Các bài suy niệm Lời Chúa
LỄ GIÁNG SINH
LỄ GIÁNG SINH
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
MỤC LỤC
SUY NIỆM
1. Con
người - Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng
ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta
càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm
nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người
mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi
vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu hiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là
yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con
người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính
chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi,
Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể.
Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực
tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống
chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con
người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy
lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con
người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh,
chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh
phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ
ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho
chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và
cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo
túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh
mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau
tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã
hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi
chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ
ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người
đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
2. Vì Ngài
Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính
và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta.
Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ
và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng
ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm
cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên:
“Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” – “Thật mừng
là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống
như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng
ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối
nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: “Lạy Chúa
Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối
nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến
nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút.
Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta
quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp
Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm:
“Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ”.
Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm
hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn tuyệt vời”,
Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”. Ngài sẽ là
“một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia
đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng
thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi,
làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một
người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay
đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở
nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc,
quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các
bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ
cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ
Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh
của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên
Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu
sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác
trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi
một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho
chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài
kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh
trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng,
đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh
chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự
mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường
là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có
thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để
cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của
chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi,
bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi
mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở với chúng
con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.
3. Đừng
thờ lầm - Ga 1, 1-18
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận
thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm
Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng
trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm
Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên
Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ
thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng
mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ
và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn
lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi,
Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ
Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương.
Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho
chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa.
Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ
muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những
diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn
quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào.
Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân
xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn
tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy
Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là
Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn
vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình
nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng
ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên
Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo
thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư
và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự
thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân
loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con
người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân
lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản
hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh
sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường
tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh
sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng
(khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn,
và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho
y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp
nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người
ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn
giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết
hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
4. Ngôi
Lời là ánh sáng thật
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ
là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra
bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha.
Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không
lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã
cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang
súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút
quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi
thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban
bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên
giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên
trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng
chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng
tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở
trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong
dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước
thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức
Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn
nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng
tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có
làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang
sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần
Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với
con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự
bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống
như con.
5. Vinh
danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của
các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao
gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa
với con người.
Tại sao ““Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền
với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu
thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người.
Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu
thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người
phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia
đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa
tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh
miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một
con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến
Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho
tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy
biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta
hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh
nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh
làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh
ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp
đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh
phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ
con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn,
cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta
làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa
xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được
kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được
Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay
khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng
tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả
của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa
yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ
Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ
Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà
tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu
bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy
những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi
chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở
quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng
lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt,
nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh
chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người
Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa
với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta
thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng
đón Chúa đến?
6. Đêm Ánh
Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐÊM ÁNH SÁNG
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng
của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm
thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp
lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh
sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi
Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi
đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể
so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì
nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên
chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con
người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu
thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy
bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng
đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp
người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm
nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là
những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm
trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức
Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón
nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ
Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận
được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem
chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu
toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua.
Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh
sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng
cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới.
Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa
âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời
tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt
mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ
triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ
trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu
hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới
khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính
trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn
đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh
sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về
Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh
sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần
chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem
ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho
ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón
nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian
được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”.
Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không
nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói
ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài
xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là
Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe
được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý,
nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu.
Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được
tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới
nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo
tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm
bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi
đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật
chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay,
tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói
mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng
liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn
đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình
yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa
Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị
làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không
gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ
nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu
im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của
Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu
Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước
khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc
thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm
được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên
Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua
đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều
gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này
các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ
diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người.
Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói
khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ.
Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim
để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen
ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng
tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để
đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi
trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời
tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu
trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn
cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa
khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn
có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
8. Noel:
Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy Thống
(Trích trong ‘NÚT VÒNG XOAY’ – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm
qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ
có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới
dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường
chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc
dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn
đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ
đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm
nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong
duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy
đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ
Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh
cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi
lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy
chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn
tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm
chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối
nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần
Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến
thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng
như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc
thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể
chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm
nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu
mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống
đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân
mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc
lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang
trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là
Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét.
Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân
loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được
xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong
hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống
thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra
trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh
khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên
đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa
sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ,
còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa.
Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người
là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà
hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến
trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi
sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra
Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn
nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người
giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời
với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã
không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng
chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy
cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để
chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp
bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có
lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ
trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự
nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư
đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao
duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu
độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là
một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân
loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các
thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người
thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa
làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một
sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên
Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại
cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào,
và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu.
Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong
báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một
cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn
quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng
với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn
hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế
mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự
sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay,
của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con
người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel.
Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ,
quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa
xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và
biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
9. Ngôi
Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang
cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã
góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ
em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con.
Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con
phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang
con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ
làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức
ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ
con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh
vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái
đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời
lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ
giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn
với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu,
với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không
nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm
người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả
hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước
đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ
một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất
cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không
tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa
những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc
dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài
đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không
ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt
kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất
tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ
cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một
huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người”
hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao!
Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng
ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho
Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm
Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa
đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy,
thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần
linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương
của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con
Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở
được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một
điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu
nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu
của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy.
Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự
muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc
sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc
sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh
sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức
thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và
gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở
giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được
Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn
mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà
cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những
người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình
thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên
Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm
con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua
chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh
sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
10. Suy
niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách
trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái
ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng
là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng
mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy
Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần,
như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc
của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai
ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra
nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ
quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ
đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp
Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương
trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu
Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục
đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích
thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên
Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như
Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó
là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới.
Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố
lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ
đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại
cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là
vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong
chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu
là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng
cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không
phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế
trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của
Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc
biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh
cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính
con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên
Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh
bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng
có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa
sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì
liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng
thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương,
chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu
tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn
và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel
là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những
hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của
cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì
thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn,
và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh
hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến
giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là
Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh
của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì
mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt
nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng
và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái
chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ
các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần,
mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời,
vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì
vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu,
mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên
Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ
ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được
là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của
Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ
đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay
lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một
lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban
xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn
vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời
loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức
Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên,
đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn
tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy
an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp
chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự
thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi
được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần
canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là
người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới
thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu
ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
11. Sứ
điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời
thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo
đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân
tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm
cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một
khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo
Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự
kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm
thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản
văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong
tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp
cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm
nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng
thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của
danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao
Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều
đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết
thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng
cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong
lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không
tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người;
Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn
chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người
không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự
hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người
đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người
tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế
họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc
thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem,
khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa
Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi
gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm
cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh
hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người
trong lời ngợi khen và tạ ơn.
12. Ánh
sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài
cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng
như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta
hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy
sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng
về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã
đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự
như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con
người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh
sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của
cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở
đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi
đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp
tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều
người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào
thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại.
Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng
Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa.
Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không
trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con
người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã
dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu
hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là
những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày
nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu
tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp
hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không
có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn
sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối
tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người
chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô
mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương
quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và
người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình
yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng
(lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người
Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế
gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của
tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái
Chúa.
13. Ngạc
nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số
các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con
người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ
một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này
cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên
của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa
đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa
Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà
không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to
và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống
trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng,
thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của
anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư
anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người
giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên
của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra
những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của
loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con
người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình
thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng
với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết
luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng
nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng,
mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm
đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời
riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã
trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn
và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên,
chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ
thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của
Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu
thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi
Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc
nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy,
chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may
mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng
cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người
biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều
là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá
máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên
Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về
lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào
ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ
súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của
Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho
phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống
Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã
diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín
tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý
nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc
đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai
có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận
gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là
trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa
biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội
lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của
ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất
ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải
tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như
thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong
Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và
rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép
mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu:
“Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc
mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của
nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải
qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình
của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm
cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng
Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp
về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự
vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều
hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như
một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng:
đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa
trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng
chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế
hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ:
vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa
xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn
trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình
nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng
là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới
khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với
một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca
nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào
đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của
nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của
Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân
ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng.
Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng
chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm
dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của
chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất
bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà
chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường
gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng
chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao
giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với
Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ
thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên
ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành
trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái
chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta.
Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường
định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên
Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa
sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là
khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài
trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim
chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một
trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình,
nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn
mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén
hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né
mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ
trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của
chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm
Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn
nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt
trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau
và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu
không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của
Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào
trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng
thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng
ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một
khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che
khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự
hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái
thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta
hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta
vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen
thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự
yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng
ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu
nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn
dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong
thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng
ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó
cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm
rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm
này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho
chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim
mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là
cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không
khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một
vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ
Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và
tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi
theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ
bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang
lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất
và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy
không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể
nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên
Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ
tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch
của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được
tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn
xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên
trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của
Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
15. Chúa
giáng trần (Ga 1, 1-18)
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên
Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa."
Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách
hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm
loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh
Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta
về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh
huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người
và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi
đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như
của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan
nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ,
Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp
rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm
sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước
Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy".
Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ
giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như
chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong
cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội.
Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới
đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ
của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian
nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ
não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của
mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những
tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm
dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với
chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài.
Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy
để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những
trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất
cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới.
Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban
cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ
chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần
Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ
ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối
diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm
cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở
khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No Vacancy).
Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ
trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn
định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải
chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng,
nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không
chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng
là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho
chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi
hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các
bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh
đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
16. NOEL:
Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông vua rất
kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất được dân
chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung
lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình của các
quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua
thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp
người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh
áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công
viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công
viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng
lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm
cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua
quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình là ai. Nhà
vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất
như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người
phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua
đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ
nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng
cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành
cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một
điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ
hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí giá
nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên
trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những vấn
đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc
buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn
của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt
cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi
Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ
cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì tình yêu cao
quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm
vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà
Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình
nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha.
Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên
Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập
Thể.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố
đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý
nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu
hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng
nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như một
người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và
âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được
bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô hữu năng
thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào
những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào
ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng
tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn
nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những người
đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp.
Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với những
nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu
hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta
như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng
trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông ban ân sủng
để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn
đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố
đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang
được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp đặc
biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công
việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy
cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở
nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu
hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc
Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài,
là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe
trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự
của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập
với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta.
Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót
và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao cũng
thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà con
Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
18. NOEL:
Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng
ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng
rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc,
trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính
lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm
ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng
tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì
quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng
tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày
cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung
quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò
cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc
biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm
tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui
thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó
gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế,
Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với
Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng
nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi
thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà
Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:”Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó
là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng
có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ
quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào
thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh
chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi
tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên
của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người
phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên,
tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong
muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn
cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội
cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn
hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn
lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng
Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là
sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện
chí.
19. NOEL:
Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ
giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng
bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn
mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui
xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ
Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như
dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu
mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt
của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già
thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ
Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình
như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho
Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ
Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già
đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như
tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài
nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà
già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài
nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời
trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới
được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể
đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến
đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa.
Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ
được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công
mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng
đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc
biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần
thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa
thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận
mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng
cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa
mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ
chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ
đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ
bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn
người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần,
một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu
thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành
công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía
Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ
để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người.
Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người
đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của
Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi
và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng
cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi,
con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là
khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo.
Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa,
coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến
cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững
luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với
Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá,
không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận
đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng
không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử
thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích
bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời
xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh.
Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư
hèn thành bất diệt.
20. Đêm An
Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng
Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và
chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như
thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải
thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực
vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn,
từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch
với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này
sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng
và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong
chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con
Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu
chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài
đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta
với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời
rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác
với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì
sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một
cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia
đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân
loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi
cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng
lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa,
thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau.
Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên
hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ
quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là
anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình
ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn,
anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì
chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với
những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con
người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự
nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những
phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo
tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất
trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu
đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ
hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta
chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng
cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha
thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi
nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã
đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
21. GIÁNG
SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình
yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của
Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài
là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn
chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân
loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới
là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được
cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư
ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”.
Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của
Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu
nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu
biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier
đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành
một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc
những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm
bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành
ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh
truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?”
Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời
một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc
quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó
đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với
nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã
đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới
thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những
hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình
nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết
chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy
xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài
phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là
câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa
thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội
dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài
người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý
của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một
cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt
hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
22. GIÁNG
SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả
nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính
của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy
bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa
Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô:
Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với
Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở
thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa
bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà
vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn
võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại
thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm
và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền
kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng
tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn
con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên
vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình
bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm
em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác
giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì
về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ
chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác
nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu
nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da
sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi
một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc
lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào
nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la
vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân
thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu
me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối
thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có
chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao
người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra
một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật
bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau.
Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau
khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được
lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập,
mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã
đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ
vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc
của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội
lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém
giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác
thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em
với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của
ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình
yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã
được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh
và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố
và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì
chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa
bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự
hận thù do ma quỉ mưu đồ.
23. Bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa
Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con
Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một
vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ
cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn
thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng
ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn
người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng:
“Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là
niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong
thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh
đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình
An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn
thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng
sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành
lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả
mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc
sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi
đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị
tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ
đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng;
nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường
có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì
không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay,
mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài
được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã
loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy
ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên
tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa
giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là
“ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu
sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn
có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
24. Chiêm
ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao
giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin
mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng
ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở
giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy
và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay
đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là
Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong
hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng
vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm
đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà
không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả
Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng
mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi
Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài
là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được
trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh
rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên
Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng
hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người
với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không
bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian
và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương,
chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu
ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng
như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có
đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở
nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu
nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và
mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên
Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi
trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống
trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột
thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết
bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì
đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và
giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không
thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng
không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng
Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho
đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo
khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm
ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày
sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng
sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm
ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình
là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
25. Suy
niệm của Lm. Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta
đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent
night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như
tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin
Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm
sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình:
tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một
niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh
trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào
Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại,
ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một
đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh
của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà
chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào,
một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và
anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh,
để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên
để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái
chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được
vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo,
một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng
ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn
sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên
từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành
trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy “ Vì
loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi
phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm
người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng
ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu
không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây
2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa
gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong
hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà
Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm
thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời”
toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng;
nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một
vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ
làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả
nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác.
Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến
để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương
Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ
dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng
vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không
có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là,
nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta
không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng
ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và
mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh
sao mặc khải của Thiên Chúa”.
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong
thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao
của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa
không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên
Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo
vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa
vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế
đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên
Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan
dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người
trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc
loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến
đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời
một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác:
Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ
đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm
chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng
Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch
sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách
trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý
nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là
dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta
được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên
Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm
nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã
làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài,
bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là
chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh
đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như
thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời
tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh
sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng
ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang
phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời
và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài
đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh
em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho
toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc
Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi
sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và
700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên,
cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã
loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng
về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã
chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng
Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng
quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang
lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị
trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu
Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm
liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen
lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh
tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối
Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ,
sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử
hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế
mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi
tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy,
chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ
với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có
lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của
Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những
giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và
Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học
thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy
nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được
công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất
chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một
dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em
trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh
phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra
như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược
đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền
lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình,
không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một
công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một
sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy
vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem
cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giê-su duy nhât chỉ là một định
nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa
trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp
nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng
lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu
nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên
Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng
Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho
câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi
trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định
bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem
vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem
vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố,
chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí
trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa
được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế
giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là
“Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm
vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và
tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn
kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế
làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của
Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời
chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương,
của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục,
khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để
nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc
hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi
chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị
đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã
được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa,
vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho
chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
26. Sức
mạnh - Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua
một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước
khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức tượng
một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong
những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một
năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như
thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo
dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một
cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng
lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật
đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh,
trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế
này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng
thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu
thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự
kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống
thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài
đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh,
nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia đình
nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta, cũng bơ
vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát… Cũng đã
bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã
nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế
giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất
đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng thiếu,
thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài
đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống với tư
tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm
thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả qua
một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo
sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì
đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người
đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở
về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn
hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu,
không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng
mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại
những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán…Tuy
nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh
đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người
chúng ta?
27. Chuẩn
bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là
nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận cho
những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn xem
bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được thích
ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển Cựu Ước.
Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện
thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết này được áp
dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao, những công
trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng
xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse
đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ
đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau biến
cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã
xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng
liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu phong phú
về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh
danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế đã được
thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh này bắt
nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng
ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ
lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác
động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh
danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để
gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ
ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá
ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng
lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết: Ta
loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân.
Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được
duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ
đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ
Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm
xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều
này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm
vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng
về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng
ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng
ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin
mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có
thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin
chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em.
Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời
sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi
loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu
hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi
định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng
thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi
chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý
thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác
ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có
vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động
của Chúa Cứu Thế chúng ta.
28. Thiên
Chúa làm người vì chúng ta – Noel Quesson
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia
đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà
thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi
nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn
ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa
dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ
làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho
lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào
kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không
hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự
nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an
toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người
rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế
Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc
sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài
học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa
trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim
sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy
chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến
ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn.
Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm
chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng
Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé
nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá.
Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ
tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em
bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng
bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó
nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và
ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên
Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây,
ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người
nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho
Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó
là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có
thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm
vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên
thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm
tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng
như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về
với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ
mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã
hội hôm nay.
29. NOEL:
Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy.
Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho
trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể
chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ.
Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng
Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức
Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu
đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với
Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong
quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em
bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé
nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có
nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng
Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ
em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được
không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong
máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo:
Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ
đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho
ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi
tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh
giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy
trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ
trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách
nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách biệt
quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia
đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó!
Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn
ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm!
Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm
những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn
người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
30. Vinh
danh
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người
Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều
nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho
tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần
trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các
thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa,
còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh
Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ
vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải
làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm
ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta
và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục
vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu
chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số
hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục
vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì
chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội
và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần
làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”
thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an,
chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an,
nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải
là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay
thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch,
như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn
nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn
sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có
được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta
hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người
không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an
giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là
những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách
Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy
dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được
gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất
an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy,
thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng
tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn
chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực
sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi
tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và
lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không?
Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né?
Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến
tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ
nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp
danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con
voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người
lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không
nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện
giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho
mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài
Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là
con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên
Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ
như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chung con biết
từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã
chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi
niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia
đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu
thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
31. Ai
thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh
trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá:
người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên
vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra
khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc
bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có
đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người
biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì
băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm
tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của
thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ
cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều
người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh danh
Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay có
bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện tâm"
là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa
để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh?
Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày
Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ.
Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở
mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết
bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố
Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại
không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai
ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả
thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm
Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại
lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm"
không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng
sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát
đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi
nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội
giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ
có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những
người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái
choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua
xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao
động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí
lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời
vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc
như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm
đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên
Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ
kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên
Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ
dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ
Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác
lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo,
cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ
này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa
cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những
người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên
trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
32. Lễ
Giáng Sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp
đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn
sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan
phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ
và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không
tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ,
nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của
Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết
trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ
chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho
con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang
trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con
mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên
người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung
vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ
của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ
nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và
Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với
Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết
mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không
tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!?
Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ
rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không?
Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững
hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn
cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể
từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa
nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử
với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt
mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang
sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại
nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị
cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ
kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức
hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ
đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và
nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem
vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản
đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150
cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc
chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày
phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành
trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của
Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi
người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa
sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính
coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và
sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia
đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét
và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia
đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế,
nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của
Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc
nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy
sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài
sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang
hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau
khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay
chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài
trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được
hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau
khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận!
Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải
đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh
quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc
cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau
khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh
phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000?
Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người
Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức
Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã
ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân
loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và
vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì
việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc
đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi
lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên
Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không
có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu
đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự
nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào
tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón
nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương
đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh
quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau
khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh
theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là
«người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn
sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói
với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con
người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho
anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây
giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống
theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời
đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất.
Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau
khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là
Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh
của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau
khổ»!
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí
giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm
viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng
mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc
thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững
lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày
con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo
theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm
cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương
mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng
tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó
là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập
thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng
thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch
cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ
quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa
đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy
ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy
vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con
đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống
với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa
mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan
viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất
Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng
cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như
chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những
người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con
người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với
chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà
tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta
muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa
Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
34. Món
quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa
con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói,
thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể
hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa
của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế
giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng
thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp
thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa
lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov,
cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha
và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên
Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá
là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội:
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh:
Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái
gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy
trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa
trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp
dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo
một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng
hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã
tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương
để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương
Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có
tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng
tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong
cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống
trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa
lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng
thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật
là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống
vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng
ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của
Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu
chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan
Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy
cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có
thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết
đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa,
hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi
chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá,
chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con
biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy
chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh
chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho
những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh
của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm
vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
35. Giáng
Sinh: Ánh sáng
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người
thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một
ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp từng chiếc đèn này qua chiếc đèn khác
dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ
nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đằng sau
mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sưc thâm thúy :
“Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ
nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi
qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới
của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao
hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng
ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân
lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết : “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến
thế gian và chiếu soi mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn.
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ
trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi
lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy mà, con người tội lỗi chưa kịp lên tận
trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích
thân xuống với con người, để tha thứ, để cứu chuộc và yêu thương họ hơn cả
trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con
người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những
điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn
đời”. Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn
đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia :
“Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống
trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê
lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu
thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu
tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên
Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi
xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết : “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ;
nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với
con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện
diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần
linh.
Anh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa
tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng
trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán : “Tôi là ánh sáng thế gian, ai
theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự
sống”.
Mừng lễ Giáng sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng
huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng
mọi người.
Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho ánh
sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người
đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì
“ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ
làm khỏi bị chê trách”.
36. Bài
giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
(Lc 2,1-14)
HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ
ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
***
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo
Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan
báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây
2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một
khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên
trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng
ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong
đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ
ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta".
Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang
dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Ðây là Giáng Sinh của đại
năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh
hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày
hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến
cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa
chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc
phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Ðấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã
thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng,
những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời
gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm nay chúng
ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm
trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Ðức Nữ
Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Ðấng là
sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu,
khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ
Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống
con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết
đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ
đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là
mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành
hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi
được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất
được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi
lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn
cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long
trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô
tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt
sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung
Ðông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi
từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa
với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các
mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi
người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như
không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm
nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh
cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là
Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh ra, Ðấng có
sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một
chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa
tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này
cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái
trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự
nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại
Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa,
của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống
giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần
của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự
dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa
Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu
sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường
hòa bình.
Ðức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì
chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn
đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
(Bài giảng Lễ Giáng Sinh của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II)
37.
"Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm
bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang
sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng
rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa
Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc
thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường
giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn,
những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: "Hỡi
những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành
sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy,
ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài đã đồng
hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau,
biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận
lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị
loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của
con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng
Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ
lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung.
Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai
đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho
nhau. Ðôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ
hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh,
có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu:
"Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm,
anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình
an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi
đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra
chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa
của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với
khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy
chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Ðối với hắn, dường như mọi
thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi
đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ
cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những
ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại
bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn trả thù
đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ
của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm
lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi
đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với
nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta
yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân.
Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình.
Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của
bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm
của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng
năm xưa.
Nguyện xin Ðấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương
cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha
của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi
người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Ðấng Emmanuel ở cùng chúng ta
để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và
chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
38. Bài
thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh
(Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa
có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm
nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng
sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành
cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự
thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm
nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã
sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi
Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể"
nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta.
Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi
chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch
ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những
lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở
miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong
thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba
mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành
nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế?
Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói
với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc
sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với
chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân
thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói
với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả
nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người
sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được
đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều
là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với
chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua
những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của
Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại,
giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa
Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống
trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của
Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu
nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân
loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành
trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh
ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho
Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ
Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta
phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ
Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người
anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh
em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất
hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống
chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp
tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để
mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở
thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
CHÚ GIẢI
1. Chú
giải của William Barclay
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (Lc 2, 1-7)
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm
hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ
quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở
xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số,
chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai
Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực
hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc
kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát
hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới
lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần.
Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu
chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã
diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca
đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6
TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến 7TCN, và
việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình
thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình để đăng ký
không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau:
“Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm
sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện
đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh
kiểm tra dân số theo quy định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng
mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê
là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ
tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân
Ước.
Con đường từ Nagiarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho
khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương đông thời bấy giờ giống như từng dãy
chuồng ngựa có cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu thức ăn cho
mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có
đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria
đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên
người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn băng dài chung quanh mình
nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một
chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho những
gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài
tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm
được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc 2, 8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết bao lời báo tin
đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới
mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ
trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa
tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới
chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là
những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục
đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên không tì vết
làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì
vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ, và
các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm
mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý
nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người
đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc sĩ
địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã
sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật
vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên trời thay thế các ca sĩ dưới đất và các
thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ
trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn
sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu
Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh
thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triều thần lo ngại vì ông
hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế
vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết
nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc
đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường”.
2. Chú
giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai
khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria,
Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ
nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần
khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc
tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa
Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu,
cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha
mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về
phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa
khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi
loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời
kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất
cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN,
lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc
1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài
khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ
làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng
sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã
để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái
cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn
luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh
ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng
Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn
của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca
1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính
là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ
sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều
ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý
nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy
hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà
phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho
việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao
những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một
liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc
vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện
ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng
xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud
Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử
và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp
bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc
đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng
đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho
những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel);
con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn
với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những
trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn
nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc
đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn:
Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô
Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba
tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu
cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi
với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của
Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục
tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các
người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều
đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài
Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một
đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không
có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu
chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây
thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu
chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên
sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn
gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua
việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và
thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện
tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ
trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ
Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như
ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn
thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20):
phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng
là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan
báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên
– như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20
còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của
các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức
Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương
2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng
tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan
báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước
hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong
lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của
ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì;
cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối
tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như
vậy.
3. Chú
giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn
làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy
- nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng
cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra
lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm:
"ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius
Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có
cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập
đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu
sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy
hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của
Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ.
Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng
vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan
trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " (
cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào
mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ
gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra
đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang
dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau,
những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của
thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp
với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin,
chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất
lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân
mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh
chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên
được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ" (Lc
1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4,
18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với
họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ
là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui
cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi
Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ",
"Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống
động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng
Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng
đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và
của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ
sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng
Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới.
R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng
Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại
nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau
này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho
mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi
thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền
năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu
từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được
diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới
đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên
trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng
trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ
nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang,
sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu
độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con
người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể
ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục
tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới
sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã
thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình
bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr.
6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời
César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú
ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng
ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện
này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó
diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định
nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những
gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế
cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả
những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã
đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối
với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn
cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách
này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện
ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của
Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi
muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một
sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta,
thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa
trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải
hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức
Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của
tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã
nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ
điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều
nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng:
một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng
phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một
người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên
kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên
Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi
khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên
Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên
niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng
Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử
thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế
gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân
loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta
nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội,
trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong
sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000", Documents
" épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô,
Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến
cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít
giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa
tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng)
đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng
Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng
đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc
mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các
đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của
mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản
nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng
như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi
Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân
thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò
của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự
Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu
việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân
Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn
Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở
với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11)
rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung
lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992,
trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống
trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây
phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như
điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối
hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt
của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa"
(danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa
thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người:
"Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành
do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành,
và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự
sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã
sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh
Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của
Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người
cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và
siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa,
giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan,
con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến,
và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông
hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải
chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để
làm chứng về ánh sáng”.
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và
chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ
trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng
lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời
hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân
ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở
nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh
hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người
cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ
ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của
Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc,
thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi
Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác
Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người"
trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy
vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải
Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn
là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ
cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi
Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi
cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng
giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa
mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến
trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên
Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh
em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà
Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy"
(14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa
là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn
một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua
một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một
tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và
thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng
Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã
trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng
của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy
Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng
bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật,
và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng
không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô,
Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa.
Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không
loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng
những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý
mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị
khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên
hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa
đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét
l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng
nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh
lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng
về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ,
và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu
chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ
biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất
chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên
Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu,
Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và
sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng
có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày
đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch
bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng
chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế
gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”.
Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã
đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian
không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng
cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh
sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng
ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người
không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi
trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa
mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và
hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi
đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội.
Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh
quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho
Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do
áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón
nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con
Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó
họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những
người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận
biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại
trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của
mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh
sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược
("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người
ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ
người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối
tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo
dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân
loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và
sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình:
được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng,
Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan
được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở
trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người
sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã
có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt
định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với
Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối
cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng
đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu
tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc
thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên
trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm
nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải,
chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự
sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản
được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn
gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược
nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất
vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa
cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự
kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành
phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao
ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang
khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi
người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
4. Chú
giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta
hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ
ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình
thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin
Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân
số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30
trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện
phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos",
có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một
ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản
rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn
mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô
làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị
của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm
tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị
thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng...
để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn
khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông
Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu
bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào).
Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng
ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho
chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch
hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy
đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của
Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm
Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion
phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những
người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của
Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều
người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang,
mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa
nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào
trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu
qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp
nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về
một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không
màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp
với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập
để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì
cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có
thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy
đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh
Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và
Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô
lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của
mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có
khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng
tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết
chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang
mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai
hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với
những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như
bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn
sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh
Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái
mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong
manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ
cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ
mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà
phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng
để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện
không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ
trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó,
Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta
đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta
được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên
Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò
lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng!
Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của
Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên
lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải
cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa.
Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu
trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời
canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như
thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự
những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho
những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ
được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những
tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm
chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để
tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội
đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn
trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ
cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu
tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người
"nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một
trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa
bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà
thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả
thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà
thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng
trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong
toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên
Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang
này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất,
tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm
kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng
sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn
dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của
Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy
lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền
đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề
tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi
người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít,
Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ
rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy
chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của
Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin
Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé
nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh
quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một
mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài
nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ
vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa
tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một
trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó
là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến
trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn
nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”!
Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan
thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21) .
Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen
Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá
(Lc 19,38).