Các bài suy niệm
LỄ CHÚA KITÔ VUA - B
LỄ CHÚA KITÔ VUA - B
MỤC LỤC
25. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
26. Lễ Chúa
Giêsu Vua Vũ Trụ Catholic.org.tw
27. Đức Giêsu là
Vua Lm
Carolo Hồ Bạc Xái
28. Lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua Lm Giuse Đinh lập Liễm
29. Đức Kitô -
Vua niềm tin Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
30. Vua khiêm
nhường và phục vụ Lm.
Phêrô Lê văn Chính
1. Kitô Vua
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta ghi nhận một cuộc hỏi
cung kỳ lạ trong đó bị cáo lại đặt vấn đề với quan toà và hướng dẫn cả cuộc
tranh luận về tước hiệu Vua dân Do Thái.
Thực vậy, Chúa Giêsu biết rằng chính dân Do Thái đã tố cáo Người
xưng mình là vua. Nếu không có lời tố cáo này, Philatô chẳng bao giờ có ý bắt
và kết án Người. Và bây giờ, nếu ông có quan tâm thì cũng chỉ vì khía cạnh
chính trị của lời tố cáo này mà thôi, bởi vì ông đại diện cho hoàng đế Rôma,
cai trị đất nước Do Thái.
Nhưng Chúa Giêsu nói tiếp với quan tổng trấn rằng: Nước Người
không thuộc về thế gian này. Đối với người Do Thái cũng như đối với Philatô,
danh từ vua chỉ có một ý nghĩa duy nhất là một lãnh tụ chính trị, có vương
quốc, có thần dân với bộ máy cai trị và quân đội, để bảo vệ chủ quyền và an
ninh cho đất nước. Nếu Chúa là vua theo nghĩa này thì hẳn thần dân của Người đã
không để cho Người rơi vào tay họ. Chính họ cũng biết điều đó. Sau phép lạ bánh
hoá nhiều, Người đã từ chối ý định của họ là muốn tôn Người làm vua.
Chúa là Vua, nhưng Người không cạnh tranh với hoàng đế Rôma vì
nước Người không thuộc về thế gian này. Vương quốc của Người được thiết lập
ngay trong lễ Vượt qua, khi Người phó mình chịu chết để vâng phục thánh ý Chúa
Cha: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta. Đức Kitô
thi hành vương quyền của mình bằng cách kéo loài người khỏi sự chết để dẫn đưa
họ vào nhà Chúa Cha.
Điều nghịch lý là ở chỗ ngay trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô mới
xưng mình là vua và ngay khi bị treo trên thập giá Người mới chứng tỏ mình thật
sự là vua. Trong suốt cuộc xét xử, Philatô đã tỏ ra là một quan toà nghiêng
ngửa và yếu đuối. Ông ta biết Chúa Giêsu không có tội gì và muốn tìm cách tha
Người, nhưng ông lại sợ áp lực của người Do Thái: Nếu quan tha nó thì quan
không phải là bạn hữu của hoàng đế.
Thế thì nguy rồi, chức vụ của mình, gia sản của mình và ngay cả
mạng sống của mình cũng có thể tiêu ma. Thôi mặc kệ cho sự thật, mặc kệ cho bị
cáo phải tử hình. Ta lo cho ta trước đã. Đó là một con người không trung thực
và hèn nhát. Dù biết Chúa Giêsu không có tội muốn làm loạn, muốn xưng vương,
nhưng Philatô vẫn cứ treo bản án: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám đứng về phía của chân lý
của sự thật hay không? Chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh, những thiệt
thòi để cho Nước Chúa được trị đến hay không?
2. Kitô Vua
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra
xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì
ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên
án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis
16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis
16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước
tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần
gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi
bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố
công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng
cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài
là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu
nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị
nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế
nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là
vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế
gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế
gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại
không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước
Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan
lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt
đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự
hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên
Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước
hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu
thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương,
nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình
và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài
năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác
ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế
giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi
hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở
thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý
do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm
mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi,
mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu
và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.
3. Vua tình yêu.
Ngày nay, người ta thường gán chức vua cho những ai thành công
trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là vua xe máy, vì ông rất
thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa bền lại vừa đẹp. Ông
Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua sân cỏ. Còn Đức Kitô,
khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua nào? Để trả lời cho
câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ lầm lẫn: Ngài
là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh vực yêu thương
phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương như Ngài. Vì yêu thương,
Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi. Cái chết của Ngài là một
bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của tình yêu như lời Ngài nói:
Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Vì yêu thương, Ngài đã
tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở
nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn vâng lời cho đến
chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như người mục tử hy sinh tính
mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của chúng ta nên không nghiêm
khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài
nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và rộng rãi với người khác.
Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy yêu thương kẻ thù và tha
thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi chúng ta phục vụ, vì thế
Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để phụv vụ và hiến mạng sống
mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn chúng ta noi gương bắt chước
Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương không chỉ là một lời khuyên tuỳ ý,
nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban bố giới luật yêu
thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.
Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất như là lòng kính
mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở nên nguồn cảm hứng vô tận
cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu phong trào, bao
nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta thử thưởng tượng xem:
Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người, những phong trào, những tổ
chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang được cả thế giới ngưỡng mộ,
tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã noi gương Đức Kitô và thực
hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho những người nghèo khổ và bất
hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại, không có một nhân vật nào
giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ lùng vì mặc dù là Đấng Tối
Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ chúng ta. Và còn lạ lùng hơn
nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại muốn cần đến chúng ta và tình
yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài
lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ mong chúng ta tiếp nhận Ngài
qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
4. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu - Lm Hồng
Phúc
Hình ảnh Chúa Giêsu phác hoạ về ngày phán xét thế giới trong Tin
Mừng hôm nay cho thấy tính nghiêm trọng trong ngày xử án của vị vua vũ trụ. Đó
là ngày tách chiên ra khỏi dê, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, tách sự sống ra
khỏi sự chết.
Quan trọng như thế mà tất cả cán cân công lý của ngày phán xét
chỉ dựa trên có một điều luật duy nhất. Lạ lùng hơn nữa là chính cả chiên lẫn dê
đều sửng sốt không biết mình đã thi hành hay không thi hành điều luật ấy khi
nào. Đến nỗi vua vũ trụ phải giải thích "Điều gì các ngươi đã làm cho một
người anh em nhỏ nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta" (Mt 25, 40)
Điều luật đó chính là Đức Ái.
Nhưng tại sao vua vũ trụ lại chỉ sử dụng có một khuôn vàng thước
ngọc duy nhất ấy? Là vì động lực thúc bách Thiên Chúa tạo dựng trời đất cũng
xuất phát duy nhất bởi tình yêu. Đã xuất phát điểm bởi tình yêu thì chung cuộc
cũng trở về duy nhất bởi tình yêu. Ta nhận ra dung mạo của vị vua vũ trụ trong
một chân dung được khắc hoạ là vị vua tình yêu!
Không ai khác, đó chính là "Giêsu Nazareth - vua Do
Thái."
Danh hiệu này bằng chữ viết, dưới danh nghĩa một bản án do
Philatô cho đóng phía trên đầu Đức Giêsu. Người Do Thái đã tẩy chay danh hiệu
trên vì họ không chấp nhận một bản án tố cáo tội họ đóng đinh giết vua của
mình. Họ đề nghị công thức: "Người này xưng mình..." nhưng Philatô
đâu có tự ý, chính ông đã hỏi Chúa Giêsu "Ông là Vua ư?" và Đức Giêsu
đã xác nhận "Ông nói đúng tôi là Vua" (Mt 27,11) thế nên Philatô đã
đanh thép như chính Đức Giêsu đã xác nhận để khẳng khái trả lời cho người Do
Thái rằng: "Điều ta đã viết là viết" (Ga 19,22)
Với những sự kiện trên, chứng tỏ người Do Thái đã bị tước bỏ mọi
quyền chọn lựa. Không phải họ phủ nhận mà bản án không có giá trị, ngược lại dù
họ đã từng muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua vì lý do duy vật chất, sau khi
được chứng kiến Chúa làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, thì Chúa cũng đã bỏ họ để
lên núi một mình (x. Ga 6, 5-27)
Đặc quyền bị tước bỏ là do sự suy thoái của chính họ. Dân tộc Do
Thái là một dân được chính Yavê Thiên Chúa tuyển chọn. Họ cũng chọn chính Yavê
là Vua độc tôn duy nhất. Vậy mà sau những năm sống trong sa mạc hoang vắng, tâm
hồn của họ cũng cằn cỗi dần theo. Sự kiện đòi thiết lập vua trên dân Israel đời
tiên tri Samuel, là một biểu hiện khai mào cho tình trạng suy thoái xa rời tối
thượng quyền của Thiên Chúa, sự suy thoái sẽ trượt dốc từ Saul qua các triều
đại kế tiếp và cao trào suy thoái là vào chính thời Đức Giêsu, khi mà một Dân
riêng được Thiên Chúa tuyển chọn lại không một chút nhục nhã lớn tiếng tuyên bố
với Philatô, kẻ trị vì trên tự do của họ rằng, "Chúng tôi chỉ có một vua
là vua Xêda mà thôi" (Ga 19, 15)
Khước từ vua tình yêu, họ chỉ còn vua chính trị. Cách tuyên bố
của họ vì chính trị, để khai trừ Đức Giêsu Nazareth mà họ thù ghét hơn, nhưng
chính vì thế mà bản án Philatô viết cũng chính trị và họ phải lãnh nhận hậu quả
cũng chính trị!
Bản án trở thành bản tố cáo thái độ thù ghét của thế hệ Do Thái
quá khích cực đoan nhưng diễn tả một tình yêu lớn nhất của người dám chết cho
người mình yêu.
Mới đây, tôi đã giải thích ý nghĩa tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn
cho một nhà văn quân đội khi ông về thăm Nhà thờ chính toà Phát Diệm:
"Quan niệm Phật giáo muốn mưu cầu hạnh phúc chúng sinh phải tránh tham,
sân, si và diệt dục. Còn Công giáo thì khác, Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa,
không tránh mà còn nhập thể vào thân xác tham, sân, si của con người. Sau tham,
sân, si là cái chết của chính Ngài, sau cái chết của Ngài là tình yêu lớn nhất:
chết cho người mình yêu."
Mọi thách đố, chướng ngại không thể trở thành rào cản. Đức Giêsu
tuyên bố: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật,
ai hâm mộ sự thật thì nghe tôi" (Ga 18,37)
"Khi những người được mời không xứng đáng thì những kẻ qua
đường được mời vào đầy phòng cưới dự tiệc" (x. Mt 22,2-10) Vua tình yêu
vẫn mở tiệc cưới, phòng tiệc vẫn đầy người dự, nhưng là người mới, áo cưới mới.
Ý thức vua tình yêu trao ban ân huệ cách nhưng không, Dân mới của
Thiên Chúa hiểu rằng chỉ có tình yêu đáp đền tình yêu, hàng ngày trong lời Kinh
Lạy Cha - lời Kinh trọng nhất - Hội Thánh lớn tiếng xin cho Nước Cha trị đến
trong tâm hồn và trong mỗi gia đình - Nước tình yêu, Nước công bình, Nước sự
sống, Nước ơn phúc, Nước hoà bình.
5. Đức Kitô làm vua đời tôi - Lm. Nguyễn Hữu Thy
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức
Kitô-Vua. Người là Đấng thống trị duy nhất toàn thể vũ trụ và thống trị đời
chúng ta!
Nhưng mừng lễ Đức Kitô làm vua cuộc đời chúng ta có nghĩa là
chúng ta tin nhận rằng chúng ta hết lòng khâm phục Người và để Người làm chủ
trên chúng ta, trên trọn cuộc sống của chúng ta.
Tuy nhiên, trong thực tế ai làm chủ đời tôi, đời chúng ta? Chỉ
một mình Đức Kitô hay còn vua nào khác nữa? Phải chăng ngoài Đức Kitô là Đấng
duy nhất làm chủ trên cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chứ không còn vua nào
khác nữa?
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta còn có bao nhiêu vua chúa
khác đang chờ đợi tranh dành ngôi vua với Đức Kitô: Nào là “vua thuốc lá”, “vua
bia rượu”, “vua cờ bạc”, “vua thể thao”, “vua tivi, vua phim ảnh”, “vua tiền
bạc”, v.v... Những ai thiếu khôn ngoan và liều mình để cho các ông vua này cai
trị đời họ, thì thật là cả một tai họa khôn lường: Họ hoàn toàn mất hết tự do,
trở nên nô lệ cho chúng, để chúng sai khiến, và họ sẽ vâng lời làm bất cứ điều
gì chúng muốn, cả đến tư cách, lý trí và tình nghĩa gia đình bạn bè họ cũng sẵn
sàng từ bỏ hết, vì để làm thỏa mãn chúng! Đúng vậy, đó là những ông vua độc tài
và chỉ muốn nô lệ hóa những kẻ phục tùng chúng. Chúng đòi hỏi các thần dân của
chúng những đóng góp rất to lớn về thời giờ và tiền bạc. Chúng hứa mang lại một
cuộc sống đầy hoan lạc và vui thú, nhưng rốt cục thường chỉ để lại những cảm
giác trống rỗng, chán chường và thất vọng.
Tôi đã từng gặp nhiều người đã dại dột để cho hầu hết những ông
vua như thế lừa gạt và rơi vào tròng nô lệ của chúng. Kết cục, những người đó
trở nên thân tàn ma dại, và chẳng những hoàn toàn vô dụng cho gia đình và xã
hội mà còn là gánh nặng cho mọi người. Họ trở nên những kẻ sống đời tầm gửi
trên mồ hôi, nước mắt và công lao của kẻ khác.
Các ông vua trần tục đó thường huyênh hoang và cao ngạo. Chúng
chỉ luôn tìm cách nhấn sâu và chôn vùi những kẻ chạy theo chúng xuống tận bùn
đen hôi thối của tội ác. Chúng ta thử đưa ra một vài thí dụ: chẳng hạn “vua thể
thao”: Thể thao thực ra là một điều lành mạnh, nhưng nếu chúng ta mê man đến
nỗi sao nhãng bổn phận đối với gia đình, đối với con cái và đối với Thiên Chúa,
thì thể thao không còn là một môn tập luyện lành mạnh nữa, nhưng là một tên độc
tài thống trị trên ta và biến ta thành nô lệ cho nó. Hay không ai chống đối
việc thưởng thức một chén rượu hoặc một ly bia, nhưng nếu cuộc sống mà hoàn
toàn lệ thuộc vào chén rượu hay ly bia, đến nỗi thiếu chúng thì mọi việc đều bị
đình trệ, không thể tiến xa hơn được nữa, bấy giờ chén rượu và ly bia không còn
là những phương tiện “làm vui lòng người”, mà là những ông vua độc tài biến
chúng ta thành nô lệ cho chúng. Những kẻ say mê cờ bạc, rượu chè, v.v... sẽ đốt
cháy nhân vị và tư cách của mình.
Làm thế nào để chúng ta có thể bảo vệ được sự tự do và độc lập,
nhất là tư cách và nhân phẩm của mình trước những ông vua độc tài đó? Chỉ một
cách duy nhất là chúng ta hãy dứt khoát xa tránh chúng. Những ông vua này tuy
độc tài và luôn nô lệ hóa con người, nhưng chúng lại không có “khí giới” trong
tay để bắt ép được ta làm nô lệ cho chúng. Việc sống cuộc đời tự do và có tư
cách, hay làm nô lệ cho chúng là hoàn toàn tùy vào sự quyết định của chúng ta,
hoàn toàn tùy vào ý chí của chúng ta.
Khi nói đến đây tôi lại liên tưởng đến một ông vua khác còn khó
tính và độc tài hơn cả trong các ông vua vừa kể trên: đó chính là “cái tôi” của
chúng ta. Cái khó để tự giải thoát khỏi sự cai trị của ông vua độc tài này là ở
chỗ: Nó không điều khiển chúng ta từ bên ngoài vào, nhưng là ngự trị nội tại
trong ta, chiếm giữ và lèo lái cả lý trí và ý muốn của ta. Cuối cùng, những lợi
lộc mà ông vua “cái tôi” thu vén là cốt cho chúng ta, để phục vụ chính chúng
ta. Chính cái khó nhất là ở chỗ đó: Làm thế nào chúng ta có thể khách quan nhận
ra cái lệch lạc, cái sai trái của cái tôi - nghĩa là lòng ích kỷ - của chúng
ta?
Con đường duy nhất là tìm về phục vụ Đức Giêsu Kitô-Vua, vị vua
đích thực của vũ trụ và của đời sống chúng ta. Người đã hy sinh mạng sống vì
chúng ta, Người chịu chết để chúng ta được sống. Người là vị vua nhân hậu, chấp
nhận thân phận nghèo hèn và vâng lời chịu lụy cho đến chết, chết trên thập giá.
Về Đức Kitô-Vua, Tinsley đã viết: “Người đã không bao giờ là Vua và là Đấng Cứu
Thế, nếu không chết trên thập giá”. Đức Kitô là vua và nước của Người không
thuộc về thế gian này, nhưng lại ở giữa thế gian. Người không hề dùng quyền
bính để cai trị, nhưng là để phục vụ. “Phục vụ thay vì cai trị”, bênh vực quyền
lợi của kẻ cô thế cô thân, chở che người nghèo đói, trả lại công bằng cho những
người đã bị mất quyền sống, v.v... là chương sống và hành động của Kitô-Vua.
Người thay thế sự tự hy sinh mình vào chỗ sự tự khẳng định mình. Người không
đòi hỏi gì cho mình cả, người chỉ cho đi! Người không tẩy não hay rửa đầu ai hết,
Người rửa chân cho mọi người. Những thủ lãnh thế gian bắt thần dân chết thay
cho mình, còn Đức Kitô-Vua lại đã chết thay cho thần dân của Người: Đó chính là
sự cao cả của Đức Kitô-Vua. Chính những kẻ nhạo báng Người đã nói lên sự thật
về Vương Quyền của Người, khi họ mỉa mai: “Nó đã cứu được kẻ khác!” (x. Mt
27,42). Quả vậy, việc cứu giúp kẻ khác: là biểu tượng và là mục đích của Phẩm
Hàm Vương Đế và của Vương Quyền Đức Giêsu. Vương Quyền của Đức Giêsu cần đến
những con người không chỉ sống và chỉ nghĩ đến chính mình mà thôi, nhưng - cũng
như Người - còn biết giúp đỡ và sống cho kẻ khác nữa. Thiên Chúa cần đến tất cả
chúng ta!
Ai chấp nhận và tùng phục Vương quyền êm ái dịu hiền của Đức
Giêsu, người đó hoàn toàn tự do trước tứ độ tường, trước mọi mê say tội lỗi. Dĩ
nhiên, để phục quyền Đức Kitô-Vua, nghĩa là để bước đi trên con đường của
Người, con đường của sự từ bỏ bản thân mình và nhờ thế được sống đời tự do, con
người cần phải từ bỏ một đôi thứ - không chỉ những thứ xấu và tai hại, nhưng
đôi khi cả những thứ tốt nữa - nếu chúng trở nên chướng ngại vật ngăn cản bước
đường đó của chúng ta. Chính đó là con đường đưa dẫn chúng ta vào trong Vương
Quốc vô biên giới, một con đường không chỉ hứa mang lại một cuộc sống sung mãn,
nhưng còn ban tặng cho ta chính cuộc sống đó nữa. Ai phục vụ Đức Kitô-Vua,
người đó tìm được ý nghĩa và mục đích chân thật đời mình!
6. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà
vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn
võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại
thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người
cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng
căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô
tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì
thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên
vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một
mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux
giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai
hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ
chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác
nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù
nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt
nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết.
Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc
lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào
nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la
vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại.
Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me, nhưng
không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành
sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay
là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao
chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất
thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật
bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau.
Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica
bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng
đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân
yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập,
mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã
đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ
vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc
của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn
trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn
ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới
cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua
Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. "Người là
chó sói của người - homo homini lupus". Vì thế, con người không còn nhận
ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để
dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con
người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn
của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch
thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có
tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm,
dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình
cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau
thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi
bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột
thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giê-su đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên
bố trước toà Philatô: "Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích
này: làm chứng cho sự thật". Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giê-su là
soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả
nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật
nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người
anh em.
Mừng lễ Chúa Giê-su Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên
khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giê-su mang đến. Chỉ có sự
thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh,
khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động
cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
7. Bị can Giêsu Kitô-Vua
(Suy niệm của Lm. FX. Nguyễn Phạm Hoài Thương)
Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô
diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật,
thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có
thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa
Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô
phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu.
Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần
ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm
nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý
nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải
đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.
1. “Nộp” Chúa Giêsu
Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô
đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.
Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng
chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa
Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho
Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn
thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi
trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.
Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên
án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39;
19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu
với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự
cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một
tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp
Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).
Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi
lên trên hậu cảnh của bi kịch: “... vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng
hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga
13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã
nộp Chúa Giêsu cho Philatô.
Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm
phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử
bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước
Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông”
(Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã
muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).
Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn
với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha
tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn
trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc
Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế,
xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại.
Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp:
“không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga
10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn
thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không
thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác
nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài
vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người
Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ
đáng bị luận phạt.
2. Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ
Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền
của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là:
“ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói
thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho
thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái.
Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt
vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu
cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.
Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma
là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính
tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo
choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng
tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên
đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người
thành vua và nhạo báng Người.
Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý
ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn
Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô
đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một
chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi”
(Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.
Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên
đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua
đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con
người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người
đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).
Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm
hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về
thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa
Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực,
không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11),
từ Thiên Chúa mà thôi.
Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang
tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để
chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi
vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và
như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh,
Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.
Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận:
địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi
là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của
thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc
lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự
kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người
được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).
Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu
đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương
tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc
vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị
hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).
Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết
mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi
sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu
phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ
được “giương cao” trên thập giá.
Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà
Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý
nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ
mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).
3. Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?
Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy
Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở
đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã
yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này
mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất
hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được
giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32);
Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).
Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha,
giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền
năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã
trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu
muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong
mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông
ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang
cánh chung (Ga 17,24).
Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự
sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự
sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay
Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ
không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).
Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa
Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha?
Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không
phải là một khởi đầu.
Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này,
phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng
Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ
chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga
10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết
(Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong
thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy
nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).
Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống
thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa
Kitô - Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên
trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ”
những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).
Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự
sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ
sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế
gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã
được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về
cùng Cha trên trời.
8. Một vị vua khác thường – Guy Marin.
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà họ thống trị và họ tìm
cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua chúa trần gian cho phát
hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ muốn kiểm soát mọi thư
từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như vậy. Những kẻ quyền thế ở
đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đại bác, và sử dụng chúng khi cần,
trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và cấm Phêrô sử dụng. Vua
chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc của họ bằng sự khéo léo,
mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối trá, bất công và tội ác
nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào trong những phương tiện
cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì trong những điều làm nên
các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không? Kinh Tin Kính trả lời
chúng ta… “vương quốc Ngài sẽ vô cùng tận”. Và tất cả Tin Mừng cũng nói như
vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit;
Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba năm Chúa Giêsu không ngớt nói về
vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một sự kiện lạ lùng, đó là
thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân chúng hăng say muốn tôn
Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt Philatô, trong lúc không
ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định vương quyền của Ngài. Ngài
nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không ai muốn trao cho Ngài cả.
Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh né. Thái độ lạ lùng thật:
khi có thể dễ dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi điều này không thể xẩy ra thì
Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Vua ở điểm nào:
“Tôi đến để làm chứng cho sự thật”. Sự thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là
ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế
gian. Mỗi lần bằng lời nói và và việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là
mỗi lần Ngài thực thi quyền là vua của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài
là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, mù, què, bất toại, phong
cùi, nhưng hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu cho thấy vương quốc đã
đến gần, tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi, bởi quyền năng của
Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên
Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu thuế, khi Ngài cứu
người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa không
muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương Giêrusalem, Ladarô là Ngài
biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi khốn khó của loài người chúng
ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc những kẻ bất hạnh đủ
loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không khôi hài đâu, nhưng
Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được hưởng Nước Trời
sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ, Ngài nói với
một lời giải phóng: “Ngày sabat được đặt ra vì con người…”. Trong các dụ ngôn,
như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa
và những mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống của mình, Ngài lại càng làm
chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà Ngài đề cao chính là nguyên
nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống
lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi những cách đối xử với Thiên Chúa
và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở
thành kẻ xách động. Người ta nói với một kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông
chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà nói: “Không tôi không thấy gì thay đổi
cả”. Kinh sư này có lý, Chúa Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin
Mừng. Và trước hết là lòng con người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải
theo các mối phúc thật và từ bỏ các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn
hơn là bóc lột, bị bách hại còn hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ,
thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không thể dửng dưng đối với
những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi chính phủ kỳ thị
chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột thế giới thứ ba.
Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán trên tất cả những
điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng Ngài đã để lại
những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta hãy nhớ rằng
Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài mà thôi.
9. Làm chứng cho sự thật
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các bà huyên thuyên nói về
những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng làm kỹ sư. Hễ nhà có món
đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra để coi máy móc bên trong
chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này nó sẽ trở thành luật sư.
Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành họa sĩ, vì tường nhà
không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành bác sĩ thôi. Chà! Hễ có
việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ chung của cha mẹ. Người mẹ
nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn. Người cha nào mà không mong
cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều gia đình chấp nhận nghèo đói
để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng bất chấp mọi phương tiện
như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ hạng, một bằng cấp cho
dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra con người ngày nay
nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu "tiên học lễ, hậu học
văn" đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp với văn minh
con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con người như đang vong thân,
xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô đơn và lạnh lùng. Phát
triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân xứng, người ta sẽ dễ dàng
đối xử với nhau "có lý mà không có tình". Mọi quan hệ giữa người với
người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con người hôm nay tính toán sòng
phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái, "tối lửa tắt đèn có
nhau" mà chỉ là "đèn nhà ai - nhà ấy rạng" hay an phận thủ
thường theo chủ nghĩa "mackeno" cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế, liệu người kytô hữu chúng
ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin mừng hay không? Tin mừng
đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và sẵn lòng phục vụ tha nhân.
Chính Đức Giê-su Ngài đã đến không phải để được phục vụ mà là để cúi mình phục
vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời mình để nên nguồn sống cho
nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta, là
Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta được mời gọi xây dựng
nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi những người con của Chúa
có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được xây dựng từ nơi gia đình,
nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét, những bất công, hận
thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người kytô hữu khi lãnh nhận bí
tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật giữa thế gian. Điều đó còn
mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian dối, chua ngoa và xây dựng
một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá nhiều bất công và gian dối. Sự
hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống tương thân, tương ái với nhau,
sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn nếu người ta biết sống
chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu người ta thôi nghi ngờ và
kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi đen. Con người có lấy ân báo
oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất bản tính của mình là sống
thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa bình trên mặt địa cầu này. Vì
chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên
mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho những ai thành tâm thiện chí
sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống trong một thế giới thiếu vắng
tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê lầm lạc. Chúng ta phải can đảm
thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham,
xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của
tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù,
chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên
cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể mất ánh sáng niềm
tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng niềm tin để mọi người tin tưởng nhau.
Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu, để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và
xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng
đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết xây dựng Nước Chúa ở trần
gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân lý và công bình giữa thế
giới hôm nay. Amen.
10. Vua Sự Thật – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm phép lạ cho bánh hoá ra
nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm vua thì Ngài không muốn.
Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh quang vào thành Giêrusalem,
dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá phất phơ đón chào. Hôm ấy mà
Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa phản đối bằng cách cỡi con lừa
bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng trước mặt quan án, bị dân chúng
khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình tượng con người nữa, thì
Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô tình, nhưng là cố ý. Hôm
nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và đối diện với sự hận thù,
Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có một vương quốc khác,
vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp
nhận cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc
đời khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của
Chúa. Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng
dáng cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận
kề cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài “không
thuộc thế gian này”. Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự sống
trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất
cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là quyền năng của Chúa là trên
hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối diện với Philatô
tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ, Đức Giêsu muốn
cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như Ngài đã trả lời
Philatô: “Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ thành công ban cho”.
Thánh nữ Xêxilia cũng nói: “Quyền uy ở đời giống như quả bong bóng. Nó không
triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được. Phải nhờ đến không khí.
Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống”. Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ
có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững. Chính vì thế Đức Giêsu không xưng
vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương
khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn
đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì vương quyền của vua chúa trần gian
khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín, không còn ai tung hô ủng hộ, Đức
Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu thoát mọi quyền lực và vinh quang
theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế
những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải biết coi thường mọi vinh quang
quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là tình thương chiến thắng thù
hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận của đám đông,
Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là hiện thân của
tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã xuống trần gian.
Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao nhất như lời
Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh
tính mạng vì bạn hữu”. Dù những thù hận vây bọc, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu
thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù, Đức Giêsu vẫn xưng
vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận thù đem lại chết
chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng đầu tiên từ trong kẻ chết
sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương quốc của Ngài. Đó là vương
quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới được vào. Và những ai thuộc
về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả trá đó là sự chết, đó là
những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận ghen ghét. Hiểu biết sự
thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống theo bước Đức Giêsu Kitô.
Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin cho chúng con được làm
dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự Thật và Sự Sống, nước
công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến giữa tình thương và thù
hận?
4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa, ta phải làm gì?
11. Làm Vua là làm chứng
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống – Trích trong ‘VỚI CẢ TÂM
TÌNH’)
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua oai phong lẫm liệt như
trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một lớp những nhà vua mới
lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng đầy uy lực: vua dầu hoả,
vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có những kiểu đăng quang riêng,
và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của mình.
Thuật ngữ “Vua” xem ra đã có nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng
cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ
Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ
mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ đăng quang tương tự như các nhà vua trần
thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng
cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng “Giêsu Nagiarét Vua dân Do
Thái” lên đầu Thập giá, Philatô đã không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế
chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm những người Do thái, nhưng có một điều
ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng trong lợi thế đức
tin của người Công giáo, đó là tấm bảng kia trong ý định của Thiên Chúa lại là
một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời, mà là Vua vĩnh cửu. Dù
trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở trách Phêrô khi ông này
chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ dãi đồng nghĩa với vị
vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám đông cuồng nhiệt khi họ
muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều. Nhưng, trước mặt Philatô,
Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên Thập giá, chính lúc tưởng
rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và chính khi tưởng rằng bị huỷ
diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại. Thời gian là đại lượng dành
cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua
vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với
cái chết của Người trên Thập giá trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã
được khai sinh không phải giới hạn trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang
lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn. Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát
đã hình thành vượt trên giao ước cũ vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công
cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một
triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người chẳng thuộc trật tự trần
thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh sẽ quy tụ mọi sự về một
mối: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta”.
Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất và thứ hai với hình
ảnh của “Đấng đến giữa mây trời” thì vương quyền của Chúa Kitô đã khác xa một
trời một vực so với các vương quyền trần thế khác. Vương quyền trần thế dẫu có
lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo lường được, còn vương quyền của Chúa
Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt Qua đã đặt Chúa Giêsu
đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng với những đối chất
qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ Tử Nạn. Vào chính
lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời cao dường như hạ
bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như thế lẽ ra đẩy
Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng định Nước
Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu quyền uy
là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối chứng
hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn Vua.
Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia đã
vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ là
quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn
vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì
có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới tuyên bố mình là Vua để khởi
đầu cho một triều đại mới trong “sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công
chính, yêu thương và an bình” (Kinh Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh
cao của một đời lựa chọn và là điểm đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm
chứng cho sự thật: “Tôi sinh ra và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”.
Nếu sự thật là chính Thiên Chúa, là thực tại thần linh, là “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi ban Con Một mình” như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu
độ, thì trót cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt đớn hèn của cả nhân loại.
Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài người tội lỗi. Qua Thập giá,
Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục
Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua nẻo đường Thương Khó đến cùng
trong số phận của “Người Tôi Tớ đau khổ”.
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có nghĩa là làm chứng và làm
chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của Người, trải dài từ Nhập Thể
qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm chứng cho sự thật cũng là sống
và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện thân của Thiên Chúa ở giữa thế
gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân tình thương được triển nở cách
hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của Chúa Kitô thật khác lạ.
Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến vũ lực để mà cai trị,
cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều mà mọi vị vua trần thế
mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời gian, thì chỉ duy Chúa
Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là bằng một tình thương
không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là phương thế duy nhất để
thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là một tiến trình mạch lạc không
thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò chứng nhân trung thành, Đức Kitô
mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên mục đích của Thánh lễ
hôm nay đối với mọi kẻ tin là: “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối năm
Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô như tinh thần của
Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11 tháng 12 năm 1925,
nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm tin bằng cuộc
sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.
Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô trong khi cuộc sống cá
nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm vẩn đục vũ trụ quan Kitô
giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ vương quyền Chúa Kitô mà
không hay biết.
Cũng không thể nhận mình ở trong Vương Quốc của Đức Kitô mà hằng
ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện diện của Người trong cuộc
sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ người nghèo… càng không thể
nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà cuộc sống chung riêng vẫn gây
ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công, gương xấu, tội lỗi…
Càng không thể nhận mình thuộc về vương quyền của Đức Kitô khi
mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện tinh thần chứng nhân.
Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải đi vào lối sống hy
sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng quên, chứng nhân có
nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức Kitô và ai thuộc về Đức
Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời mình và chấp nhận để Người
biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần nỗ lực “làm chứng” sao cho
niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không quên nhiệt tình tông đồ là làm cho
những người lân cận nhận biết và tin yêu Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào
vương quyền Chúa Kitô, là “tôn vương” Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và
cũng là cùng với mọi người tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm
“quy tụ mọi sự trong Chúa Kitô”.
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa Kitô Vua thật lớn dựng
trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương.
Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn căn cứ vào đó để mà định
hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó để mà cầu nguyện xin ơn
bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu biết rằng Chúa Kitô vẫn
luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu hy vọng. Xin Người cũng
làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng con lặp lại niềm
tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành cho những ước nguyện chúng
con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và sống thánh thiện, chúng con
được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội. Chúa là Đấng hằng sống hằng
trị muôn đời. Amen.
12. Đức Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai trị.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời Trung cổ, Hoàng tử Alexis
cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi
dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng
Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày
một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục
được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm họ trở về, ông thấy
lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh
tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả, bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ
không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo, được mọi người yêu mến
kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã, tranh giành, hòa giải
những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis, người đã bỏ cung điện
giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn bè của họ, để yêu
thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến, Đức Kitô thực sự là một vị Vua đầy uy
quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể yêu thương
và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người
ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: “Ông là Vua ư?” Chúa Giêsu
không phủ nhận, Ngài chỉ nói: “Chính quan nói rằng tôi là vua”. Vua vẫn chỉ là
một từ ngữ gây hiểu lầm mà Đức Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã
nói đến Nước của Ngài. Ngài “sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong Nước
của Ngài” (Mt 16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: “Nước tôi không
thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh
“khi Ngài đến trong Nước của Ngài”, Chúa Giêsu đã không từ chối: “Hôm nay anh
sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ đến phân
xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được Chúa Cha
ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã sống như
một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý thức về vai
trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình là Con
Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng. “Vua của
các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân
nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai? Hẳn là người
ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu bàn”
(Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như một kẻ hầu bàn, chỉ
mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa Giêsu là phục vụ,
chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để
làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân
cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Với Chúa Giêsu,
cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với quyền bính đích thực. Qua
cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng đắn về quyền bính. Quyền
bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ nhất của Chúa Giêsu là
cái chết của Ngài trên thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị
vua bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài. Trên đầu Ngài có
gắn tấm bảng ghi dòng chữ: “Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái”, được viết bằng ba
thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ lùng!
Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai. Không cẩm
bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có người qua kẻ
lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền lực, cũng
chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất cả. Thập
Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa Giêsu trở
thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình để khiêm
tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là con đường
dẫn đến vinh quang. “Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người
lên với Ta” (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu hút cả vũ trụ nhân
loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn lan rộng không
ngừng nhờ có những người dám “đứng về phía sự thật” và “nghe được tiếng Ngài
mời gọi” (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu không có trên bản đồ, bởi lẽ Nước ấy “ở trong
thế gian này” nhưng “không thuộc về thế gian này”. “Ở trong thế gian”, nghĩa là
không xa cách, nhưng hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp
thức ăn. Nhưng “không thuộc về thế gian này”, nghĩa là không chạy theo những
thần tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế gian sa đọa là
thế gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con người. Thế
nên, xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn
trọng con người. Chúng ta cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”, được mọi
người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi
người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước
Chúa Kitô là một. “Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho Chúa Cha,
sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng, Thiên
Chúa làm mọi sự cho mọi người” (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua dùng thập giá ngai vàng, mão gai làm triều
thiên và muôn thuở cạnh sườn của Ngài bị đâm thủng, để nguồn suối tình yêu luôn
tuôn tràn cho nhân loại đang khao khát tình yêu. Yêu là trao ban và trao ban
đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của Thiên Chúa đã trao tặng con
người. Từ nay, để sống đích thực là người, con người cần phải dốc cạn con tim
mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại. Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương
và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã trở nên gương mẫu đích thực cho các
nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai biết yêu thương và phục vụ như Ngài
thì mới được tham dự vào vương quyền của Ngài trong Nước của Ngài, vì “Phục vụ
là cai trị” vậy.
13. Vua Chân Lý
Tôi còn nhớ rất rõ, khi còn bé, cừ đến ngày 13.10 hàng năm tôi
lại được mẹ tôi dắt đi hành hương Fatima Đức Mẹ ở Vĩnh Long. Lần nào đi tôi
cũng qua khu nhà của cá thầy dòng Kitô Vua cạnh đó để chiêm ngắm Đức Kitô đội
mũ triều thiên đứng uy nghi trên đỉnh nhà. Lúc đó tôi vô cùng hãnh diện vì Chúa
tôi là Vua. Nhưng tôi cũng lấy làm thắc mắc mọi vua khác tôi đọc trong truyện,
có quân lính, có vệ sĩ bảo vệ, sao Vua Kitô lại không thấy. Rồi những hình
tượng đó ngày một qua đi, đến hôm nay khi học biết về Kinh Thánh lại làm cho
tôi càng vui mừng hơn gấp bội. Vì Chúa của tôi là Vua trên các vua chứ không
phải ông vua trần gian với binh quyền thế mạnh, chỉ uy hiếp được người đời, rồi
cuối cùng cũng sẽ đi vào diệt vong. Còn Vua Kitô đã xây dựng đất nước trong
chân lý và tình yêu, nên đất nước vẫn tồn tại và phát triển. Hơn nữa, trong Bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là Vua trước Philatô khiến nhiều
người trong chúng ta phải thay đổi hết mọi quan niệm thông thường khi nghĩ đến
tước hiệu làm vua của Chúa Giêsu Kitô:
1. Vua tình yêu
Đức Giêsu đã trả lời Philatô "Nước Tôi không thuộc thế gian
này". Trong hoàn cảnh như thế nếu xét theo khía cạnh ngoại giao, thì đây
là một câu trả lời vụng về thiếu khôn khéo. Nhưng vì Ngài là Vua của chân lý,
của sự thật. Ngài phải nói lên sự thật, nhưng có nhiều người không hiểu vì họ
bị mê muôi bởi vinh quang trần thế. Công việc của Ngài đến là để làm chứng cho
chân lý. Ngài đến để chiến thắng tội lỗi, và Nước Ngài không phải ở trần gian,
nếu Ngài muốn dấy loạn dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi người ta đứng lên chiến đấu
thì chuyện không có gì là khó. Nhưng nếu vậy thì không phải là Vua của tình yêu
nữa mà là một ông vua bạo lực của trần gian. Từ ban đầu, Ngài đã khẳng định
mình là Vua, nhưng Nước Ngài không căn cứ trên bạo lực và vũ khí, mà là một
vương quốc trong lòng người. Mục tiêu là chinh phục thế gian, nhưng là cuộc
chinh phục bằng tình yêu và lòng bao dung.
2. Vua của đất nước không biên giới.
Nước của Vua Kitô Giêsu hoàn toàn khác với nước mà người Do Thái
trông đợi. Họ chờ một Đức Kitô làm vua thật sự, nâng đỡ dân tộc rồi giải thoát
họ khỏi ách thống trị của Rôma. Điều họ trách cứ Đức Kitô ở đây chẳng qua biểu
lộ một niềm hy vọng sâu xa, đó là mơ ước sau bao bao năm bị đô hộ. Và khi thấy
Đức Giêsu không hành động theo ý muốn, họ thất vọng, lên án tố cáo Ngài. Vì
thế, Ngài biết rõ vị thế làm Vua của mình, biết rõ người Do Thái đang nuôi hy
vọng hão huyền với những quan niệm lệch lạc. Vương quyền Ngài thật kỳ lạ không
giống như họ tưởng. Đó là một vương quyền tuyệt đối, với mục đích quy tụ mọi
dân trên toàn cầu, và tất cả mọi người thấp hèn, yếu đuối tật nguyền, cho đến
cao sang quyền uy đều có thể trở thành công dân nếu biết tuân phục thánh ý
Chúa.
3. Vua mọi vua.
Qua câu trả lời mạnh mẽ hiên ngang của Đức Giêsu trước quan
Philatô đại diện cho quyền lực trần thế. Đức Giêsu đã thể hiện vượt trội vì
Ngài là Vua các vua, vương quyền Ngài vượt hẳn sự trông đợi của người Do Thái,
Ngài không để mất sự cao cả khi mang thân phận yếu hèn. Điều này cho họ thấy
rằng nếu họ biết được uy quyền của Đức Giêsu nếu họ quan tâm đến chân lý, biết
nỗ lực khám phá đường lối Chúa. Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu một đàng cho
thấy Ngài như một vị Vua uy quyền, đàng khác lại mang chiều kích lớn lao đặc
biệt về mặt tôn giáo. Bởi vì đó là câu trả lời đánh tan mọi ảo vọng của dân Do
Thái. Và khẳng định rõ ràng vương quyền chân thật phải do Thiên Chúa thiết lập.
Tóm lại, Đức Giêsu Kitô thật sự là vị Vua đầy uy quyền, đất nước
Ngài vô biên, thần dân là tất cả mọi người tín hữu. Còn luật lệ là tình yêu. Nó
đã thể hiện qua việc Vị Vua đã trở nên giống phàm nhân, nhằm yêu thương phục vụ
con người. Để diễn tả mầu nhiệm tình yêu này, trong thư gởi tín hữu Philipphê
thánh Phaolô đã nói: "Ngài đã trở nên chúng ta như một con người... Vì
thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao trọng tuyệt vời, và ban cho
Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu" (Pl 2, 5-6). Chúng ta là những
thần dân đã được mời gọi gia nhập đật nước của Ngài qua Bí Tích Rửa Tội, thì
mỗi người cũng được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô thủ lĩnh chúng ta qua
chức vụ vương đế. Vì vậy đã là công dân nước Chúa thì mỗi người phải góp phần
vào công việc xây dựng vương quốc nước Ngài trên trái đất này, qua việc thánh
hóa bản thân mỗi ngày và phục vụ tha nhân bằng cả tình yêu như chính Đức Giêsu
đã từng phục vụ và "hiến mạng sống để cứu chuộc cho nhiều người" (Mc
10,45).
14. Tôi là Vua – Noel Quesson.
Đức Hồng Y Deschamps, Tổng Giám Mục Malines, khi còn trẻ đã
chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ cửa sổ một cao ốc, Deschamps đứng
xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của hoàng gia và đoàn tùy
tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở lại bình thường như
mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là một vị vua đã đi qua. Rồi nhờ ơn Chúa
chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua sẽ qua đi. Tôi muốn
một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng từ bỏ địa vị đầy
hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên trưởng Giáo Hội nước
Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là Vua, lời tuyên bố của Chúa được thốt
lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa. Chúa bị tố cáo vì xưng mình là
Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có phải là Vua không? Thì Chúa lại quả quyết
Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua theo quan điểm chính trị giống như Hoàng
đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm nô lệ cho mình. Còn một vị
Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái trông chờ, đó là người kế vị
ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến thắng quân thù và giải thoát dân tộc khỏi ách
thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi là Vua, thì chức vị Vua
ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề bó buộc ai theo mình,
một vị Vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không có quân đội, không có
vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính trị gia và các người
chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải một người yếu đuối, Chúa đã từng xua đuổi
ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật. Người đã lên tiếng nạt sóng gió và khiến
bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư thế quyền uy. Tuy Người là
Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Chúa
đến để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một vương quốc Thiên Chúa. Một
vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ phát dậy men… như hạt lúa
mì mục nát trong đất và đem lại mùa màng tốt đẹp. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là
Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một Thiên Chúa cai trị như Thánh
Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1). Chúa dạy ta cầu nguyện hàng
ngày cho “Nước Chúa trị đến”. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc
con người tin theo. “Người cho mặt trời soi chiếu cho người công chính và kẻ
bất lương, cho người vô thần cũng như cho các tín hữu” (Mt 5,43-48). Thiên Chúa
yêu những kẻ không yêu mến Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: “Vậy ông là Vua sao?”. Sau khi đã xác định cung
cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm người trần, Chúa công bố với Philatô:
“Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm Vua, để làm chứng cho chân lý”. Chúa làm Vua
theo lối khác, Chúa không nói khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ.
Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập
giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo: “Ai thuộc về chân lý thì
nghe tiếng Tôi”. Chúa cai trị những người nghe tiếng Chúa, những người tin thác
vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như vậy, cả nhân loại là công dân của Nước
Chúa, không một ai có thể thoát khỏi quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là dâng hương, là cử hành nghi
lễ tung hô… Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa, và điều chỉnh cuộc sống cá
nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi người nhận biết quyền
năng và tình thương của Chúa, để tất cả được trở nên công dân trong Nước Chúa.
Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
15. Đức Giêsu là Vua ư? - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm
chứng cho chân lý. Phàm ai thuộc về chân lý thì nghe được tiếng tôi” (Ga
18:37).
Không ít người khi mới tìm hiểu về Kitô giáo, hoặc có dịp đọc
qua một vài trang sách Phúc Âm, đã vội đưa ra vài nhận xét về Đức Giêsu như
sau: Ngài không phải là một chính trị gia xuất chúng và cũng chẳng phải là một
thương gia đại tài. Bởi vì những lời Ngài nói, những điều Ngài hứa hẹn không
giống với các chính khách hay các nhà buôn thời nay tí nào. Thay vì lôi kéo
quần chúng bằng những lời mời gọi hấp dẫn, có tính chất quyến rũ thị hiếu của
người ta, để họ sẵn sàng đi theo ủng hộ, thì Đức Giêsu lại nói, “Ai muốn theo
Ta, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24). Đã vậy
rồi khi có người đi theo, Ngài lại phán thêm những câu mà mới nghe qua đã muốn
bất mãn. Chẳng hạn như, “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con và ngay cả mạng
sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26); hoặc “Ta không đến
để đem bình an, nhưng là gươm giáo” (Mt 10:34).
Thật là khác lạ! Thay vì hứa hẹn một cuộc sống sung túc nhẹ
nhàng thoải mái, êm ấm bình an, thay vì cứ hoá bánh ra thật nhiều và hoá thường
xuyên để nuôi dân chúng, và như thế thì làm gì mà họ chẳng theo, thậm chí còn
ủng hộ, bỏ phiếu bầu mình làm thủ lãnh, chứ đàng này Ngài lại dạy phải chịu đau
khổ, phải từ bỏ chính mình, phải nhân nhượng kẻ thù, hay nói cách khác là phải chịu
mất mát thiệt thòi. Thế thì làm sao mà lôi kéo dân chúng được!
Khi suy luận như thế, tất nhiên sẽ có không ít người tin tưởng
mình sẽ nắm chắc phần thắng khi đánh cuộc nếu Đức Giêsu mà ra tranh cử, dù thời
xưa hay thời nay, thế nào cũng bị loại ngay từ vòng đầu thôi. Nhất là khi họ
thấy thân xác của Ngài bị đóng đinh thê thảm trên thập giá, kết thúc cuộc đời
không một chút oai phong vinh quang, thì chẳng mấy ai dám khẳng định Đức Giêsu
là Đấng Thiên Sai, là Vua dân Do thái, hay là Chúa của muôn dân. Có chăng chỉ
là một sự nhạo báng!
Ấy thế mà kẻ bị đóng đinh ô nhục trên thập giá giữa những tên
trộm cướp, người đã từng bị nhạo báng là vua, là Mêsia, lại thật sự là Đức
Kitô, Vua của muôn muôn tỉ tâm hồn.
Sẽ có người ngạc nhiên nêu vấn đề: Tại sao nghịch lý thế? Do đâu
mà một tử tội lại được người ta bước theo đông đảo như vậy? Phải chăng vì người
đó chính là chân lý-phải chăng vì người đó đã đến để giải thoát nhân loại bằng
chân lý, và nay lại dám hiến mình chịu chết cho chân lý?
Nhưng “chân lý là gì”? Câu hỏi không cần câu trả lời của Philatô
lại là đề tài suy tư của nhiều thế hệ. Chân lý đó chính là Thiên Chúa yêu
thương con người. Bất cứ ai tin nhận chân lý này sẽ tìm thấy cho mình một sức
sống phong phú, một niềm vui linh thiêng tràn đầy, nhất là sẽ múc được hồng ân
cứu thoát, dù rằng người đó có đang quằn quại trong nỗi đau của thân xác như
người trộm lành bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu.
Trong nỗi đau đớn tột cùng trước những hình khổ do quân Roma bày
ra, anh trộm lành đã nhận chân con người của Đức Giêsu. Anh Đã bênh vực cho
Ngài khi lên tiếng: “Ông này đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23:41). Nói cách
khác, anh đã thừa nhận Đức Giêsu đã làm điều đúng. Ngài chỉ làm theo sự thật,
đã sống cho chân lý yêu thương con người, và nay ngài chết cũng vì chân lý yêu
thương đó.
Từ chỗ tin nhận và bênh vực sự vô tội của Đức Kitô, anh trộm
lành đã khám phá ra vương quyền và thiên tính của Ngài. Kết quả, anh đã lên
tiếng khẩn cầu: “Khi nào về Nước, xin Ngài nhớ đến tôi” (Lc 23:42).
Lạ quá! Làm sao trước một thân xác rã rời với đinh sắt, máu me
thế kia mà anh ta có thể cất lên được lời kêu nài như thế là lời thỉnh cầu
trước một quốc vương? Làm sao trước hình hài của một kẻ đang chịu đau khổ chẳng
thua kém gì anh ta thế kia mà anh lại đem lòng thần phục như đối với một vị vua
uy quyền như vậy? Câu trả lời sẽ là: Chân Lý đã gặp gỡ anh và anh đã tin nhận
Chân Lý. Đức Kitô gặp anh và anh đã tin phục Ngài. Chính sự tin phục cùng tin
nhận này mà ơn cứu độ, phần thưởng của sự sống linh thiêng được trao ban cho
anh ngay trong ngày đó.
Đã có rất nhiều người gặp Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả đều
nhận ra Ngài là Chân Lý, là Vua của tâm hồn, là Chúa của yêu thương. Philatô đã
gặp Đức Giêsu đấy chứ, nhưng lòng ham mê quyền hành đã che khuất chân lý; những
người luật sĩ biệt phái đã thấy Đức Giêsu đấy chứ, nhưng những ghen tương đố
kị, những mưu cầu ảnh hưởng cá nhân đã làm lu mờ khuôn mặt của chân lý; rất
nhiều người trong đám đông dân chúng Do thái về dự lễ Vượt qua ngày xưa đã thấy
Đức Giêsu đấy chứ, nhưng chỉ vì thích hùa theo tính bạo động của đám đông, bất
chấp chuyện đúng sai, bất chấp kẻ vô tội là Giêsu hay là Baraba. Thế nên, cuối
cùng Chân Lý đã bị họ đóng đinh.
Trong tuần cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội muốn đặc biệt
nhắc nhở với mọi người tín hữu về gương mặt của Chúa Giêsu Vua, gương mặt của
chân lý yêu thương con người-chân lý duy nhất mang lại hạnh phúc và niềm vui
tâm hồn. Thử hỏi chân lý yêu thương đó có ngự trị tâm hồn của tôi chưa? Tôi đã
dám bước trên những gì là quyền hành, dù đó là quyền hành của một người cha,
người chồng, hay người chủ, tôi có dám vượt thoát những gì là ghen tương đố kị,
lợi ích riêng tư, tôi có can đảm chế ngự những bạo động của dục tình hay nóng
giận để làm cho hình ảnh của chân lý yêu thương là Vua Giêsu được bừng sáng hơn
trong gia đình và cộng đoàn tôi không?
Xét lại chính mình nhân ngày cuối năm phụng vụ để xác định thái
độ tin phục và suy tôn cần có đối với Vua Giêsu, hầu sự bình an và niềm hạnh
phúc thiên đàng mà Ngài đã tặng ban cho người trộm lành xưa, cũng chiếm ngự tâm
hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.
16. Thuộc về Chúa.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác quyết: Phải, Ta là vua,
nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế, nhìn vào xã hội ngày hôm
nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực chính trị, không có một
sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và đại pháo, mà chỉ có các
linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong cõi lòng chúng ta. Và
như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một khi đã tuyên xưng Ngài
là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc về Ngài. Thế nhưng,
chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách chỉ có tên trong sổ Rửa
tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng chúng ta phải thuộc
về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta. Đây quả thực là một điều cay
đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì nhiều người Kitô hữu đã thuộc
về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba
lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa Tội, lần thứ hai để cử
hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao giờ sống niềm tin của
mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao giờ tuân giữ những điều
Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt lên: Đi đạo thì tin đạo,
chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực mà
thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch
hay đá quí, nhưng bên trong thì lại chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức
tin của họ chỉ là như một bộ quần áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó
thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ
lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc
đời họ bỗng hóa kiếp thành một loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác… Với
chúng ta thì khác. Giữa một xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng
thụ, thì những người Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác
ái và yêu thương, phải trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô,
phải trở nên nắm men làm cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện,
bác ái và yêu thương, phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn
thối, phải trở nên ánh sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất
cả những điều ấy muốn nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin
sống động, thì mới có thể cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa
lìa khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì những người vỗ ngực tự xưng
là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một đức tin sống động. Họ nói: Nếu
tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn ngay ở lành, chẳng cần phải để
ý tới linh hồn làm chi? Với chúng ta thì khác, nếu chúng ta có một đức tin sống
động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn, trốn tránh việc đi xưng tội và
lười biếng việc rước lễ được hay không? Chắc chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn lương tâm, có lẽ chúng ta
phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng… Bởi vì chúng ta
mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách, những người Kitô hữu trên môi
trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô hữu trong việc làm, trong cuộc
sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với lời nói, chúng ta là những
người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là những kẻ ngoại đạo. Với
miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với đời sống, chúng ta lại là
những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những người tin Chúa, nhưng với tư
cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ Chúa, đúng như tục ngữ đã
diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao găm. Đức Kitô là vua cõi
lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và phải sống thế nào để trói
cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương quyền của Ngài và bản thân
chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước Trời.
17. Đứng về phía sự thật.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình, và càng ngày càng
bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ, nhưng nó lại
lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc. Con
Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống trọn phận người bên cạnh
nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, chúng ta được mời gọi ngắm
nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang sống. Vũ trụ này sẽ đi về
đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Đức Kitô,
để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua, cũng không chịu để dân
chúng tôn vương mình, nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ. Một nước không có quân đội
để chiến đấu, không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian. Nhưng
Nước đó lại có những công dân thực sự. Bất cứ ai đứng về phiá sự thật thì thuộc
về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng
Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những người chưa biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất
gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật. Sống theo sự thật chẳng
bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột. Sự dối
trá nhiều khi được coi là khôn ngoan. Người ta dối trá một cách trơn tru, không
chút áy náy.
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa, chỉ vì ta sợ sự thật, sợ
nói thật, sợ sống thật, như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng
chính chúng ta là nạn nhân của mình, của một thế giới xây dựng trên những đồ
giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, ta đặt mình trước một thế
giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma
tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công... Thế lực của sự dữ và
tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi. Chúng ta
không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi
cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải
trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế thì Nước Chúa càng
lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người nhờ làm vua tiểu vũ
trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có một thần tượng để tôn sùng. Có người mê
vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson... Bạn có ai là thần tượng
không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, bạn
nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất do chặt cây, đốt rừng,
nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ
vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao
điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người
nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới
yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một
ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng
nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở
lại.
18. Vương quyền tình yêu – Lm. Hồng Phúc.
"Ta là Vua..."
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy, nước Anh có một ông vua đạo
đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường quốc, nên xung quanh ông hay có
những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một buổi triều yết, các nịnh thần
tâu: "Thánh Thượng" là vua trên hết các vua, là chúa trên các chúa,
có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà vua muốn cho họ một bài
học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại dương, ông tuyên bố: Ta
là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên biển cả. Vậy ta truyền
cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng lên, sóng vẫn trờ tới làm
ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua đi vào trong một thánh
đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện đội lên đầu Chúa và nói:
"Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các
Chúa".
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn vinh và nhìn nhận Chúa là
Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn ngày Chúa nhật sau hết của
năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ trụ. Trong cả năm, chúng
ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của các thánh. Nhưng khi
chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta ca ngợi sự toàn thắng
của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ, Giáo hội mời chúng ta
hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng Thánh, Đấng qui tụ vạn vật
để trao lại cho Đức Chúa Cha: "Mọi sự đã nhờ Ngài mà có và không Ngài thì
không gì đã thành sự" (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác định: "Ta là
Vua". Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Ngài
là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và sự sống lại vinh
quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần gian này. Vương
quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của Ngài dựa trên
tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một thời, rồi đi
vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng, vẫn hiển trị
trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng cũng không ai
được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng Trinh, là Vua
các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri Danien đã nhìn thấy "như
Con Người đến trong đám mây trời... quyền năng vĩnh cửu" (Dan 7,13), và
Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến: "Đấng là Alpha và Ômêga là
nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Đấng là Thiên
Chúa" (Kh 1,8). "Ngài làm cho chúng ta thành một vương quốc tư tế, để
phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của Ngài".
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị muôn đời. Amen.
19. Một giải pháp cho nền hòa bình thế giới.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà
vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn
võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử nầy lại
thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên là Faroux, là một người
cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng
căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô
tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì
thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên
vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một
mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux
giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai
hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ
chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác
nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù
nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt
nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết.
Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc
lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau
chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang
trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng
bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me,
nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để
dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng
hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới như báo vồ mồi, vung đao
chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt... rất
thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật
bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau.
Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua Fanxica
bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng
đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân
yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập,
mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã
đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ
vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc
của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu với nhau một mất một còn
trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn
ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây, nhiều nơi trên thế giới
cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống như ông vua
Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt chó sói. "Người là
chó sói của người - homo homini lupus". Vì thế, con người không còn nhận
ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là kẻ thù cần tiêu diệt để
dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con
người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu có người tước súng đạn
của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu tịch
thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt nhau; Có
tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm đấm,
dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến tranh, tái lập hoà bình
cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng chiến và làm hòa lại với nhau
thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho đôi bên
biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt
con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài tuyên bố
trước toà Philatô: "Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này:
làm chứng cho sự thật". Sự thật quan trọng nhất của Chúa Giêsu là soi sáng
cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại
là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với nhau. Với sự thật nầy, mặt
nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên
khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa Giêsu mang đến. Chỉ có sự
thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại khỏi hận thù chiến tranh,
khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có sự thật nầy mới là động
cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh đệ.
20. Phục vụ.
Thế nào là một ông vua?
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là người nắm giữ mọi quyền hành
trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế, nhà vua dễ trở thành độc tài,
bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo chung tại hầu hết các
nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để chỉ một người thành
công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua bóng đá, vua dầu lửa,
vua xe hơi, vua leo núi…
Những ông vua thần tượng này thường được quần chúng ngưỡng mộ vì
tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân lý của họ lại khiến chúng ta
phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch sử có những bậc minh quân, thương dân như
thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi nhân loại đã bước qua
thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng định tôn Ngài lên
làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc La
mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi: - Vậy
ông là vua ư?
Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng xác nhận. Ngài chỉ bảo:
- Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập đến nước Ngài. Nếu như
chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là một vị vua rất đặc biệt,
không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, hoạt động thì nay đây mai
đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng chết đi trên thập giá. Và
như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội,
không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu
chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Và
hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên thập giá. Nhưng cũng chính
nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất, Thày sẽ kéo mọi sự lên
cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, nên
Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, chúng
ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài. Đây cũng chính là điều Ngài
mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa mà Ta còn rửa chân cho
các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành mà thống trị họ. Còn các
con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy trở nên rốt hết
và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà chúng ta trở nên ánh sáng,
trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm cho nước Chúa được trị đến.
21. Chân Lý – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Đaniel đã ngắm nhìn thị kiến về vương quốc vĩnh cửu. Vị
Bô Lão ban cho Con Người quyền năng, vinh dự và vương quốc. Mọi dân tộc sẽ qui
tụ về để phụng sự Ngài. Đây là thị kiến về ngày cánh chung. Không ai biết được
ngày giờ kết cùng của thế giới. Khi chúng ta có mặt ở đời, mọi sự đã có đó và
luôn chuyển động. Con người được thông dự sự sống với muôn loài và muôn vật.
Con người là loài cao quí được Thiên Chúa ban cho có hồn có xác. Xác hồn kết
hợp để hoàn thành sứ mệnh được trao ban.Chúng ta hiện hữu trên trần gian một
khoảnh khắc thời gian rồi lại trở về cát bụi. Tuy cuộc đời của chúng ta ngắn
ngủi phù du, thân xác sẽ tan biến nhưng linh hồn sẽ hiện hữu đến muôn đời. Mọi
sinh hoạt trong cuộc lữ hành trần thế sẽ dẫn bước chúng ta về chung hưởng hạnh
phúc bên Đấng quyền năng trong vương quốc của Ngài.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan cũng diễn tả về hình ảnh của
ngày cánh chung. Chúa Giêsu Kitô là thủ lãnh của các vua, Vua các vua và là
Đấng yêu thương đã hiến mình rửa sạch tội lỗi của chúng ta. Ngài là trưởng tử
những kẻ đã an giấc, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha: Ngài là
Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Chúng ta đặt niềm tin vào những lời
mạc khải của Con Thiên Chúa. Con người chúng ta bị giới hạn mọi mặt và tâm trí
không hiểu thấu những sự cao siêu. Ngay trong vũ trụ vật chất hiện hữu chung
quanh, con người cũng chỉ mới khám phá một chút ven bìa giới hạn của một số nhỏ
hành tinh. Tâm trí và giác quan của con người đắm chìm thưởng ngắm vũ trụ bao
la để nhận ra sự cao siêu vô lường của Tạo Hóa. Chúng ta chẳng biết đâu là bến
bờ. Thánh Gioan đã diễn tả về sự vô thủy vô chung của vũ trụ qua Đấng Toàn Năng
phán: Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thủy và cứu cánh (Kh 1, 8).
Kinh Thánh mạc khải giúp chúng ta hiểu được nguồn gốc của vũ trụ
và sự sống. Với những suy tư tìm tòi của con người qua mọi thời đại, nhân loại
vẫn còn lần mò trong đêm tối của vô minh. Những suy tư triết học, thần học và
khoa học chỉ trả lời một cách rất khiêm tốn về sự hiện hữu của vũ trụ và muôn
loài. Có nhiều giả thuyết tìm cách giải thích sự có mặt của vũ trụ theo thuyết
Tiến hóa, Ngẫu nhiên hoặc Tự nhiên hình thành. Các khoa học không thể giải đáp
một cách thỏa đáng cho những khao khát của tri thức con người muốn tìm hiểu về
cội nguồn. Trí khôn của con người không vượt qua được biên giới của sự hiện hữu
và chung cục. Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta về nguồn gốc và cứu cánh của vũ
trụ và con người. Đây là một chân lý cao siêu mà Chúa Giêsu đã làm chứng.
Đứng trước tòa án của Philatô, Chúa Giêsu đã phát biểu một cách
công khai: Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là chỉ để làm chứng cho Chân
lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tôi (Ga 18, 37). Lời của Chúa Giêsu là thần
trí và là sự sống. Ngài đến thế gian để làm chứng cho chân lý. Chân lý là sự
thật. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Sự thật nằm trong tâm
thiện. Lời sự thật là không quanh co, giả dối, lừa lọc, dối trá hay gian manh.
Đôi khi nói sự thật thì mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta
khỏi những ràng buộc bất công. Chúa Giêsu nói rằng ai thuộc về chân lý thì nghe
lời Ngài dạy. Chúng ta đã nhận lãnh Bí tích Rửa Tội để trở nên chi thể của
Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta thuộc về Chúa, như thế chúng ta cũng thuộc về
chân lý. Thuộc về chân lý thì phải suy nghĩ sự thật, phát biểu sự thật và hành
động trong sự thật.
Chúa Giêsu nhìn sự thật trong tận đáy tâm hồn mỗi người. Con
người thì thích phô trương và xuất hiện bên ngoài để kéo chú ý của người khác.
Giống như các mặt hàng cần quảng cáo ra thị trường, các tiếp viên đã tô điểm
bên ngoài, làm đẹp, chào hàng hấp dẫn để kéo lôi khách hàng. Cũng giống như các
chính trị gia đã không ngại dùng mọi thủ đọan để hứa hẹn, tô bóng và khuyến dụ
các cử tri dồn phiếu. Giữa sự xuất hiện bên ngoài và sự thật có một khoảng cách
xa. Có những người rất khôn khéo trong lời nói và thuyết phục đã kéo lôi được
nhiều thành viên. Sự dối trá ẩn nấp trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống.
Chúng ta cần sống trung thực qua ý tưởng, lời nói và việc làm: Nhưng hễ
"có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói
"không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37). Nhớ điều răn thứ
8 là chớ làm chứng dối.
Có một số cụm từ tiếng Anh mà người nói dối hay dùng: Never, khi
bị ai bắt gặp đang nhìn một cái gì không tốt và bị chất vấn, người đó liền chối
ngay là không bao giờ. That man/woman’, dùng chữ đó để diễn tả một sự xa cách
với người đó. ‘I would never do something like that’ tôi không bao giờ làm
những việc như thế. Yes, ma’ma, nếu một người nào không có lý do, tự dưng nói
mama với bạn, hãy cẩn thận. By the way, người nói dối dùng chữ này để người
khác chú ý hơn tới điều họ sẽ nói sau. ‘I know you think I’m lying, but…Tôi
biết bạn nghĩ rằng tôi đang nói dối, nhưng…Why would I do that?’What kind of
person do you think I am? Tự bào chữa bằng cách hỏi tại sao tôi làm thế? Bạn
nghĩ tôi là loại người nào? Người nói dối quanh qua, quẩn lại cũng chỉ là tránh
né vấn đề nói sự thật.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về cách đối xử trong thế
thái nhân tình. Người đời nói: Một sự bất tín vạn sự không tin. Trong dụ ngôn
những yến bạc rút ra cho chúng ta một bài học về sự tín trung và chân thật: Ông
chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được
giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng
niềm vui của chủ anh (Mt 25, 23). Sự chân thành là một đức tính tốt cần tu
luyện mỗi ngày. Người ta nói rằng khôn ba năm dại một giờ, đôi khi vì sự sa ngã
bất trung dại dột trong chốc lát mà mất cả chì lẫn chài. Đặc biệt trong đời
sống gia đình, vợ chồng cần trung tín và thành thật với nhau trong mối tương
giao. Chúng ta biết rằng mọi việc làm dối trá trong bóng tối rồi cũng sẽ có
ngày được phơi bày ra ánh sáng.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là nhân chứng cho sự thật. Sự
thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa là Thần Chân Lý. Chúa Giêsu đã
hứa cùng các môn đệ: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh
Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy
đã nói với anh em (Ga 14, 26). Sự thật thì rất đơn sơ, rõ ràng, trong sáng và
có tính thuyết phục. Sự thật không cần đối chất. Ai ở trong Chúa thì yêu mến sự
thật. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi những phiền muộn và lo lắng. Sống sự
thật là sống trong an lạc và hạnh phúc. Chúng ta có thể tìm kiếm chân lý qua
cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô: Ai thuộc về Chân lý thì nghe
tôi. Đáp lời hỏi của Philatô: Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?
" Đức Giêsu đáp: "Quan nói đúng: Tôi là Vua (Ga 18, 37). Chúa Giêsu
chính là Vua vũ trụ, Vua muôn vua.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến để khai mở tâm trí chúng
con, để chúng con biết suy tưởng sự thật, loan truyền sự thật và sống sự thật.
Xin cho chúng con tìm đến sự thật tuyệt đối nơi thập giá Chúa Kitô. Từ thánh
giá Chúa, chúng con sẽ được múc tận nguồn ơn tha thứ và lòng thương xót.
22. Vua sự thật.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không? Ngài là vua theo nghĩa
nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó trong phiên tòa Rôma xử
án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là ông quan của đế quốc Rôma
đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở dưới quyền đô hộ của người
Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu Chúa đến đây để xin Philatô
xét xử.
Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do thái không?”. Để
trả lời, Chúa hỏi lại: “Ngài tự ý nói điều ấy hay những người khác đã nói với
ngài về tôi?” Hỏi như vậy là Chúa muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu
Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô muốn hỏi: “Anh có phải là tay lãnh tụ
chính trị, dám chống lại chính quyền Rôma không?”. Đối với Philatô, là vua Do
thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là “không”.
Ngài không phải là vua theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà
lãnh đạo Do thái nhắc nhở cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do
thái như Thiên Chúa đã hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa
là “có”. Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà
còn là vua của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng
mọi người, chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế,
vương quyền của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế,
không dùng phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện
thực thi vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính
chúa đã khẳng định với Philatô: “Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian
này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết: Chúa Giêsu là vua. Ngài là
vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô đã hỏi Chúa Giêsu điều đó. Chúa không
đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài đang thực hiện trước tổng trấn.
Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ. Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương
nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội cho nhân loại. Sự thật là như thế.
Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa muốn làm chứng và muốn nói tới. Và
giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này: các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng
thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong
phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng đường thánh giá… Tất cả đều nói lên
tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người, chỉ cần con người đón
nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát tình yêu cứu độ. Và bằng
tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những người chung quanh. Sự thật
cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực hiện thật là phức tạp và khó
khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì cuộc sống tất bật, chật vật,
đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ
nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà
ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều
khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa. Như vậy, chúng ta chưa sống sự
thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa làm chứng cho sự thật cứu độ.
Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua, thì chúng ta là dân của
Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng ta là dân sự thật của
Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống chúng ta có rất nhiều
dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước, nói có hay không dứt
khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng ta trả lời “có” cho
một người, tức là chúng ta trả lời “không” cho người khác. Khi chúng ta trả lời
“có” cho Thiên Chúa, là chúng ta trả lời “không” cho ma quỉ cám dỗ. Không thể
có trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối.
Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực
hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng,
dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự thật: phải giữ thành thật
trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm chứng dối, thề gian, bỏ vạ,
cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta. Không được xét đoán vô căn
cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những lời gây thiệt hại danh dự
của người khác… cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm biện hộ cho sự thật khi cần
đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái,
yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện… có
lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai, là một người lội ngược dòng nước
cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương
lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải vác hàng ngày. Chúng ta phải trở
nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng cuộc sống chứng nhân trung thực
cho Chúa Giêsu Kitô.
23. Xét xử.
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm phụng vụ, chúng ta tự
nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự phán xét mỗi người chúng
ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức ngạc nhiên, bởi vì ở đây
người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra trường hợp bị cáo là chính
quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward, một người Anh 19 tuổi mà
ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã giết chết một em bé tám tháng
tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc. Nhưng nhiều người theo dõi vụ
án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta cho rằng cô đã giết em bé vì
lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và ban bồi thẩm khó có thể tìm
ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo. Nhưng giờ đây mọi tập trung
đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại bản án. Trong lúc chờ đợi
quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính cách của ông. Người ta
nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người không bị dư luận làm dao
động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến sẽ cho biết những nhận
xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay đổi bản án của ban bồi thẩm
là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng một em bé đã chết và Louise đã
bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã
phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được trả tự do. Trong con mắt của những
quan sát viên trung lập, bản án của ông là đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của
quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng tỏ là một người quan tâm đến công lý
với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng hôm nay. Đơn độc và không
vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên quan đến mạng sống của
Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo trộn trong dân, và nói
với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức Giêsu vô tội. Ông còn
tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn
giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ báo cáo lên Rôma việc
ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu qua Philatô. Giờ đây
Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải được thực hiện không?
Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông bằng cách bảo đảm rằng
Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu tranh với điều đó.
Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ kết án Đức Giêsu.
Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho thả Baraba. Khi điều
này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai đem nước để rửa tay với hy
vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu vô tội. Sau cùng ông là
người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể trả tự do cho Đức Giêsu.
Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một người vô tội nhất bước
đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của Philatô tương phản với sự
can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị thường bị những áp lực tương
tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi nhiệm họ nếu họ không theo đường
lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta
thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi thái độ của chúng ta đối
với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về phía Đức Kitô và vương
quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo con đường trốn tránh
và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông là người xét xử chính mình. Chúng ta cũng
xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối cùng. Phán xét xảy ra ngay
bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ. Trước khi kết thúc, người
ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn theo hoặc chống chính mình
hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự phán xét của Thiên Chúa sẽ
không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên rằng tình yêu và lòng
thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu không nói để chúng ta
sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và vương quốc của Người. Hãy
để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và bằng những phương thế nhỏ bé
hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương quốc của chân lý và sự sống,
sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hòa bình.
24. Đức Kitô – Vua Niềm Tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, tiếp nối qua hành
trình rao giảng Tin mừng rồi cuộc Tử nạn, Phục sinh và kết thúc bằng vương
quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời
gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi
đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ,
Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời
gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa
Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Việc tuyên xưng Đức
Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
1. Vua Trong Lịch Sử
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Quân chủ (Vua cai trị)
không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng "làm kiểng" như ở Thái
Lan, Anh Quốc, Nhật Bản... không có thực quyền.
Trong lịch sử loài người, có một số vị vua có tài, giỏi đánh
giặc và trị nước, nhưng hầu hết các vị vua đều độc tài độc đoán (vì cha truyền
con nối), không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, chẳng
quan tâm đến bá tánh. Các vị vua bên Tàu còn tự xưng mình là Thiên tử (con
Trời) nên làm trời con, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì
người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua La mã tự
xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì tham lam, ích kỷ, dâm ô. Khi
đã chiếm được ngai vàng, họ coi thần dân như bầy tôi, giang sơn đất nước là tài
sản riêng của họ: "Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm". Nghi ngờ
kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc và còn tru di cả tam tộc cửu tộc
nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, phải chiến tranh giành giật đẫm máu. Đọc
lịch sử Việt Nam, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê... toàn là
máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ
năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm. Năm 1945, vị vua cuối cùng
của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị.
2. Vua Trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước công nguyên, dân Israel có vua
cai trị giống như các dân khác.
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavit và Salômôn.
Giavê Thiên Chúa, qua ngôn sứ Samuel đã cảnh cáo dân rằng:
- "Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại
Ta." (1S 15, 10).
- "Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel...
Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người
xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi." (2S 12, 9).
- Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11, 3). Ông
đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các bà vợ. Giavê phán với Salômôn:
"Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của
ngươi." (1V 11, 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là
Hêrôđê: "Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng
Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12, 6).
3. Đức Giêsu Kitô, Vua Niềm Tin
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài không làm vua
theo kiểu vua chúa trần gian. Ngài cũng không làm vua một lãnh vực kinh tế nào.
Đức Giêsu là Vua Niềm Tin. Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật.
"Tôi đến để làm chứng cho sự thật". Sự thật mà Ngài tuyên bố, đó là ý
định cứu rỗi của Chúa Cha: Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài đến để cứu độ thế
gian.
Đức Giêsu thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu bằng
niềm tin và tình yêu trong sự thật.
Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Sau
phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài
trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: "Chúng tôi có phải nộp
thuế cho Xêza không?" Đức Giêsu đáp: "Của Xêza hãy trả cho Xêza, của
Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa".
Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu:
"Ông có phải là vua dân Do thái không?". Người đã trả lời: "Nước
tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục
đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Nước Chúa không thuộc về thế gian. Nước Chúa ở trong các tâm hồn khao khát sự thật,
tôn trọng sự thật, đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Đức Giêsu
đem đến cho nhân loại.
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm
tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác
biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza
chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn tấm lòng
người. Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức
Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị
giới hạn. Vương quốc của Vua Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều
đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng chấm dứt trong dòng thời gian như đế
quốc của Xêza. Vương quốc sự thật, niềm tin tồn tại muôn đời.
Trong vương quốc niềm tin, con người tiếp nhận sự sống từ chính
nguốn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời. Thiếu ánh
sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất.Thiên Chúa thông ban sự sống
cho con người vì Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa yêu thương mọi người
ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài. Con người là hình ảnh cao quý của
Thiên Chúa. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù
địch, mỗi người đều là hình ảnh Thiên Chúa.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội hôm nay phải chăng là
khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhận định: "Chúng ta đang phải
đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý thức tôn giáo là
điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với Giáo Hội ngày
nay" (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-2011).
Theo Đức Thánh Cha, nguyên nhân sâu xa của những thách thức đối với Giáo Hội
ngày nay là khủng hoảng Đức Tin. Hơn bao giờ hết, con người cần có Thiên Chúa;
nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục. Có lẽ đây là một
trong những lý do chính mà Ngài quyết định mở Năm Đức Tin cho toàn thể Giáo Hội
hoàn vũ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 14-11-2012, Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI tiếp tục loạt bài giáo lý về Năm Đức Tin. Thế kỷ trước, chúng ta
đã chứng kiến sự lớn mạnh và phát triển của chủ nghĩa tục hóa, nhân danh con
người có quyền tự chủ tuyệt đối, coi tục hóa là một giải pháp và sự sáng tạo
đối với hiện thực. Ngày nay, đức tin đang phải đối diện với những khó khăn, đó
là "ít hiểu biết về đức tin, đức tin bị thử thách và chối từ đức
tin". Chủ nghĩa vô thần 'thực dụng' là một hiện tượng nguy hại cho đức
tin.
Đức Thánh Cha mô tả về ba con đường nhận biết Thiên Chúa: thế
giới, con người và đức tin.
- 'thế giới': liên quan đến việc "giúp con người ngày nay
phục hồi khả năng chiêm ngưỡng vẻ đẹp và cấu trúc của công trình sáng thế. Thế
giới này không phải là một khối hỗn mang không có hình dạng, nhưng càng tìm hiểu,
càng khám phá cơ chế lý thú của nó, càng ngắm kỹ một mẫu hình, chúng ta càng
thấy đó là cả một trí tuệ sáng tạo".
- 'con người'. Thánh Augustinô từng nói: "Chân lý cư ngụ
trong trái tim con người". Theo ĐTC, "đây là một khía cạnh khác, ngày
nay trong một thế giới ồn ào, làm chúng ta bị phân tâm, chúng ta có nguy cơ
đánh mất khả năng dừng lại và nhìn sâu vào nội tâm mình".
- 'đức tin': đây không chỉ đơn giản là một "hệ thống những
giá trị, những lựa chọn và hành động", nhưng "là sự gặp gỡ Thiên
Chúa, Đấng đang nói và hành động trong lịch sử, Đấng biến đổi cuộc sống hằng
ngày của chúng ta, biến đổi suy nghĩ, các giá trị, những lựa chọn và hành động
của chúng ta". Ngài kết luận: "Đức tin không phải ảo tưởng, là trốn
chạy cuộc sống, là nơi tạm trú đủ tiện nghi, là cảm xúc; nhưng là sự dấn thân
vào mọi khía cạnh của cuộc sống và loan báo Tin Mừng, Tin Vui đem lại giải
thoát mọi điều thuộc về con người".(Theo Alessandro Speciale, Vatican
Insider, 14-11-2012; WHĐ).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu?.
Đó là câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng
trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm
thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng đức tin.
Đức tin là một sự sống. Khi thể hiện niềm tin bằng cuộc sống,
tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của Đức Kitô.Ánh sáng
đức tin hướng dẫn nhân loại đến yêu thương và phục vụ. Khi con người biết sống
cho người khác họ sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc
sống. Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong
vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Ở Vũng Tàu, có tượng Chúa Kitô Vua thật lớn đứng trên núi cao
nhìn về biển đông, đôi tay giang rộng như ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân ra
khơi, nhìn lên tượng Chúa để xác định phương hướng. Khi gặp sóng gió, họ cũng
hướng về tượng Chúa để cầu nguyện xin ơn.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Vua niềm tin, chúng ta trọn một
niềm xác tín, Chúa Kitô là trung tâm lịch sử cứu độ là chuẩn đích cho chúng ta
định hướng với tin yêu và hy vọng. Hãy để cho Chúa chiếm trọn tất cả con người
mình, tư tưởng, lời nói, việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của
bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền
của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự
thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
25. Chú giải của Noel Quesson.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Sau diễn từ cuối
cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu loan báo rằng, giữa “thời
tai họa”, Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài người để hưởng “một mùa hè tươi
đẹp” Đức Giêsu đề cập đến cái chết của người và Người bước vào cuộc thương khó:
Đó là phần kết và là đỉnh cao của "Tin Mừng" theo Thánh Máccô, mà
chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay đổi thánh sử. Đây là một
trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta vẫn ở trong cùng một
mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ đưa ra tước hiệu là
Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng nhiên, liên tiếp
ông nói về "Vua”, "Vương quyền" (Ga 18,33.36.37.39;
19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà vương miện của
Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là "Vương quyền" của Đức
Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người:
"Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa. Phiên xử này là phiên xử
danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của đạo quân La Mã đang chiếm
đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng đô hộ và để dấu ấn trên
thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây Ban ba, Anh và một phần
nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri, Libăng, Palextin, Ai
Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy giờ là Tibêriô, thừa kế
của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ chận đứng những vụ nổi loạn
thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên thập giá người Dêlôtê ngoài
cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập giá, để áp đặt quyền lực của La
Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một "ông Giêsu nào
đó" Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị và âm thầm tại
Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa chăng mới có
một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai người đối diện; Philatô và Chúa Giêsu, quan
tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây giờ lại "hạch hỏi
quan tòa". Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo bạo thật, người bị cáo
đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác
đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết rằng quan tòa này là toàn
quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá nhân, cố dẫn ông ra khỏi
một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường của riêng ông, "này,
ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua không?". Phần lớn các vấn
đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành chánh hóa của chúng ta có lẽ đang
nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu, một con người đang- cố thoát khỏi
mối liên hệ "quan tòa - bị cáo" để bước sang tương quan "người
và người". Chúng ta không ngừng đóng những vai trò" và ưa đeo mặt nạ:
Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân, thông gia - khách hàng, trợ lý xã hội với người
được trợ giúp linh mục - con chiên, cha mẹ - con cái, thầy dạy - học trò, Giáo
Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn
thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì về Ta? ông đừng trả lời những bài đã
học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập trường. Chính ông phải "tuyên xưng
Đức tin".
Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Do thái sao? Chính dân
của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông ta có ý tiến công. Ông ta
khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm mình. ông quyết định trở lại
với vai trò, với “mặt nạ" của mình. Tôi không phải ngồi đây để nói tôi
nghĩ gì mà là để xử vụ án. "Ông đã làm gì?" Đức Giêsu đã cố gặp “một
người". Nhưng Philatô đóng vai trò "một nhân vật" Dù sao thì
Philatô cũng đang "thống trị ", chính ông mới có uy quyền. Người thợ
ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt César. Ai có thể nói hôm đó rằng,
không phải là César, với gót giày của đạo quân bách chiến bách thắng, sẽ trở
nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng lại là anh thợ mộc thấp bé, bị
khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một nhân loại mới cho nhiều ngàn
năm.
Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi
bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của quan tòa "ông đã làm
gì?". Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối thoại nhưng chỉ hướng
cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về tước hiệu "Vua” mà
Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách làm “Vua". 1. Vua theo
nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ
hóa họ.
2. Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu mong đợi của dân Do Thái:
Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên ngôi, và chiến thắng kẻ thù
của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo cách của Đức Giêsu: Một vương quyền huyền
bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai "bạn có muốn theo tôi không?"
"Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?". Một vương quyền mà lại để
"Vua" bị "Giao nộp" cho kẻ thù mà không kháng cự một tổng
thống mà không có “vê binh" để bảo vệ mình, không có cận vệ để bao bọc
trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi một cách ngây ngô xem Đức
Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có "Toàn quyền":
Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ, đã chế ngự biển khơii
đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái với một uy quyền không
ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được hoàn toàn tự do, mà còn
tự "Giao nộp" để cho chúng ta tấn công Người. (Tôi suy niệm về từ
"Giao nộp” mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức Giêsu là chính dung mạo của
Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2 Cr 4,4). "Kẻ nào thấy
Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,8-11; Cl 1,15). Không ai đã thấy được Thiên
Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng ta" (Ga 1,18). Trong nội
dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã
không ngừng nói về "Nước Trời", "Nước của Thiên Chúa",
nhưng đó không phải là một vương quốc như những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt cải nhỏ bé sẽ trở nên
một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột, như hạt lúa mì chết
đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là "Vua", vâng,
nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng
tượng Thiên Chúa "trị vì", Thánh Vịnh đã hát lên như thế (Tv 46,9;
54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện
với Chúa Cha "Xin cho Nước Cha trị đến". Thiên Chúa không đè bẹp kẻ
thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc con Người phải tin nơi Người. Người
cho mặt trời mọc lên trên cả người công chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác
cũng như người lành, trên người vô thần cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48).
Thiên Chúa yêu thương những người không yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng
ta cũng làm như vậy. Người không phải là "Vua"! Không, tuyệt đối
không phải là "Vua"! Người không giống bất cứ một ông Vua nào của
trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương quyền của Người với tất cả
vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố Người là Vua..., bởi vì từ
bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa của vương quyền nữa. Vương
quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ "nơi khác" đến.
Người cảm thấy không cần nói rõ "nơi khác" mà từ đó Người đến. Người
ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển trị. Cái nghịch lý của
"nơi khác" thần thiêng này là Vinh quang của Người không thể bị suy
giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian. Vương quyền (thần thiêng!)
của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể xác. Vinh quang của Người
là vinh quang được “nâng lên khỏi mặt đất" trên thập giá, và lên ngự bên
phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ "ông” được đặt sau
động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa: “Vua ông".
Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người ta sắp xóa bỏ bằng một
nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là người tù đáng thương
không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh
ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.
“Đã đến". Người đã nói "Tôi đã đến", từ một ‘nơi
khác’, đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa nhật này, chúng ta đã nghe
Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là "nhân chứng trung thực". Chữ
"Chứng nhân" này dịch từ chữ Hy Lạp "Martyr" do đó có chữ
Pháp là "Martyr" có nghĩa tử đạo.
Người đã trả giá cho vương quyền của Người! cho việc làm chứng
của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua hệ tại điều gì? Đó là quy
tụ lại để cùng lắng nghe "một giọng nói" tất cả những ai thuộc về sự
thật". Người "trị vì" nhờ Đức tin mà chúng ta dâng cho Người,
nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của Người, nhờ nếp sống hằng ngày
của chúng ta luôn phù hợp với "Tiếng nói của Người. Không ai có thể thoát
khỏi "Vương quyền" này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái độ theo hay chống lại
"Sự thật". Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không phải là đốt hương trầm
cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng mừng Người, giống như
những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng chính là lắng nghe
tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp và
xã hội hoàn toàn phù hợp với "Tiếng nói đó"