácta trong Phúc âm:
Cô Mácta bận rộn, rất bận rộn với công việc phục vụ bề bộn. Lòng
mến Chúa, lòng hiếu khách của cô được thể hiện qua công việc, cô muốn làm những
thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ nghỉ tốt nhất mà cô có thể dành cho Chúa và môn
đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng. Cô là chị lớn nên nặng trách nhiệm, cô đảm đang
tháo vát và nhiều sáng kiến. Sáng kiến nhiều nên nhiều việc, và cuối cùng làm
chẳng kham đành xin Chúa can thiệp.
Mácta phục vụ Chúa, điều đó thật tốt. Thế nhưng điều tốt xem ra
bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở chỗ nào? Ở chỗ là cô không toàn tâm toàn
ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý đến người em, mà người em này hiện ra
trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt đẹp đó là người trốn việc, biếng nhác,
và do đó công việc của cô đã bề bộn lại càng bề bộn hơn, đã rối trí lại càng
rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa lúc bế tắc đó cô còn biết dừng lại
bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô, ích lợi cho cô lắm, vì cô sẽ có
người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của Chúa và mọi người về phía mình
mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa giải tỏa được nỗi ấm ức trong lòng
đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người khác khen mình, để tự khen mình,
khen mình cũng là hạ giá người khác: “Em con để mình con phục vụ”. Phải chăng ý
cô là: Con quá giỏi, còn em con nó vụng về chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá.
Một cái dừng để trách móc người khác, và cũng để trách Chúa: “Mà Thầy không để
ý tới sao”. Cô trách khéo: sao con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý
mình, làm như mình và cũng để lôi kéo Chúa về phe mình: “Xin Thầy bảo nó giúp
con một tay”. Lấy uy của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý
mình, làm như mình muốn.
Nhưng Chúa Giêsu tận dụng giây phút dừng lại ấy của Mácta để thức
tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô tâm với cô không? Thưa không, Chúa không vô tâm
nhưng để ý tới cô, để ý nhiều nữa kìa, không những biết việc cô làm nhưng Chúa
còn biết lòng dạ, suy nghĩ của cô: Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều
chuyện quá!” vì băn khoăn lo lắng nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết
điều gì khác nữa, cô đang ngủ mê trong công việc của mình nên Chúa phải thức
tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai
lần, như đánh thức người mê ngủ: “Mácta! Mácta ơi!...” thật êm ái và yêu
thương. Sao mà cô không tỉnh thức được. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Một điểm dừng làm thay
đổi nhận thức, làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang
đến một sự đổi mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.
Câu trả lời của Chúa chắc chắn làm Mácta ngạc nhiên, giật mình vì
ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có một cái nhìn mới, đón nhận những giá trị
mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi lương thực vật chất, nhưng phải lo lắng
cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn trần thế mau hư nát, Chúa hướng cô đến
lương thực Nước Trời trường tồn. Từ lương thực nuôi sống thân xác phàm tục Chúa
hướng cô đến lương thực linh hồn thiêng liêng Lương thực Nước Trời thì tốt nhất
và sẽ không bị ai lấy mất đó chính là Lời Chúa, đó là ơn Chúa.
Đến điểm dừng của Kitô hữu trong cuộc sống;
Cuộc sống con người ngày nay hoạt động nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là
trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển vùn vụt, con người như bị cuốn hút
vào vòng quay của nó đến nỗi dường như không có thời gian để thở, để thư giãn,
để nghĩ ngơi…Người Kitô hữu trong hoạt động Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác
ái từ thiện, dấn thân xã hội…dường như cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới
còn nhiều người chưa nhận biết Chúa, còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp
hoạn nạn, đau khổ…cho nên bổn phận, trách nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu
còn nặng nề, cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ,
truyền giáo, bác ái của chúng ta có phản ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa
quả của tình yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch
trương ảnh hưởng của chúng ta, kéo sự chú ý của người khác về phía mình, yêu
cầu Chúa làm theo ý mình?
Chúa có thể mải mê công việc của Chúa mà không được quên đi chính
Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với công việc của cuộc sống, nhưng không được
quên đi mục đích của cuộc sống. Cần có những điểm dừng trong cuộc sống để kín
múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho những hoạt động của chúng ta. Chiếc ly cần
phải đứng yên mới có thể hứng lấy nguồn nước từ vòi rót xuống. Thiên Chúa không
thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều gì cả nếu trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để
phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta cần phải có tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi
mình trước. Hoạt động Tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em. Thế giới
không thích thú gì khi gặp gỡ ta, những thế giới đang khao khát tình yêu Thiên
Chúa, đang khao khát những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho họ qua trung gian
chúng ta.
Khi bị quay cuồng trong cuộc sống, nếu chúng ta biết dừng lại như
Mácta và cầu cứu Chúa: “Chúa ơi! Con mệt quá”, lúc đó chúng ta sẽ được Chúa
tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ được Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan
trọng nhất, điều nào là phụ thuộc và qua đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi
dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng ta đừng quên chọn Chúa và Lời Chúa là
phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của chúng ta phải là hoa trái của tình
yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả không phải vì cành, nhưng vì cành
biết kết hợp cùng cây.
Hành trình nào cũng cần có những điểm dừng, những điểm dừng ấy thật
cần thiết để tiếp sức cho hành trình đạt đến đích. Hành trình về tiếp nhận ân
sủng, tăng cường sức khỏe thiêng liêng, bồi bổ tâm linh cho hành trình đến
đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện là cần thiết nhất để giao tiếp
với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận ơn Chúa.
Thế nhưng liệu có thinh lặng cầu nguyện được trong thế giới ồn ào
náo nhiệt, tràn ngập công việc này chăng?
Mẹ Têrêsa Calcuta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi
bước xuống “địa ngục Calcuta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào
“nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể
một tiếng đồng hồ, để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và
nhiệt huyết tông đồ.
32. Việc cần
Truyện cổ tích Arập có kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua
cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với một vị hiền triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc
về thái độ lạ thường của nhà hiền triết, suốt ngày không thèm nói lời nào với
hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử hãy ngồi im bên cạnh mình.
Sau một tháng im lặng như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:
- Thưa thầy, cha tôi gởi tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một
tháng qua rồi mà tôi chưa học được gì cả?
Nhà hiền triết ôn tồn trả lời:
- Này hoàng tử trẻ tuổi của ta, nếu con không học quí trọng sự
thinh lặng của ta thì con sẽ không thể nào quí trọng được những lời ta nói. Nếu
con không học được bài học sống trong thinh lặng thì con sẽ không học được gì
nữa cả.
Triết gia người Pháp ông Pascal đã nhận định về thời đại của ông
như sau: “Sau khi đã quan sát cuộc sống của những người đồng thời trong một
thời gian lâu, tôi có thể kết luận rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng
gây phiền phức xáo trộn cho con người là vì con người không còn khả năng sống
trong thinh lặng nữa”.
Ông Pascal đã sống xa chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ
XVII bên Pháp. Căn bệnh của những thời đại ông vẫn còn là căn bệnh của những
người hay nhiều người của thời đại hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống
trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe
nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể
hiểu được phần nào căn bệnh này còn tồn tại. Nhưng không phải là sự thinh lặng
của cô đơn, của sự trống rỗng không có gì cả. Người Kitô không bao giờ sống
trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này, vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc
đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của người Kitô là sự thinh lặng có đầy
Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để được nhìn thấy Chúa và lắng nghe
tiếng nói của Ngài.
Thử hỏi trong một ngày sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây
phút thinh lặng có đầy Chúa này? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp
Chúa trong Bí tích Thánh Thể? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh
Thánh, để lắng nghe Lời Chúa? Đây là điều tốt nhất mà Maria đã chọn như trong
Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta.
Sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy
Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng, nhưng luôn đi trên con đường noi gương
sống của Chúa, được hiện diện với Chúa, được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ
mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc
lại nơi bài đọc II. Sống trong sự thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô
đã định nghĩa cuộc sống của mình như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa
và sẵn sàng lãnh nhận những gì còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.
Cách nói còn thiếu nơi sự thương khó của Chúa không có nghĩa là sự
thương khó của Chúa còn thiếu điều gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa
cần được chia sẻ, được sống trong cuộc đời của tông đồ Phaolô. Có sống trong
thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia
sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương
đầu hằng ngày.
Tâm thức sống ồn ào là tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc
sống. Sống trong thinh lặng có đầy Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im
lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống
trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày
nay.
Xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong thinh lặng đầy Chúa này,
thinh lặng để lắng nghe, để có thêm sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức
cậy và đức mến vào Chúa.
Ngày kia, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua,
Đức Giêsu được một gia đình tại làng Bêtania đón tiếp. Nhà gồm ba chị em:
Matta, Maria và Lazarô. Matta là người chị cả, có lòng hiếu khách và rất mến mộ
Đức Giêsu. Nên chi khi được vị khách quí này viếng thăm, cô đã đôn đáo, tận
tình trổ tài để chiêu đãi Chúa một bữa.
Trong khi đó cô em là Maria lại trầm tĩnh hơn. Nàng mời Đức Giêsu
vào nhà và ngồi bên chân Ngài tiếp chuyện. Tất nhiên việc này không lọt khỏi
đôi mắt tinh tường, đảm đang, và chú ý đến hết mọi thứ của bà chị. Thế nên, đợi
hồi lâu mà vẫn không thấy cô em xuống bếp giúp mình một tay, hầu tiếp đãi Thầy
cho đàng hoàng, Matta đã cất tiếng nhờ Đức Giêsu trợ giúp: “Thưa Thầy, em tôi
để tôi phục dịch một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp
tôi với.” Đây phải chăng là lời than trách nhẹ nhàng, ngầm nói Maria là người
cứng đầu, chị bảo khó nghe, nên phải nhờ Chúa dạy? Hay đây là chính lời “cầu
nguyện” mà một người đang hoạt động tất bật cho Nước Chúa, nhưng thiếu nhân sự
cộng tác, nên phải cầu Chúa can thiệp?
Dẫu sao thì Đức Giêsu đã không bảo cô em: “Thôi để lúc khác chúng
ta nói chuyện tiếp. Bây giờ hãy đi giúp chị đi.” Trái lại Ngài đã khẳng định
cho bà chị biết một giá trị ưu tiên trong cuộc sống: “Ngươi lo lắng xao xuyến
về nhiều chuyện quá! Cần thì ít thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất rồi và sẽ
không bị ai giựt mất.”
Mới nghe qua, e rằng có người thương cảm cho Matta: bận rộn phục
dịch Chúa đã chẳng được tiếng khen hay lời khích lệ. Trong khi người kia chỉ
ngồi một nơi, chẳng làm lụng gì cả mà lại được Chúa khen là “biết chọn phần tốt
nhất.”
Phải chăng có một nghịch lý trong Tin Mừng của Đức Giêsu: cách đây
không lâu, qua câu chuyện Người Samari Nhân Hậu, Ngài đã mở ra cho môn đệ con
đường dấn thân hoạt động, hy sinh phục vụ tha nhân – “Hãy đi và làm như vậy” –
thế mà bây giờ thì dường như Ngài lại đề cao việc tĩnh lặng và lắng nghe ?
Điều đáng lưu ý là không phải Đức Giêsu khiển trách Matta, cũng
chẳng phải Ngài thiếu quan tâm hay không đánh giá tốt việc làm của cô ấy. Trái
lại Đức Giêsu muốn khuyên cô đừng quá bối rối lo lắng để trở thành một kẻ nô lệ
cho công việc hay thành quả. Điều cần thiết nhất không phải là làm được gì cho
Chúa nhưng là nhận được gì từ Chúa. Nhận nhiều hay ít để sau đó có thể trao ban
cho tha nhân ít hay nhiều còn tùy thuộc thái độ người ta đón tiếp Chúa trong
cuộc đời.
Có nhiều người quá hăng say hoạt động công ích xã hội mà quên đi
đời sống nguyện cầu. Có lắm kẻ qua tích cực “giải phóng” anh em mà quên luôn
Chúa. Như thế thì làm sao có thể thành công theo tinh thần của Phúc âm được. Vì
như Đức Giêsu đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm được gì” cơ mà. Và
Ngài cũng đã từng quả quyết: “Cũng như nhánh nho không thể tự mình sinh quả nếu
không lưu lại với thân nho, thì các ngươi cũng vậy, nếu không lưu lại trong
Ta.” (Ga 15:4)
Một vị linh mục đã viết: “Những hoạt động rầm rộ, những cuộc dấn
thân vào đời mà không có sự liên hệ mật thiết với Chúa, không lấy sự cầu nguyện
làm căn bản hỗ trợ, sẽ không đem lại ích lợi sâu xa và lâu bền. Có mến Chúa mới
biết yêu người như Chúa đã yêu mến, có hiệp nhất với Chúa mới biết mở vòng tay
lớn ôm lấy anh em.” Biết lấy Chúa làm căn bản của đời sống, biết tìm đến Ngài
qua thinh lặng và nguyện cầu, người ta mới có được hướng đi đúng lối và sức
mạnh cần thiết cho hành trình phục vụ Nước Trời.
Đó không chỉ là lối sống cần thiết đối với những người làm việc
tông đồ, nhưng còn là “phần tốt nhất” mà mọi người phải có. Đã nhiều lần Đức
Giêsu căn dặn các kẻ theo Ngài: đừng lo lắng thái quá về của ăn áo mặc, đừng
bồn chồn xao xuyến về ngày mai, cũng đừng sợ hãi khi phải đứng trước bạo lực
của trần gian... vì chỉ có một điều cần nhất thôi: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa trước đã, cùng sự công chính của Người” (Mt 6:33)
Có lẽ lắm khi người ta cứ dễ mãi mê với công việc, chạy đôn đáo với
đồng tiền, xôn xao lo lắng cho tương lai của chính mình hay con cái mà quên đi
những giây phút tĩnh lặng ngồi bên chân Chúa, để lắng nghe và để nhận chân giá
trị quan yếu của cuộc đời. Nhiều người lo làm việc tối ngày, đến nỗi “không có
giờ” ngồi yên để đọc một đoạn Thánh kinh, hay đôi dòng sách báo đạo đức.
Như thế làm sao trám khỏi tinh thần bị còm cõi và đời sống mất đi ý vị.
Giữa một cuộc sống ồn ào bon chen, phải cố gắng tìm cho chính mình
những giây phút thinh lặng. Bình an và sức mạnh nội tâm được kín múc từ những
khoảnh khắc nầy đây. Thomas Merton từng đoạn quyết: “Thinh lặng là nhu cầu căn
bản cho mọi người muốn sống nhân tính của mình cách tốt đẹp nhất.” Vì chỉ trong
thinh lặng người ta mới dễ ghi nhận sâu xa những nét đẹp ở nơi Tạo Hóa và nơi
con người.
Lắm khi người ta cũng đa đoan đến nỗi chỉ biết đôn đáo kiếm tìm:
kiếm cá, kiếm cơm, kiếm tình, kiếm bằng cấp, kiếm kiến thức... mà quên dừng lại
để đắm nhìn vào vũ trụ thinh không, hầu khám phá cội nguồn hạnh phúc cuộc đời.
Cội nguồn đó chính là Thiên Chúa. Thiếu Ngài đời người chỉ là một chuỗi tìm
kiếm vô vọng. Có Ngài chẳng ai giựt mất được sự an vui của tâm hồn.
“Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị ai giựt mất.”
Chắc hẳn bạn chẳng bao giờ muốn tìm kiếm những thứ mà khi vừa có
lại bị thế gian giựt mất!
34. Lắng nghe
Đoạn Tin Mừng thánh Luca kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của
hai chị em Marta và Maria tại nhà của họ ở làng Bêtania. Chúng ta thấy tất cả
câu chuyện xoay quanh cách thức hai người tiếp đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết
thúc câu chuyện là nhận định của Chúa Giêsu về cách tiếp đón của mỗi người.
Trước hết, chúng ta thấy cả hai người đều tiếp đón
Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ: Marta thì bận rộn tíu
tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi bên chân Chúa, tiếp
chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm hài lòng Chúa hay
được Chúa yêu thích hơn? Đó là cách tiếp đón của cô Maria. Chính Chúa đã nhận
định như thế: “Maria đã chọn phần tốt nhất”. Còn với cô Marta, Chúa nói: “Con
lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá”. Thật ra, cả hai chị em đều hết lòng tiếp
đón Chúa. Nhưng đối với Chúa: “Người ta sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng
còn bởi lời Thiên Chúa:, nghĩa là người ta không phải chỉ có sự sống như thực
vật, động vật, mà còn phải có lẽ sống. Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta
lẽ sống và đường sống. Vậy thì lời Chúa phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe
lời Chúa chúng ta mới có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực
với lẽ sống và đường sống mà Thiên Chúa cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế.
Đây là bài học thứ nhất chúng ta ghi nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công
việc thế nào cũng phải biết dành thời giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có nhiều việc phải làm. Đừng kể
những người lười biếng hay những người chỉ muốn ăn không ngồi rồi, còn hầu hết
chúng ta, nếu sống đúng vai trò và nhiệm vụ của mình, chúng ta đều thấy việc
thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai mươi bốn tiếng mỗi ngày hãy còn quá ngắn.
Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh bay đi, để lại công việc cứ tiếp nối nhau
mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc. Sống trong hoàn cảnh quá nhiều công việc
như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô Maria càng cần thiết cho chúng ta, chúng
ta không thể để cho công việc lôi kéo mà quên mất mục đích chính của đời mình.
Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp chỉ là phương tiện nuôi sống, là con
thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không thể là mục đích của đời chúng ta. Có
lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng nữa, khi thấy chúng ta quá bận rộn
vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu sức lực của tuổi đời, bao nhiêu thời
gian quí giá, để lo cho những công việc không có giá trị trường cửu, để rồi kết
thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ hãi về số phận đời sau.
Như vậy, điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta phải biết gặp gỡ
Chúa trong hoạt động, trong việc làm. Nói cụ thể hơn, trong một ngày và trong
hoạt động, chúng ta phải biết dành ra ít giây phút cho việc gặp gỡ Chúa. Thí
dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc nâng tâm hồn lên cao, một ít phút đọc Kinh
Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với
tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta cần tìm ra ý nghĩa sâu xa những câu nhận
định của Chúa Giêsu: “Chỉ có một chuyện cần mà thôi”, “Maria đã chọn phần tốt
nhất”, nghĩa là cuộc đời của chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều
công việc phải làm, nhưng chúng ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái
gì cần làm, cái gì phải làm trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.
Đàng khác, bài Tin Mừng còn gợi cho chúng ta suy nghĩ thêm một vấn
đề nữa, đó là câu nói của Marta: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy
không để ý tới sao?”. Câu nói của Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị
thường sẵn có trong lòng mọi người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng.
Kẻ ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra
khó chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của người
khác… Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi. Nhưng
có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan
sắc, thành công, nhân đức… Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng môi
trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen nhau; nhà
giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen tị nhiều
hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn tới, rồi
họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn người lớn
ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.
Chẳng hạn, vua Saolê, khi thấy Đavid được dân chúng ca tụng là tài
giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức với Đavid, đến nỗi từ đó tìm đủ cách để giết
Đavid, dù Đavid không có tội gì hết. Saolê ghen tị thật vô lý. Đavid là một tay
tài giỏi, thắng trận trở về, xứng đáng được toàn dân ca tụng biết ơn. Còn
Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì Đavid đã đem phần thắng về cho mình, thì Saolê đã
làm ngược lại là ghen tức và cay đắng trả thù. Đúng như câu nói: “Khi một người
thắng trận trở về nhà, dù lòng đang vui cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác
hơn mình, thì niềm vui đó sẽ trở thành buồn bực và đau khổ”. Nếu như chúng ta ở
trong trường hợp của Saolê, có lẽ chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có
thể cười người khác khi thấy họ ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con.
Nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không?
Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ.
Ngược lại, thử hỏi chúng ta có vui một cách thành thực khi anh em mình được may
mắn thành công chăng? Thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui.
Chúng ta hãy nhớ: Ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói
hành, nói xấu, vu oan cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất
tình bác ái và gây nên nhiều gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta
phải tốp lại cái thói ghen tị vô lối của mình.
Bài Tin Mừng cũng như những điều tìm hiểu trên đây nhắc nhở chúng
ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã tiếp đón Chúa, gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời
Chúa như thế nào trong cuộc sống: theo kiểu của Marta hay Maria? Chúng ta có
biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt động trong cuộc sống để đáp ứng những đòi
hỏi phát triển con người toàn diện không? Chúng ta có tự cho mình là đúng, công
việc của mình là hay hơn cả, để rồi phủ nhận hoặc công kích người khác, công
việc của người khác không? Trong khi có thể chính người đó mới đúng và công
việc của họ mới đáng kể? Ước mong mỗi người hãy suy nghĩ và kiểm điểm để đổi
mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi hoặc thiếu sót trong đời sống đạo của
mình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật hôm nay đề cập đến vấn đề đón tiếp.
Abraham được Thiên Chúa viếng thăm dưới hình ảnh ba người khách. Ông đã thể
hiện sự hiếu khách của mình trong việc làm tất cả bao nhiêu có thể để làm hài
lòng những vị khách đặc biệt ấy. Trước tiên, ông lấy nước để cho họ rửa tay
chân, tiếp đến sai đầy tờ làm thịt bê, và nói với vợ mình Sara lấy bột để làm
bánh. Một sự tiếp đón hết sức chu đáo. Điều này đã làm hài lòng ba vị khách.
Nhờ thế, gia đình ông được chúc lành và được đón nhận trước một tin vui là
chừng này năm sau hai ông bà sẽ có được một cậu con trai mặc cho đang ở độ tuổi
cao niên.
Tiếp đón là phần không thể thiếu trong việc xây dựng các mối tương
giao trong nhân loại. Tất cả các việc chuẩn bị chu đáo như các món ăn, bày bố
trang trí bàn ăn đẹp mắt, tạo bầu khí dễ chịu thân thiện…nhằm mục đích làm hài
lòng người được mời. Một bữa ăn không dừng lại ở vấn đề thỏa mãn cơn đói khát,
mà còn vươn tới nét đẹp văn hóa ẩm thực mà chúng ta biết mỗi miền và mỗi quốc
gia đều có những món ăn đặc trưng riêng của mình. Bữa ăn giúp xây dựng tình bạn
ngày thêm sâu đậm. Khi cùng nhau chia sẻ bữa ăn là muốn nói cho người đồng bàn
biết họ là quan trọng, là muốn cho họ được sống một cách triển nở, là muốn xây
dựng một tình bằng hữu chân thực. Cũng chính trong bầu khí của bữa ăn, người ta
có thể mở lòng ra để lắng nghe và chia sẻ nhiều điều với người đồng bàn. Qua đó
mỗi bên nhận được những hoa trái bổ ích và có được nhiều kiến thức cũng như
hiểu biết nhau hơn.
Cuộc viếng thăm của Thiên Chúa dành cho Abraham và lòng hiếu khách
của ông dành cho Ngài là điều cần thiết nhất trong cuộc sống của mỗi Kitô hữu.
Điều này lại được Đức Giêsu một lần nữa khẳng định khi nói về sự chọn lựa giữa
lắng nghe Chúa và bên kia là công việc. Tin Mừng Thánh Luca kể về cuộc thăm
viếng của Đức Giêsu đối với ba chị em trong một gia đình tại Bêtania. Đây là
một gia đình có mối liên hệ gần gũi với Ngài. Có thể nói nơi đây là điểm dừng
chân sau những chặng đường rao giảng của Đức Giêsu. Ba chị em của gia đình tại
Bêtania cũng còn được các sách Tin Mừng khác nói đến, như Tin Mừng theo thánh
Gioan có kể về việc Đức Giêsu cho ông Lazarô chết bốn ngày và đã an táng trong
huyệt mộ được sống lại. Trong cuộc viếng thăm đang nói ở trên, hai thái độ hoàn
toàn khác nhau được thể hiện nơi Martha và Maria. Trong khi cô chị Martha tất
bật bận rộn với công việc bếp núc, thì cô em Maria lại cứ ngồi bên chân Chúa để
lắng nghe Ngài. Không những thế, cô em lại còn được Đức Giêsu khen là đã biết
chọn phần nhất, đồng thời cô chị lại bị trách cứ là « lo lắng bối rối về nhiều
chuyện » nữa.
Thực ra, hình ảnh lắng nghe Chúa của Maria và bận tâm nhiều việc
của Martha không thể tách rời. Đây chỉ là hai mặt của một vấn đề. Trước hết cần
phải lắng nghe Chúa thì sau đó mới có thể bước đi đúng hướng, cũng như dẫn đến
hành động để làm những việc cần làm. Điều quan trọng là biết dành thời gian cần
thiết và có con tim nhạy bén để nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa. Đó chính là
cuộc gặp gỡ mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Chỉ trong khung cảnh ấy người
tín hữu mới có thể đón nhận thánh ý Chúa để rồi chấp nhận bỏ ý riêng của mình,
để cuộc đời của mình được bước đi trong sự tín thác. Điều này khác hoàn toàn
với việc xin Thiên Chúa thực hiện nơi cuộc đời của mình những tiêu chuẩn theo
cái nhìn của người đời, và những gì mà chính bản thân muốn được như ý của mình
vậy. Dành thời gian để lắng nghe Chúa nói, hơn là nói thật nhiều với Ngài, trở
nên tối cần thiết và được coi như hơi thở của mỗi Kitô hữu.
Cuộc đời quanh ta vẫn tấp nập tiếp diễn hết ngày này tháng khác.
Đôi khi, con người bị cuốn hút vào nhịp độ với áp lực thật cao dẫn đến cuộc
sống bị mất quân bình. Tuy nhiên, có khi đạt được thành công lại là lúc người
ta chủ quan cho rằng khả năng của mình quyết định yếu tố thành công ấy. Từ đó,
sẽ làm cho ý nghĩa của cuộc đời mất đi điều chính yếu. Cuộc sống nhân loại được
kết hợp bởi nhiều mảng khác nhau như vật chất, tinh thần, đời sống tâm linh,
nghề nghiệp, gia đình, cộng đoàn, xã hội…Vượt lên trên tất cả, có Đấng là Chủ
thể của thời gian và không gian, là nguyên lý tối hậu của muôn loài muôn vật.
Nhờ Ngài mà chúng được tồn tại. Đấng đó chính là Thiên Chúa, Người cho chúng ta
sự sống và chỉ cho mỗi người thấy ý nghĩa đích thực. Điều tất yếu, người tín
hữu cần phải thiết lập mối mối tương quan chặt chẽ với Ngài, vì khi tách ra
khỏi Ngài, con người sẽ trở nên hư vô. Như thế, mới thấy lời khuyên của Đức
Giêsu hôm nay dành cho Martha thật sâu sắc. Khi chọn phần tốt nhất là dành thời
gian để nghe Chúa, thì các mảng khác trong cuộc sống của con người mới được
triển nở và mới đạt tới như lòng Chúa mong muốn.
Mỗi Chúa Nhật, người tín hữu được quy tụ trong bầu khí bữa tiệc
được chính Đức Giêsu dọn ra để cho chúng ta được bồi bổ sức mạnh và đời sống
được thăng hoa. Ngài mời gọi chúng ta lắng nghe Lời Ngài và muốn chúng được đem
ra thực hành nhằm trổ sinh hoa trái. Ngài cũng cho chúng ta thưởng thức lương
thực là chính mình của Ngài, để cho đời sống đức tin chúng ta được củng cố và
tăng triển không ngừng.
Xin cho chúng ta có tâm hồn lắng nghe Lời Chúa như Mẹ Maria, để
trong mọi hoàn cảnh chúng ta biết gẫm suy Lời Chúa trước khi đem ra thực hành.
Khi chọn phần tốt nhất chính là lúc thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi
chúng ta và trong suốt cả cuộc đời.
36. Hoạt động
và cầu nguyện – Gp Vĩnh Long
1. Dân gian có câu: “Khách tới nhà không gà thì vịt”, câu nói nầy
thể hiện lòng hiếu khách của chủ nhà. Trong bài đọc I, cho thấy tổ phụ Abraham
cũng rất hiếu khách, ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng, thì thấy bên ngoài
có 3 người đàn ông. Ông vội vàng lấy bột làm bánh, bắt một con bê tốt nhất làm
thịt để tiếp đãi họ. Những người nầy là sứ giả của Thiên Chúa. Trong đoạn Tin
Mừng chúng ta vừa nghe, Martha cũng thể hiện lòng hiếu khách của mình, chị lo
dọn tiệc thết đãi Chúa, thế nhưng người em là Maria phục vụ Chúa bằng cách
khác, ngồi nghe Chúa giảng dạy và được khen. Tại sao Chúa khen Maria? Và qua
hình ảnh của Matha và Maria tiếp đón Chúa mỗi người mỗi cách, Chúa muốn dạy
chúng ta điều gì?
2. Chắc hẳn không chỉ một mình Đức Giêsu ghé qua nhà chị em Martha,
Maria và Lagiarô (người đã chết và chôn được 4 ngày mà được Chúa cho sống lại),
mà còn các tông đồ nữa. Việc chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi và ăn uống cho ít là 13
người khách và 3 người nhà làm cho Martha, người chị, người chủ nhà tất nhiên
phải rất bận rộn. Cho nên chúng ta không lạ gì Martha trách em mình không phụ
giúp gì với mình! Dường như trách cả Chúa nữa là không biết nhắc Maria phụ với
chị, mà chỉ ngồi nghe Chúa nói chuyện, trong khi gần tới bữa ăn rồi! Rõ ràng
Martha làm việc phải làm của người chủ nhà, thế nhưng Chúa không khen, mà Chúa
còn bảo: “Martha, Martha ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một
chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”(Lc 10,42). Câu nói này
hẳn làm cho Martha và cả chúng ta cũng phải suy nghĩ nữa!
3. Xét về phương diện xã hội, khách đến nhà chúng ta thường thấy có
hai phương cách phục vụ. Phương cách giống như của Martha: lo ăn, lo chỗ nghỉ
cho khách. Theo cách nghĩ thông thường càng lo thức ăn thịnh soạn, chỗ nghỉ
càng chu đáo chừng nào chứng tỏ mình càng trân trọng, quý mến khách. Phương
cách giống của Maria: lắng nghe những điều chia sẻ của khách. Càng thâm giao,
càng tri kỷ khi đến thăm nhau dường như cần có nhiều thời giờ để tâm sự, để
chia sẻ nhau hơn là vấn đề ăn uống.
4. Xét về phương diện thiêng liêng, Martha tiêu biểu cho người hoạt
động, lo lắng về những nhu cầu vật chất. Còn Maria tiêu biểu cho những người
lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện. Tuy việc hoạt động phục vụ không phải là không
cần thiết, nhưng phải coi chừng kẻo chúng làm ta phân tâm mà không để ý đến
điều quan trọng hơn đó là lắng nghe Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc lại lời
Thiên Chúa dạy từ thời Cựu Ước: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ
nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
5. Hoạt động và cầu nguyện hai việc không thể tách rời nơi đời sống
của người Kitô hữu, mà cần bổ túc cho nhau. Trong đó việc cầu nguyện phải làm
nền tảng hoạt động cho đời sống của Kitô hữu. Thật vậy, ta hãy xem qua một vài
lĩnh vực để thấy rõ:
- Nhờ gắng bó với Đấng Tối Cao làm cho người sống đúng với phẩm giá
cao quý của mình hơn. Tháng 07 năm 2004, trung tâm nghiên cứu Howard thuộc Đại
học Austin, Texas, Hoa Kỳ đã công bố kết quả nghiên cứu cho thấy giới thanh
thiếu niên có đời sống tôn giáo mạnh thì vấn đề phạm pháp, vấn đề dục tính tiền
hôn nhân, lạm dụng chất kích thích, phạm pháp đều giảm đáng kể.
- Nhờ cầu nguyện nên giải quyết những vấn đề trong cuộc sống được
tốt hơn. Charles de Foucauld có phương cách giải quyết các vấn đề khó khăn như
sau: (1) Thưa với Chúa những điều mình gặp phải. (2) Cầu nguyện (thinh lặng)
lắng nghe Chúa hướng dẫn. (3) Đưa ra hướng để giải quyết vấn đề. Nhờ vậy mà
ngài đã giải quyết thành công nhiều điều. Điều nầy ai trong chúng ta cũng có
thể học hỏi để áp dùng cho đời sống của ta.
- Nhờ cầu nguyện nên việc phục vụ tha nhân được tốt hơn. Mẹ Têrêsa
Calcutta và các nữ tu dòng của Mẹ dù bận rộn công việc hằng ngày như thế nào,
nhưng luôn luôn dành thời giờ tham dự Thánh lễ, chầu Thánh Thể. Người ta ghi
nhận rằng Mẹ Têrêsa luôn là người có mặt ở nhà nguyện sớm nhất!
6. Như vậy cầu nguyện và hoạt động là hai việc không thể tách rời
nơi một Kitô hữu, giống như một đồng tiền phải có hai mặt. Có thể nói cầu
nguyện như là phần chìm, nền móng, của tòa nhà; hoạt động như là phần trên của
tòa nhà; toà nhà muốn vững phải nhờ móng chắc chắn. Nhờ cầu nguyện mới có thể
phân định được những việc nên làm và không nên làm, nếu thế thì cầu nguyện còn
có thể nói như tay lái của chiếc xe để dìu dắt cả chiếc xe đi đúng hướng, an
toàn. Nhờ cầu nguyện mà chúng ta có thể phục vụ, cư xử với nhau theo tinh thần
người con Chúa được tốt hơn.
Đừng tiếc gì một ít thời giờ đọc kinh hôm, kinh mai, xét mình hằng
ngày, đừng tiếc gì phải dành một vài tiếng đồng hồ tham dự Thánh Lễ ngày Chúa
Nhật... Đức Giêsu là mẫu gương cho cầu nguyện và hoạt động. Người muốn việc
hoạt động của người tông đồ phải bắt nguồn từ sự cầu nguyện và cần có những
giây phút nhìn lại việc mình làm, vậy hãy dành thời gian tâm sự với Chúa, như
là Maria; để rồi mới có thể có được sức mạnh phục vụ Chúa và tha nhân như
Martha, cách bền bỉ.
37. Lắng nghe
Lời Chúa là điều tốt nhất
(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong truyền thống Việt Nam, văn hoá ứng xử qua việc giao tiếp là
rất quan trọng, điều này đã được cha ông chúng ta rất đề cao. Qua việc đón tiếp
khách, người ta đánh giá được sự hiếu khách hay không của gia chủ; đồng thời nó
cũng thể hiện sự văn minh và nền giáo dục của gia đình đó như thế nào.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu
ghé thăm gia đình của Martha. Nơi đây, Ngài nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt
của của hai chị em Martha và Maria. Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng đều thể
hiện sự kính trọng, yêu mến mà hai cô dành cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, kết quả
lại khác nhau, bởi vì hệ tại ở hành vi lựa chọn.
1. Cuộc đời là một sự lựa chọn không ngừng
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta thấy: có rất nhiều điều
cần phải “lựa” và “chọn”. Khi còn nhỏ, cha mẹ lựa chọn cho con cái trường nào
tốt để gửi con vào học; khi lớn lên một chút, ta lựa chọn bạn để chơi, lựa chọn
thầy để học, lựa chọn nghề để mưu sinh, lựa chọn người yêu để cưới… Như vậy, có
lẽ trong cuộc đời, chỉ có lần sinh ra và chết đi là ta không có quyền chọn lựa
mà thôi, còn mọi trường hợp đều đòi ta phải có sự chọn lựa.
Có những lựa chọn tích cực và những lựa chọn tiêu cực. “Lựa chọn”
trong đời thường là lọc ra những thứ không cần thiết và chọn cho mình những thứ
cần dùng. Còn “lựa chọn” theo Kinh Thánh tức là nghe theo tiếng Chúa và thi
hành hay là ngược lại.
Thật vậy, có biết bao điều cần phải lựa chọn. Lựa chọn cái tốt, tốt
vừa, tốt hơn, hay tốt nhất? Đây chính là điều đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ,
đắn đo trước khi chọn.
Mỗi sự chọn lựa đều có giá của nó, và ta phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về chính ta qua sự chọn lựa của mình. Nếu lựa chọn đúng thì sẽ đem lại
hạnh phục. Lựa chọn sai thì sẽ dẫn đến sự bất hạnh. Chọn lựa được coi là “đích
đến” và “bánh lái” cho cuộc đời nếu lựa chọn đó là tốt, là đúng. Còn nếu lựa
chọn sai thì sẽ bị tác dụng ngược lại. Lựa chọn là khởi đầu của một hành trình,
thì sống sự lựa chọn đó là đi về đích điểm. Thật hạnh phúc cho những ai biết
quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý của Thiên Chúa.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy: Martha lựa chọn phục vụ
Chúa qua việc nấu nướng để thiết đãi Chúa một bữa ăn thịnh soạn. Maria thì lựa
chọn việc ngồi để lắng nghe Chúa nói. Đây là tư thế và thái độ của người môn đệ
trước vị tôn sư của mình… Nếu Martha thể hiện lòng kính trọng và yêu mến Chúa
qua việc nấu ăn, thì Maria cùng một lòng kính trọng và tình yêu mến Chúa như
Martha, nhưng Maria thì thể hiện cách khác là lắng nghe Lời Chúa. Hai công việc
đều phát xuất từ lòng mến và được khởi đi từ sự kính trọng. Hai thái độ đều
tốt. Một bề ngoài, một bề trong. Nhưng giá trị thì lại khác nhau. Hôm nay Chúa
khen và nói Maria đã chọn phần tốt nhất, còn Martha có thể đã chọn phần tốt
hoặc tốt hơn chứ chưa phải là tốt nhất.
2. Lắng nghe lời Chúa là điều tốt nhất
Thật vậy, lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành phải là điều quan
trọng nhất bởi vì: mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn luôn tồn tại.
Trong Cựu Ước, Chúa phán: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của
Ta, thì sự bình an của ngươi chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi
sẽ dạt dào như sóng biển, tên của ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao
giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta.” (Is 48,18-19b).
Sang thời Tân Ước, Kinh Thánh đã ca ngợi Mẹ là người luôn suy đi
nghĩ lại Lời Chúa trong lòng (x. Lc 2,19.51). Vì thế, Đức Giêsu đã khen Mẹ
trước mặt mọi người: “Mẹ và anh em tôi chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành.” (Lc 8,21). “… Lời ấy chính là Tin Mừng đã được rao giảng cho
anh em.” (1 Pr 1, 25; x. Is 40, 8). Lời ấy chính là Đức Kitô.
Trong cuốn Đắc nhân tâm, bà Carnegie đã viết: “Cách làm cho khách
vui lòng nhất là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư
của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông
cảm, chia sẻ những tâm tình, những kiến thức, những yêu cầu thiết thực của
người, quí hơn cả cơm ăn, áo mặc.”
Quả thật, thái độ của Maria thật thích hợp để làm vui lòng Chúa
trong thời điểm này, bởi vì Chúa sắp lên Giêrusalem để chịu nạn chịu chết, nên
việc lắng nghe để chia sẻ những tâm tư của Chúa và thi hành phải là điều quan
trọng nhất. Maria đã lựa chọn điều tốt nhất là được ở bên Chúa, nghe lời Chúa
dạy. Bà đã chọn cho mình phần phúc Nước Trời, bởi lẽ Đức Giêsu chính là nội
dung của Tin Mừng, vì thế, loan báo Tin Mừng chính là giới thiệu về Đức Kitô
cho con người và thế giới. Có Đức Giêsu là được cả Nước Trời. Nghe được Lời
Chúa nói với mình và đem ra thực hành thì được ví như “người khôn xây nhà trên
đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó,
nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá”. Đức Giêsu chính là kho tàng
quý giá mà Thiên Chúa Cha đã đem trồng vào trong mảnh vườn nhân loại. Sống
trong Ngài là được trở nên nghĩa thiết với Ngài và được Ngài yêu thương. Maria
trong bài Tin Mừng hôm nay đã có được đầy đủ các yêu tố trên, nên cô đáng được
Đức Giêsu khen là người có phúc: “Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất.”
3. Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta
Giáo Hội được sinh ra và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, “Giáo Hội luôn
tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa”.
Khi dành cho Lời Chúa một vị trí quan trọng và ngang hàng với chính
Chúa như thế, Giáo Hội muốn xác tín niềm tin của mình vào sức mạnh vạn năng của
Lời ấy: “Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường
Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn,
nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.” (x.
DV, số 21).
Như vậy, trong mọi thời, Giáo Hội luôn mời gọi con cái của mình hãy
siêng năng đọc Thánh Kinh, suy gẫm và đem ra thực hành cách sống động trong gia
đình, lối xóm, giáo xứ và bất cứ môi trường nào... Thế nhưng, vì quen lối sống
đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh và không mấy coi trọng Thánh
Kinh. Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của
cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sản sinh cho Giáo
hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng và chúng ta ngày hôm nay được kế thừa
niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó. Tuy nhiên, chúng ta quên mất
rằng, mọi lời giáo huấn, truyền thống của Giáo Hội, mọi lời kinh từ bao thế hệ
đều được khởi đi và suy tư từ Thánh Kinh mà ra. Nếu chúng ta am tường và hiểu
biết Thánh Kinh càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động. Thật
thế, Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.”
Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta cách tiếp cận cụ thể
với Thánh Kinh như sau: “Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến
sách Thánh Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời
sống cụ thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa
mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời.” (x. Thư Chung 1980, số 8).
Như vậy, qua hình ảnh, thái độ của Maria, và nhất là được nghe lời
chúc phúc của Đức Giêsu cho cô, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, chăm
chỉ đọc Thánh Kinh, và nhất là đem Lời Chúa ra thực hành. Đây chính là điều cao
trọng nhất để ta thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn. Yêu mến Chúa mà không giữ
Lời Chúa thì là người giữ đạo hình thức; giữ Lời Chúa như một luật lệ cứng
ngắc, thậm chí chỉ giữ trong nhà thờ mà thôi. Nếu đời sống đạo của chúng ta
đúng như vậy, thì chẳng khác gì người mang danh và đeo cái mác Công giáo, chứ
thực ra không phải là người mang đạo trong mình.
Nhưng để nghe được tiếng Chúa muốn gì nơi chúng ta, chúng ta cần
phải loại bỏ một số thứ không cần thiết, và phải kết hợp với Chúa trong thinh
lặng nội tâm thực sự. Làm được như thế, tâm hồn chúng ta hoàn toàn thuộc về
Chúa và để chúng ta dễ nhận ra tiếng Chúa trong Thánh Kinh, cuộc sống và qua
lương tâm.
Mong thay, mỗi chúng ta biết chọn sao cho trọn. Chọn điều tốt sẽ
dẫn đến kết quả tốt. chọn điều xấu ắt sẽ xấu. Nhưng trong tất cả mọi sự chọn
lựa, Lời Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, và thực hành Lời Chúa trong
cuộc sống là làm cho Chúa được hiện tại hóa trong lời nói, cử chỉ, hành động
của mỗi chúng ta. Có thế, Lời Chúa mới thực sự bén rễ sâu và sinh hoa kết quả
trong đời sống đạo của chúng ta.
Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt
nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta khi chúng ta thành tâm đi tìm kiếm
Chúa và yêu mến Chúa bằng việc lắng nghe và đem ra thực hành Lời ấy trong cuộc
sống.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm chủ tể đời
chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến và lắng nghe Lời Chúa bằng thái độ
của người môn đệ. Và, xin cho chúng con biết đem Lời Chúa ra để thực hành trong
cuộc sống hiện tại. Amen.
38. Chú giải
của Noel Quesson
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.
Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào.
Vẫn luôn luôn là chính lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg
để thuật lại. Không dưới mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã
thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật
sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51).
Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai
môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến
Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt
lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng lại trong một ngôi làng không được
nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường,
Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu,
có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu
nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên
con đường lên Giêrusalem đó.
Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự
dịu dàng.
Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi
làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta
vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải
lúc nào Người cũng đi lang thang không nới trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng
lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời
gian... và thời gian của tình bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!
Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen
biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân
và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra.
“Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!”
Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em
gái tên là Maria
Đó là hai chị em. Họ có một em trai là Ladarô.
Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí
của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một
người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn
ngủi đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và
anh Ladarô” (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại
cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang
phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria “cứ ngồi bên chân Chúa” (Ga 12,2-3). Như thế,
Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào
Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).
Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu
dàng của tình bằng hữu.
Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời
sống của Người Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và
mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ
dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).
Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta
thì tất bật lo việc phục vụ.
Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng
để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có
mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh,
mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.
Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi bên chân Chúa... cô lắng
nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của Người như thế nào? Người
kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng? Người giải thích lại các mối
phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người
quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích
nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những lời tâm sự về cái chết và sự sống
lại của Người.
Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã
nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra
họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng
có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao.” Dẫu sao,
nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn
những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu.
Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một
cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho
Người.
Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến
ngôi mộ “ngày đầu tiên trong tuần” để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ
trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức
Giêsu sẽ hiểu điều đó: “Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm
ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này
cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”(Ga 12,7-8).
Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy
không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”
Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của
hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta
không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria.
Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh
vì đã đem trọn tình yêu “phục vụ” những người khác... “Nào
những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát,
các ngươi đã cho uống” (Mt 25,34).
Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất
khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi
nền văn minh.
Chúa đáp
Chúng ta không thể không nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng
danh xưng “Đức Chúa” ba lần. “Đức Chúa” chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục
sinh. Điều đó chỉ cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một
giai thoại lịch sử dù rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc
khải”. Đấng sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan
trọng và phải được chúng ta tiếp nhận “trong đức tin”. Vả lại, toàn bộ câu
chuyện trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:
Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!
Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan
ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải
“phục vụ”, phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một
bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng và “giao động” quá nhiều.
Đây là một đề tài được Người ưa thích. Người đã nói rằng “những lo lắng về đời
sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người
sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26).
Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị
kết tội trước các toà án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để “lòng mình ra
nặng nề vì lo lắng sự đời” trong lúc chờ đợi Con Người lại đến” (Lc 21,34). Đức
Giêsu nói: “Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!”
Đức Giêsu không lên án Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt
tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự căng thẳng, sự giao động thái quá mà
dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó làm cho chúng
ta co quắp lại với chính mình.
Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải
chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công
nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành thời gian để tìm lại sự,
quân bình của chúng ta hơn để “sống” thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta
nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.
Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và
sẽ không bị lấy đi
Vậy “chuyện cần thiết duy nhất” ấy là gì?
Đó là làm điều Maria đã làm “Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người
dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một
phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời
Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra
càng một yêu sách trong những dịp khác. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”
(Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga
4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.
Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận
rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Đức Giêsu” thì ngay cả
những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy
lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức
Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải
là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều
đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng
nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc
chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người,
mà vì Mẹ đã “'lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).
Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của
Đức Giêsu với “Lời của Thiên Chúa” (Lc 5,1-8-11-21-11,28).
Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là
“phần tốt nhất” hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào
là điều chính yếu?
Ta chỉ có thể hiểu dễ dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt
chúng vào trong mối tương quan mật thiết với chủ đề ‘lên đường’. ‘Lên đường’
không có nghĩa là dửng dưng với những cái thuộc về vật chất hay những lo toan
trần thế.
Đây không có vấn đề đối nghịch giữa đời chiêm niệm và đời hoạt
động, mà chính là giá trị và sự hài hoà đúng đắn giữa hai đời sống đó. Chúng ta
không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy hoạt mà hãy biết sử dụng những giây phút
trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa -dĩ nhiên là không tìm
kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng chính là kín múc ở đó một năng lực mới để
phục vụ con người. Vì sống là ‘lữ hành’ là ‘đi’ nên con người phải dành cho đời
mình những lúc ‘dừng chân đứng lại’, ‘nghỉ ngơi lại sức’ định lại hướng đi, dò
lại bước đường đã qua để có thể vững bước tiếp tục cuộc hành trình và ra đi
phấn khởi hơn.
Hoạt động phải được xen kẽ bằng chiêm niệm và chiêm niệm phải chứa
chan cuộc sống và triển nở trong việc làm. Trong Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma
nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi sáng những người khác thì quan trọng hơn
là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội tâm thôi.
Dĩ nhiên chúng phải bắt nguồn nơi việc chiêm niệm nhưng thay vì khư
khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải thông truyền sự hiểu biết và thông suốt nội
tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác động hợp nhất với Thiên Chúa và sự hợp nhất với
Ngài triển nở ra việc làm, mới cấu thành một mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối
cao….
Những lời Chúa nói với Matta, là một cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt
động ồn ào, giả tạo, quá khích tức là thứ hoạt động không hề hay biết đến dành
cho những khoảnh khắc để cầu nguyện, hay ít là những lời nguyện tắt, không để ý
gì đến tiếng Chúa mời gọi trong cái thinh lặng và dần dà để mình bị tha hoá,
thác loạn.
Còn việc Chúa khen cô Maria không có nghĩa là Ngài bảo chúng ta
phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi, để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem gương
của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài khen cô Maria chẳng qua là Ngài nói đến tinh
thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống trọn vẹn và tích cực cho Chúa, vào lúc mà
Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách đặc biệt.
Lên đường có nghĩa là đi về với Chúa, tức là luôn hướng nhìn về
Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế không phải là dừng laị và nghỉ ngơi
trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp tục cuộc hành trình kết hợp với Chúa
đích thực. ‘Chiêm niệm trong hành động’ hiệp nhất với Thiên Chúa
trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho thấy việc phục vụ Thiên
Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai biết dành những khoảnh
khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể hiến thân trọn vẹn phục
vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo Chúa Kitô giả thiết một
thái độ tương tự như thế.
40. Người khách
muốn gì? – Lm FX. Vũ Phan Long
“Phần duy nhất cần thiết” của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe
giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để
nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức
ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt
truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn
nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn
ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở
ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào.
Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng
chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói
đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được
nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ
được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về
Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe
những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không
được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế
tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe
Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng
nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37),
với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài
khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của
giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà
“các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự
hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh
lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể
được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn
của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56).
Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1;
12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một
làng gần Giêrusalem.
- Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong
Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.
- ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng
nghe (x. 8,35).
- Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một
điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm
trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe
trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một
món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng
nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria
sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã
dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn
thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ
bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống
của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những
huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ
có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác
giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức
Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình.
Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà.
Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ
của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay
sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất.
Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là
như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với
Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho
mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần
cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người
khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn
Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của
người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón
tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.
Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều
luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết
không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí,
Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều
Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước
hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta
chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người
muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói
với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống
tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc
phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là:
làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng
dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn
10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn)
như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và
như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy
rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của
Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường
thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật
chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi,
và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần
phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy
chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.
2. Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và
các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh
thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ,
mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi
là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải
suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng
nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian
yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức
Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và
thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.
3. Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần
biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì,
ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy
đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em
bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để
chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh
nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ,
muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận
tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ
cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời
khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được
nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương
và sống cho nhau.