THỨ 5 SAU CHÚA NHẬT
31 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: Rm 14,7-12
7 Thưa anh em, không
ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. 8
Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù
sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa;9 vì Đức Ki-tô đã chết và
sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. 10 Thế mà
bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh
em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa,11 vì
có lời chép rằng: Đức Chúa phán: Ta lấy sự sống Ta mà thề: mọi người sẽ quỳ gối
lạy Ta, và mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Thiên Chúa. 12 Như vậy, mỗi
người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26
Đ. Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc
Chúa ban,
trong cõi đất dành cho kẻ sống. (c 13)
trong cõi đất dành cho kẻ sống. (c 13)
1 Chúa là nguồn ánh
sáng và ơn cứu độ của tôi,tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời
tôi, tôi khiếp gì ai nữa?
4 Một điều tôi kiếm tôi
xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm
ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.
13 Tôi vững vàng tin
tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 14
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Mt 11,28
Hall-Hall: Chúa nói: Tất cả những ai
đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Hall.
TIN MỪNG: Lc 15,1-10
1 Các người thu thuế
và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2
Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón
tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”3 Đức Giê-su mới kể cho họ
dụ ngôn này:
4 "Người nào
trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi
chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5
Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy
mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm
được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7Vậy, tôi nói cho các
ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám
hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
8 "Hoặc người phụ
nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn,
rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn
bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng
quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa
triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
TRONG TAY CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA
MỚI TUYỆT VỜI!
Ta biết
ơn cứu độ loài người Thiên Chúa thực hiện không chỉ dựa trên tình thương của Chúa
Giêsu, mà còn được tình thương của Mẹ Maria cộng tác với Chúa. Chân lý này Chúa
Giêsu đã diễn tả qua hai dụ ngôn: Chiên lạc trở về và người đàn bà có mười đồng
bị mất một phải tìm cho đủ.
1/
DỤ NGÔN TRĂM CON CHIÊN DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA MUỐN QUY TỤ MỌI NGƯỜI VÀO
HỘI THÁNH.
Nếu ta
cắt nghĩa dụ ngôn con chiên lạc theo nghĩa đen, thì thật là vô lý! Vì người
nuôi chiên, ai cũng mong vắt được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế
cao. Thế thì 99 con chiên không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại
sao chủ không vui mừng khi 99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở
về, liệu nó có đem lại nhiều lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không?!
Bởi đó,
muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá trị của dụ ngôn chiên lạc, ta phải biết số 100 mang ý nghĩa được Thiên Chúa chúc
phúc. Nên ngôn sứ Isaia nói: “Ai chưa
tròn 100 tuổi mà chết là dấu bị nguyền rủa” (Is 65,20).
Thế thì
Chúa Giêsu hữu ý chọn 12 môn đệ làm nên Israel Mới (x Lc 6,12-13), đây là dân
được Chúa chúc phúc, nhưng cuối cùng chỉ còn 11, vì Giuđa đã tự tử (x Cv 1,18).
Nên sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã chọn kẻ lạc đạo là Saulô
vào hàng môn đệ, để bù vào những thiếu sót trong đoàn môn đệ của Ngài.
Thực vậy,
khi chiên lạc Saulô trở về ràn, ông đã không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng
(x 2Cr 11,5), xét về lượng cũng như về phẩm:
·
Về lượng: Nếu ta gạch bỏ hết
những lời ông Phaolô nói trong Tân Ước, thì cuốn Kinh Thánh Tân Ước chẳng còn
được bao nhiêu! Và một mình ông Phaolô thành lập được nhiều giáo đoàn như
Côrinthô, Galat, Êphêsô, Philiphê, Côlôsê, Thêsalônikê. Nếu ông Phaolô không
trở về, thì có lẽ đạo Chúa đã bị ông khai tử từ lúc ông hằm hừ thở ra mùi sát
khí, lãnh trát các thượng tế, xông tới Đamas triệt hạ hết những ai tin vào Đức
Giêsu, và hôm nay thế giới chưa ai được biết Chúa!? (x Cv 9)
·
Về phẩm: Giáo lý của thánh
Phaolô giảng dạy về Đức Giêsu vô cùng phong phú và sâu sắc. Đến nỗi có nhiều
người cho là Đức Giêsu không lập Hội Thánh Công Giáo, mà là thánh Phaolô! Và
như vậy, chúng ta biết thánh Phaolô không đơn phương độc mã trở về với Chúa, mà
ông còn trở thành chiên đầu đàn dẫn
cả dân ngoại, trước đây không thuộc về đàn chiên của Đức Giêsu, nay được ở
trong chuồng chiên, chính là Hội Thánh, dưới sự chăm sóc, dẫn dắt của Mục Tử
Giêsu! Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với ông Timôthê, môn đệ ông rằng: “Đức Giêsu bước vào trần gian để cứu những
người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất!” (1Tm 1,15) Người thứ
nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức
Giêsu cho tất cả mọi người. Hiểu như thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của
Đức Giêsu : “Khi người tội lỗi ăn năn sám
hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì niềm vui mừng!” (Lc 15,7a). Thế
thì:
-
Trong gia đình, người bố
là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30,4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết, vì ông đã để lại con cái
giống hệt ông!”
-
Trong một giáo xứ: Cha Sở
là chiên đầu đàn. Thánh Gioan
Maria Vianey nói: “Linh mục thánh thiện,
thì giáo dân đạo đức; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường; Linh mục tầm
thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì giáo dân còn
độc ác hơn quỷ vương Beelzebul!! Vì cha Sở chịu trách nhiệm với giáo dân trong
xứ. Thế thì các Đức Giám mục là chiên đầu đàn, phải chịu trách nhiệm với các
Linh mục trong địa phận: “Giám mục thánh
thiện, Linh mục đạo đức, Giám mục đạo đức, Linh mục tầm thường, Giám mục tầm
thường, Linh mục ra quỷ!” Quỷ đội lốt Linh mục thì giết Thân Thể Mầu Nhiệm
Chúa Giêsu, như xưa quỷ đội lốt đầu mục Do Thái đã giết Con Thiên Chúa! Thánh
Augustin nói: “Làm Giám mục cho anh em,
tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục chỉ là một
chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín
hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!” (x HCHT số 32).
Chính vì
vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau lời Truyền Phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho
Giám mục Thủ lãnh (Giáo hoàng), và Giám mục Địa phận, vì các vị này mới là
người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên. Như thế các vị này được nhận
nhiều ơn nhất, thì phải trả lẽ trước mặt Chúa nhiều, đúng như Lời Kinh Thánh
nói: “Mỗi người trong chúng ta sẽ phải
trả lẽ vì chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14,12: Bài đọc năm lẻ).
Bởi vì
mỗi Giáo phận là một Hội Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của
Đức Giêsu, là thầy dạy Đức Tin. Nên việc canh tân sống Đạo của mọi thành phần
trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc vào Giám mục thủ lãnh Địa phận. Do đó nếu có
giáo dân hay Linh mục nào giống thánh Phaolô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”,
làm nhức đầu người khác! Nhưng nếu Giám mục là một Phaolô mới, thì sẽ làm bốc
lên sức sống Đạo của dân Chúa trong Địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn
hải đăng soi dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giêsu! Thực là buồn cho Hội
Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục Phaolô mà thôi!
Vì sứ
mệnh chính của Giám mục là thầy dạy Đức Tin, do đó giáo huấn của Công Đồng Vat.
II trong Hiến Chế Hội Thánh số 25 dạy: “Việc
rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi
vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám mục, Giám mục là những người rao
truyền Đức Tin, đem nhiều môn đệ mới về cho Chúa Kitô. Giám mục là những tiến
sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Kitô, giảng dạy cho những kẻ được
trao phó cho các ngài.” Đối với các Linh mục, Giáo Luật số 773 và 776 đã
buộc: “Cha Sở phải lo huấn luyện Giáo Lý cho
người lớn, thanh niên và trẻ em. Cha Sở phải cổ võ và thúc đẩy cha mẹ chu toàn
bổn phận dạy Giáo Lý trong gia đình. Đây là nhiệm vụ riêng biệt và nặng nề
trong việc dạy Giáo Lý cho dân Chúa.”
Qua lời
giáo huấn trên, ước gì hàng giáo sĩ làm đúng nhiệm vụ ngôn sứ Hội Thánh đã
truyền là, bài giảng phải liên kết các Bài đọc Hội Thánh đã chọn trong Phụng
Vụ, từ đó trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những quy tắc cho đời sống Kitô
hữu (x HCPV số 24 + 52); cũng như bài giáo huấn của chủ chăn phải đặt trên năm
nền tảng: “Kinh Thánh , Thánh Truyền, Phụng Vụ, Giáo Huấn của các Công Đồng cũng
như Sách Giáo Lý của Hội Thánh công bố năm 1992, và Giáo Luật là những quy luật
sinh hoạt của Giáo Hội” (x Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục
trong Giáo Hội số 14). Nếu không dựa trên nguyên tắc này để giảng giải, thì sự
cố tháp Babel
thuở xưa lại tái diễn: Con cháu Noe phải tản đi khắp mọi nơi, bỏ dở công trình
xây tháp, vì mỗi người nói mỗi kiểu! (x St 11).
Giám mục
Phaolô đã trở thành mẫu cho các Giám mục khác, ông đã hiên ngang hãnh diện
trong Đức Kitô mà nói: “Tôi không dựa vào
xác thịt của mình, dù tôi là dòng dõi Israel, họ Benjamin, giữ Luật thì đúng
như một người Biệt phái, nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh. Nhưng những
gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn
nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết
Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi” (Pl 3,3-8: Bài đọc năm chẵn). Quả thật, “tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa nào hoan hỷ”
(Tv 105/104,3b: ĐC năm chẵn).
Như thế
các Giám mục phải là hiện thân Phaolô trở về canh tân đời sống Đức Tin của
mình, để trở thành chiên đầu đàn cho cộng đoàn dân Chúa đã được trao phó cho
các ngài dẫn dắt.
2/
DỤ NGÔN NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ 10 ĐỔNG BỊ MẤT 1 DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ MARIA.
Dụ ngôn
người đàn bà có 10 đồng bị mất 1 diễn tả tình thương của Mẹ Maria. Vì ta biết
số 10 mang ý nghĩa vẹn toàn, như Mười Điều Răn của Chúa, ám chỉ ai tuân giữ là
người hoàn hảo trong Chúa.
Chúng ta lại biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà,trong
đời hoạt động công khai của Ngài còn cần đến Mẹ Maria cộng tác, từ khởi sự (x
Ga 2) cho đến hoàn thành (x Ga 19; Cv 1,12-14). Trong lời kinh chúng ta hay cầu
nguyện: “Từ khởi sự cho đến hoàn thành
đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”; thì Đức Giêsu cũng cần có Mẹ Maria cộng tác: “Từ khởi sự cuộc đời rao giảng của tôi cho
đến lúc hoàn tất trên thập giá, tôi đều nhờ Mẹ cộng tác. Amen!” Đức Giêsu
là Thiên Chúa toàn năng còn cần có Mẹ Maria cộng tác, còn ta là ai mà không
chạy đến Mẹ xin bầu cử!?
Bởi thế Mẹ Maria có trách nhiệm làm cho công việc Con của Mẹ
được trở nên hoàn hảo, cụ thể Mẹ muốn môn đệ của Đức Giêsu phải vẹn toàn về
lượng cũng như về phẩm chất. Nhưng Mẹ luôn bị đặt vào tình trạng lo âu, vì
thiếu sự vẹn toàn nơi các ông:
·
Số môn đệ của Đức Giêsu phải là 12, thế mà bị mất Giuđa đã tự
tử, Mẹ đau đớn lắm.
·
Lúc Mẹ đứng dưới chân thập giá, Mẹ muốn đón nhận cả 11 môn đệ
còn lại cũng phải là con của Mẹ. Nhưng lúc ấy chỉ có Gioan được Đức Giêsu trao
cho Mẹ. Ông Gioan được vinh dự này vì ông đã can đảm vượt mọi sợ hãi, chứ không
như 10 môn đệ kia đã nhớ Lời Thầy nói: “Tôi
tớ không trọng hơn chủ, nếu người ta đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các
con” (Ga 15,20), nên họ đã bỏ chạy hết! Dụ ngôn người đàn bà có 10 đồng lạc
mất 1, đã làm bà lo lắng đi tìm kiếm, huống chi ở đồi Sọ, còn 11 môn đệ theo
Thầy Giêsu, lại trốn mất 10, thì làm cho Mẹ lo lắng biết mấy! (x Ga 19,25-27). Ngày
nay nhiều người Công Giáo bỏ dự Lễ hoặc không rước Lễ làm Mẹ Maria càng đau khổ
hơn nữa!
·
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đến với các môn đệ vào ngày Chúa
nhật (thời Hội Thánh sơ khai, Chúa nhật là ngày dâng Lễ), Ngài chỉ gặp có 10
môn đệ, thiếu ông Tôma, chắc chắn Mẹ không vui gì. Một tuần sau ông Tôma mới
trở về với cộng đoàn vào ngày Chúa nhật (dâng Lễ), thì làm cho Mẹ vui mừng biết
chừng nào (x Ga 20,19t), vui hơn bà kia có mười đồng lạc mất một mà tìm lại
được!
Đời người
Kitô hữu nhờ dự tiệc Thánh Thể mà vui như Tết, vui hơn dự tiệc cưới, bởi vì đời
sống Hội Thánh được ví như tiệc cưới (x Mt 22,1-14). Ta đừng lấy cớ chối từ như
những người đã được vua mời đến dự: Kẻ nói: “Tôi mới mua đất”; ông khác tâu:
“Tôi mới tậu bò”; còn anh nọ thì nói: “Tôi mới cưới vợ”, tất cả đều có lý do:
không có giờ đi dự tiệc của vua! (x Lc 14,15-24)
Thực ra tôi bảo không có giờ làm việc
này, chỉ có nghĩa là thời giờ tôi đã dành cho việc mà tự tôi cho là quan trọng.
Bởi đó, quan trọng việc gì thì có giờ cho việc ấy, nhất là việc mình yêu.
Ai yêu
bản thân mình, yêu đồng loại như Chúa dạy mới là yêu Chúa (x 1Ga 4,20), thì
phải bắt chước Mẹ Maria và các môn đệ có giờ cùng đi dự tiệc với Chúa Giêsu -
Tiệc Thánh Thể, để được đồng hành với Chúa Giêsu đi phục vụ đồng loại, khởi đi
từ tiệc cưới Cana.
Thế thì một Kitô hữu tôn thờ Chúa và kính yêu Mẹ, càng cần có Mẹ
ở bên, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn trao Mẹ Thánh Ngài cho ai can đảm vượt mọi rào
cản, cụ thể không sợ mất thời giờ đi dâng Lễ mỗi ngày. Mà ai có sở hữu được
thời giờ đâu? Vì “thời giờ là của Thiên Chúa” (lời công bố khi làm Phép Nến
trong đêm Phục Sinh). Rõ ràng thời giờ không thuộc quyền sở hữu của ai, mà
người ta lại sợ mất, một sự sợ hãi không tưởng, đến nỗi không vượt qua để đến
dâng Lễ với Chúa Giêsu, thì làm sao đón Mẹ Maria về nhà mình như Tông Đồ Gioan
được?!
Vậy qua dụ ngôn “Con Chiên Lạc Và Đồng Bạc Mất” đều tìm được, đã
diễn tả Chúa Giêsu và Mẹ Maria rất sung sướng khi thấy có thêm người gia nhập
Hội Thánh, cũng như vui mừng vì mọi Kitô hữu cùng hiệp dâng Thánh Lễ để được
Chúa Giêsu Phục Sinh làm Chủ, từ cảm nghĩ, lời nói đến việc làm, hầu xứng đáng
một cuộc sống làm con Thiên Chúa, con Đức Maria, như thánh Tông Đồ nói: “Không ai được sống cho chính mình, cũng
không ai được chết cho chính mình. Dù sống, dù chết, ta đều thuộc về Chúa. Nếu
ta không sống như thế thì ta sẽ phải trả lẽ về chính mình trước mặt Thiên Chúa”
(Rm 14,7-12: Bài đọc năm lẻ). Bởi thế “tôi
vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ
sống” (Tv 27/26,13: ĐC năm lẻ).
Bà cố của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời sớm, lúc ấy cậu
Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở!
Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con
đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì
người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ ngày
ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là
lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng
(Gioan Phaolô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi
lãnh vực. Ngài thành công như vậy là đã sống như thánh Gioan Tông Đồ: “đưa
Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).
Một chú bé nghèo khổ, quần áo tả tơi, không
biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đến một khu phố nghèo nàn ở Ba-lê
(Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già Bou-in, sống bằng
nghề viết thư mướn.
Chú
bé vào nhà lễ phép cúi đầu chào ông cụ. Ông già hỏi:
-
Cháu muốn gì? Chú vội
thưa:
-
Cháu muốn viết một
bức thư. Ông già ra giá ngay:
-
Đưa đây 10 xu. Chú bé ngập ngừng rồi
thưa lại:
-
Xin lỗi cụ, cháu
không có tiền.
Nói xong chú thất thểu đi ra, ông già ngó theo thương hại, kêu
chú trở lại:
-
Này, mày không có đến
10 xu sao? Mày là con ai? Chú bé từ tốn đáp:
-
Dạ cháu là con má
cháu. Ông già nói:
-
Vậy là ta hiểu rồi,
cháu không có 10 xu, má cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ
đói phải không? Chú bé gật đầu. Ông già nói tiếp:
-
Được rồi vào đây ông
viết giúp cho.
Ông Bou-in nghĩ thầm: Mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít
mực, ít giấy thì cũng chẳng ra nghèo. Ông liền lấy bút giấy ra viết: Ba-lê,
ngày… tháng… năm… Kính thưa ông.” Rồi ông già đọc lại cho chú bé nghe và bảo
muốn xin gì thì nói để ông viết tiếp. Chú bé ấp úng:
-
Dạ không phải ông ạ! Ông già gạn hỏi:
-
Không phải ông thì
bà? Chú bé run run thưa lại:
-
Dạ cũng không phải bà.
Ông
Bou-in thấy bực mình nên cáu gắt nói:
-
Đã không biết ai để
gởi mà lại đòi viết thư. Chú bé lấy hết can đảm thưa lại:
-
Dạ, cháu muốn viết
thư cho Mẹ Maria. Ông già cười rộ rồi nghiêm nghị nói:
-
Mày chế nhạo lão gìa
này hả? Cút ra khỏi nhà tao ngay!
Chú bé
ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, ông già nhìn theo thấy tội nghiệp nên gọi chú trở
lại, quan sát kỹ chú bé một lúc, ông hỏi tiếp:
-
Tên cháu là gì?
-
Dạ tên cháu là Gioan.
-
Gioan gì nữa?
-
Dạ, Gioan thôi ạ.
-
Nhưng cháu muốn xin
gì cùng Đức Mẹ?
-
Dạ cháu muốn thưa với
Ngài là má cháu đã ngủ từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để trên ngực, người lạnh
ngắt, cháu không làm sao đánh thức má cháu dậy được!
Nghe đến
đó ông già hiểu ngay là mẹ em đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và nghĩ
thầm: mình chẳng thiếu của ăn, còn mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông già ôm
ghì lấy chú bé vào lòng, và ôn tồn nói:
-
Từ nay ông sẽ là ba
của cháu.
Vậy một
bức thư không được gởi đi, những đã có hiệu quả là cụ già biết thương người, và
Mẹ trên trời đã dùng cụ để chăm sóc cậu bé Gioan.
Cụ già
này đã thực thi lời thánh Tông Đồ dạy: “Không
ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Vậy
dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” Cụ già này đã không xét đoán cậu bé Gioan, cũng không khinh dể cậu.
Bởi vì mọi người sẽ phải trả lẽ trước Tòa Chúa (x Rm 14,7-10: Bài đọc năm lẻ).
Có sống
Đạo ít nhất noi gương cụ già này mới có thể nói: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất
dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
§
Chúa luôn gìn giữ tôi
chẳng khác gì con ngươi mắt Ngài (Dnl 32,10).
§
Dầu cha mẹ có bỏ con
đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con (Tv 27/26,10).
Lm GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH