NGÀY 7 THÁNG 10
ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lễ Nhớ
BÀI ĐỌC: Cv 1, 12-14
12 Sau khi Đức Giê-su được rước lên Trời, các Tông Đồ từ núi gọi
là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường
được phép đi trong ngày sa-bát. 13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các
ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê,
Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá
Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. 14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên
cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su,
và với anh em của Đức Giê-su.
(hoặc Gl 4, 4-7):
4 Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai
Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,5 để chuộc
những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng
thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong
lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi! "7 Vậy anh em
không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa
kế, nhờ Thiên Chúa.
ĐÁP CA: Lc 1
Đ. Đấng
Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn! (c 49)
danh Người thật chí thánh chí tôn! (c 49)
46 "Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa,
Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ
hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người
thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới
đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. 51 Chúa giơ tay
biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ
những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 53 Kẻ đói
nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì
Ít-ra-en, tôi tớ của Người. 55 Như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ
lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Lc 1, 28
Hall-Hall: Kính chào Đức Ma-ri-a, Mẹ đầy ân sủng, Thiên Chúa ở
cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn mọi người phụ nữ. Hall.
TIN MỪNG: Lc 1, 26-38
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ
thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một
trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh
nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng
đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào
như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp
lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng
Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên
Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và
triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào,
vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" 35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh
ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy
già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là
hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được.”
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
MẦU NHIỆM ĐỨC MARIA
A. LỊCH SỬ LỄ MÂN CÔI.
(phần lịch sử này
dựa trên tài liệu:
-
M. Gorce La
Religion Poétique Populaire du Moyer Age. Trong tập Histoire Général des
religions tome Christiamisme nedieval Aritide Quillet, Paris 1947 tr 51-71.
-
Marcel Mahé
aux sources de notre Rosaire suppléments de la vie Spiritualle 1951 tr 101-120)
1/ TẠI SAO KINH KÍNH MỪNG LẠI
GỌI LÀ KINH MÂN CÔI (HOA HỒNG)?
Từ thế kỷ thứ 11 về trước, Hội Thánh
không đọc kinh Kính Mừng. Kinh Kính Mừng phát sinh từ lòng đạo đức bình dân của
quần chúng. Thực vậy, từ thế kỷ thứ 11 đến 13, những nhà quý phái đua nhau xây
những đại Giáo Đường nguy nga, các Hiền triết, các nhà Thần học đua nhau xuất
bản những pho sách về Thần học, về Đạo đức dày cộm. Tất cả những hiện tượng ấy
nói lên phần nào lòng mến, lòng đạo đức của Hội Thánh trong thời kỳ hoàng kim. Thế
thì giới bình dân họ phải làm gì? Họ nảy sinh ra một sáng kiến là thi nhau hái
hoa hồng kết thành những vòng hoa, cùng với những bài thi ca bình dân nói lên
niềm vui của ơn cứu độ. Nếu việc hái hoa hồng trải qua những khó khăn vì gai
góc, nhưng lại nói lên loài hoa biểu tượng cho một niềm vui dạt dào và cao
thượng, thì đó không phải là tâm tình đạo đức của người bình dân biểu tượng cho
ơn cứu độ trải qua thập giá đến vinh quang, mà Hội Thánh đang trong thời kỳ
phồn thịnh đó hay sao? Người ta còn tìm thấy một vài kinh cổ nói lên niềm vui
hoa hồng của ơn cứu độ.
Thí dụ:
·
Lời kinh của cộng đoàn Avignon:
“Hoa chóng tàn, vui trần thế
mau qua,
Ta hãy hái hoa dâng Mẹ hiền,
Để mai sau được hưởng phúc
vinh,
Hoa hồng thiêng chẳng khi tàn,
Mẹ là bông hoa là vườn hồng,
Mẹ là đấng nơi đó ngự trị,
Sự dịu dàng vượt trên mọi dịu
dàng,
Mẹ là đấng nơi đó bừng nở,
Sắc đẹp chẳng tàn phai.”
·
Bài dân ca Đức:
“Người ta gọi Mẹ là vườn hồng,
thật là chí lý.
Tất cả các con hãy đến cùng Mẹ,
Mẹ sẽ nhận lời các con.”
Như vậy truyền thống dâng hoa đã
khởi đi từ lòng đạo đức của giới bình dân vào những thế kỷ này…
Câu chuyện truyền khẩu về anh lái
buôn có lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn được cùng với mọi người hái hoa kết
tràng dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền
nghĩ ra một cách làm bù trừ, là thay vì hái hoa đưa đến Nhà Thờ dâng Mẹ, nói
lên niềm vui cứu độ loài người, nhờ Đức Mẹ khởi đầu từ biến cố Truyền Tin, anh
đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin cho Đức Mẹ, cũng là
ngày khơi mào ơn cứu độ cho cả nhân loại. Anh nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những
lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ. Sáng kiến ấy dần dần đã
lan rộng tới nhiều người,không những đối với những người bận rộn, không đến
Thánh Đường được, mà còn cả với những người có điều kiện hái hoa hồng dâng Mẹ. Vì
dầu sao việc đọc những lời đó vẫn mang nội dung niềm vui sâu sắc hơn là cử chỉ
bên ngoài hái hoa hồng dâng Mẹ.
Đó là gốc tích người ta gọi kinh
Kính Mừng là kinh Mân Côi.
2/ TẠI SAO LẠI CÓ TRÀNG HẠT GỒM
NĂM NGẮM?
Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu
gốc tích của tràng hạt từ những tôn giáo nào ảnh hưởng qua, bởi vì không phải
chỉ có Công Giáo có tràng hạt, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên,con số
năm ngắm được tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên
Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
3/ TẠI SAO LẠI CÓ TRÀNG HẠT
MƯỜI LĂM NGẮM?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh
(1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng
Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở mồ lạnh,
nhưng phải đạt tới sống lại vinh quang để lên Trời. Nỗ lực của thánh Vinh Sơn
Ferrier dường như đã không thành công, vì không được phổ biến sâu rộng trong
Giáo Hội, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi có thể diễn tả được niềm vui
này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ qua chữ “KAIRE”
mà sứ thần chào Đức Maria.
Để nói trọn niềm vui ơn cứu độ ấy,
người ta thấy không thể giản lược vào năm biến cố lớn của năm ngắm đã có sẵn. Cho
nên Đan Viện Sallay ở thế kỷ 13 lại nghĩ đến nhiều biến cố khác trong chương
trình cứu độ, để tương xứng con số 15: Sinh Nhật Đức Mẹ, cuộc đời Đức Mẹ,
Truyền Tin cho Đức Mẹ, Đức Mẹ thụ thai, Đức Mẹ Thăm Viếng, Đức Mẹ sinh Chúa
Giêsu, ba vua đến triều bái Hài Nhi, Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền Thờ, Đức Mẹ tìm
thấy Chúa Giêsu trong Đền Thờ, dấu lạ Cana có Mẹ can thiệp, Đức Mẹ đứng dưới
chân thập giá, Phục Sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Đức Mẹ lên Trời.
4/ TẠI SAO LẠI CÓ BA MÙA VUI –
THƯƠNG – MỪNG?
Cách chia này do Alain de la Roche
(1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569.
Như đã nói, kinh Kính Mừng là niềm
vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui); Tử Nạn
(Thương); đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ta để ý dù đọc ba Mùa với mầu nhiệm
khác nhau, nhưng trong mỗi Mùa, kinh Kính Mừng đã không lấy một phần tương ứng
với mầu nhiệm Thương và Mừng, mà chỉ lấy một đoạn Thánh Kinh tương ứng với mùa
Vui (mầu nhiệm Nhập Thể). Điều này nhấn mạnh ta phải tin rằng, muốn được hưởng niềm vui ơn cứu độ, con
người phải sống mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Bởi vì nếu ta chỉ nói Chúa Giêsu
đã Chết và Phục Sinh để cứu ta, thì đó mới chỉ là nặng phần pháp lý, cho dù
Chúa Giêsu đã Chết và Phục Sinh, mà chúng ta không để cho Lời Chúa nhập thể,
hay chúng ta không sống Lời Chúa, thì việc Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu đâu
có cứu nổi chúng ta!
Ví dụ: Một người cha cho con đầy đủ
phương tiện: xe, tiền, để con học thành bác sĩ. Thế nhưng người con đã lạm dụng
qua mặt cha kết băng đảng chơi xì-ke, ma túy, rồi sinh trộm cắp giết người. Cuối
cùng nó bị bắt lãnh án tử. Nếu người cha không hết lòng thương con,ông sẽ nói:
“Mặc xác nó, cho nó chết!” Nhưng nếu ông thương con, ông nhận tội trước pháp
luật và xin thế mạng ông để con được sống tự do. Nếu người con nhận ra tình
thương của cha, nó hối cải và sống như cha nó muốn, thì nó được cứu; trái lại,
nếu nó được tự do lại trở về đường tội lỗi như trước, chắc chắn pháp luật không
tha chết cho nó. Thế thì cái chết của người cha đã trở nên vô ích đối với nó!
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong
Tông Thư đề ngày 16-10-2002 gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” có
thêm năm ngắm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu
chuộc loài người:
-
Một là Đức
Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan (x Mt 3,13-17).
-
Hai là tiệc
cưới tại Cana (x Ga 2,1-11).
-
Ba là công bố
Tin Mừng kêu gọi sám hối (x Mc 1,15).
-
Bốn là Đức
Giêsu Hiển Dung (x Mt 17,1-8).
-
Năm là Đức
Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (x Lc 22,14-20).
5/ TẠI SAO ĐỌC 15O KINH KÍNH
MỪNG?
Từ trước Công Đồng Vat. II chỉ có
hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham
dự giờ Kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong
lịch sử. Thí dụ ta đọc Tv 51/50,7: “Từ
trong lòng mẹ tôi đã là kẻ bất lương”, thì chúng ta liên tưởng ngay đến con
của bà Thamar tranh nhau quyền trưởng nam ngay trong lòng mẹ ( x St 38); ta đọc
Tv 19/18,2: “Trời xanh tường thuật vinh
quang Thiên Chúa…”, đương nhiên ta nhớ đến cuộc tạo dựng muôn vật kỳ diệu
của Thiên Chúa (x St 1).
Như thế, đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ
Thánh Kinh, suy gẫm toàn bộ biến cố Mạc Khải.
Vậy người giáo dân không có điều
kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn
cứu độ do Đức Maria khai mào đã được trải rộng toàn bộ kho tàng Mạc Khải. Nhưng
nay trình độ văn hóa loài người đa số không còn mù chữ, việc in ấn sách vở lại thuận
tiện, nên Hội Thánh muốn nâng cao Đức Tin, lòng Mến của người tín hữu, cũng là
con Mẹ Maria, đã khuyến khích cổ võ và thiết tha mời gọi mọi tín hữu hãy cùng
với hàng giáo sĩ cầu nguyện bằng Kinh Phụng Vụ. Giáo huấn của Công Đồng Vat. II,
trong Hiến Chế Phụng Vụ số 84 dạy: “Kinh Phụng Vụ được lập ra để thánh hiến trọn
ngày đêm, bằng lời ngợi khen
Thiên Chúa. Các Kitô hữu hãy hợp cùng Linh mục cầu nguyện theo thể thức đã được
chuẩn nhận, thì thực là tiếng của chính
Hiền Thê nói với Đấng Phu Quân của mình, và hơn thế nữa còn là lời cầu
nguyện của Chúa Kitô và Thân Thể Người dâng lên Chúa Cha.”
Như thế ta có thể nói rằng: Giáo dân
khi có điều kiện cầu nguyện bằng Kinh Phụng Vụ mà lại bỏ đi lần Hạt Mân Côi,thì
chắc chắn càng lần Hạt nhiều,thì Mẹ Maria càng “nhăn mặt”; hoặc nếu chủ chăn
không tạo điều kiện cho giáo dân cùng dự Kinh Phụng Vụ với mình, thì chắc chắn
Chúa và Mẹ sẽ hỏi: “Giáo dân của con đâu?”Trừ khi giáo dân và hàng giáo sĩ
không có điều kiện để cùng chung lời cầu này.
6/ THÁNH ĐAMINH VỚI KINH KÍNH
MỪNG.
Người ta vẫn truyền tụng phép lạ Đức
Mẹ trao tràng hạt cho thánh Đaminh cổ võ, nhưng thực ra phép lạ này có lẽ phát
xuất từ lòng sùng kính và cổ võ kinh Mân Côi hơn là chứng tích lịch sử. Về
phương diện lịch sử thì không ai chối cãi thánh Đaminh có công lớn trong việc
cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi, bởi vì vào thế kỷ 13, trước hiểm họa của bè
rối Albigeois, thì việc canh tân và cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi như một
liều thuốc chữa trị bệnh thời đại. Ta biết bè rối Albigeois chủ trương thuyết
Nhị Nguyên, nghĩa là trong vũ trụ có hai nguyên nhân: sự ác và sự thiện luôn
luôn đấu tranh và dày vò con người, con người không còn tự do để chọn lựa, và
người ta thấy cuộc đời là bao trùm một sự bi đát, bởi vì ai cũng cảm thấy thế, kể
cả thánh Phaolô: “Điều tốt tôi muốn, tôi
không làm, tôi cứ làm điều tôi ghét” (Rm 7,19).
Vì thế,thánh Đaminh lợi dụng những
buổi tập họp của dân chúng kết hoa dâng Đức Mẹ, hát những bài ca bình dân, thì ngài
đã biến những ngày vui này thành những
buổi suy niệm Lời Chúa. Bởi vì trong lịch sử từ những điểm của 15 ngắm Vui
– Thương – Mừng, 150 kinh đều đã hướng lòng người giáo dân về toàn bộ Mạc Khải,cho
nên thánh Đaminh đã xen vào những buổi
cầu nguyện dâng hoa này bằng những giờ đào sâu Thánh Kinh để hiểu rõ về ý định
của Thiên Chúa,nhất là đào sâu mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Hai là thuần Thần
đã nhập thể dưới dạng một con người, nhờ vật chất để nâng cao con người từ cảnh
tầm thường vươn đến niềm vui ơn cứu độ, đó là liều thuốc chữa trị tư tưởng của
bè rối đang lan truyền khắp nơi. Nếu thánh Đaminh cổ võ sự sùng kính Đức Mẹ
trong lãnh vực này, thì ta còn phải hiểu ngài đã có ý nhắc đến Đức Mẹ là Mẹ của
Hội Thánh, chắc chắn Mẹ bầu cử và dẫn dắt con cái mình khỏi rơi vào lạc giáo mà
đi vào giáo lý truyền thống của Hội Thánh được trình bày qua những buổi suy
niệm Lời Chúa.
Nhất là những người vẫn đọc kinh Kính Mừng, họ tin rằng ngày nay trên trần thế
chào mừng Đức Mẹ bằng lời “Kính Mừng Maria”, thì mai sau đến cửa Trời họ cũng được Đức Mẹ chào mừng họ: “Kaire”
(Vui lên) và dẫn họ vào Vườn Hồng Thiên Quốc. Từ đó họ phát sinh lời cầu
nguyện hướng về giờ lâm tử: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng
con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm
tử.”
B. TIẾN TRÌNH TRONG PHỤNG VỤ
VỀ NGÀY LỄ MẸ MÂN CÔI
VỀ NGÀY LỄ MẸ MÂN CÔI
-
Đức Giáo
hoàng Pio V ấn định mừng lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 để nhớ ơn Đức Mẹ
đã ủng hộ đoàn quân của Giáo Hội thắng quân Hồi Giáo của Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh
Lepante.
-
Đức Giáo
hoàng Grégorio XIII lại giới hạn chỉ cho một số Nhà Thờ trong Giáo Hội kính lễ
Mẹ Mân Côi hằng năm bắt đầu từ năm 1716.
-
Đức Giáo
hoàng Clémente XI lại buộc tất cả các Nhà Thờ trong Giáo Hội mừng lễ Mân Côi.
-
Đức Giáo
hoàng Lêo XIII đặt lễ Đức Mẹ Mân Côi là lễ Kính.
-
Từ Công Đồng
Vat. II, Giáo Hội đặt lễ Mân Côi là lễ Nhớ.
Ta biết, lễ Chúa nhật là trung tâm
Phụng Vụ, là đỉnh cao ơn cứu độ, còn các Lễ khác diễn tả về mầu nhiệm ơn cứu độ
nhiều hay ít thì được phân chia theo cấp bậc: Lễ nào diễn tả nhiều nhất thì
được gọi là lễ Trọng; Lễ nào kém hơn thì được gọi là lễ Kính; và Lễ nào diễn tả
ít thì được gọi là lễ Nhớ, quen gọi là Lễ bậc nhất, bậc nhì và bậc ba. Ngày nay
toàn thể Giáo Hội địa phương trong mỗi quốc gia đều mừng Đức Mẹ Mân Côi là lễ
Nhớ, lễ bậc ba, trừ có Giáo Hội Việt Nam thì xin được đặc cách gọi là lễ Trọng,
được phép mừng vào ngày Chúa nhật!
C. SỨ MỆNH CỦA ĐỨC MARIA
ĐƯỢC TIỀM ẨN TRONG CỰU ƯỚC
ĐƯỢC TIỀM ẨN TRONG CỰU ƯỚC
Ta biết “giá trị của Cựu Ước được thể hiện
trong Tân Ước và giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước” (Hiến
Chế Mạc Khải số 16). Bởi thế, sứ mệnh của Đức Maria đã được tiềm ẩn trong Cựu
Ước như sau:
1- Mẹ Maria là Eva Mới.
Eva thuở xưa vì không vâng Lời Chúa, nên gieo sự chết vào dòng giống
mình; trái lại, Đức Maria tuyệt đối vâng Lời Chúa, để quyền năng Lời Chúa thực
hiện nơi Mẹ điều đã được nghe (x Lc 1,38), thì Mẹ đã cởi nút thắt cổ do bà Eva
xưa cột nơi dòng giống, để cho những ai được sinh lại trong Chúa Giêsu làm con Chúa
cũng là con Đức Mẹ, đều được thông hiệp vào sự sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57).
Như vậy,thuở xưa Eva ăn quả Chúa cấm
thì thần chết ập đến (x St 3,24) thì,nay ai ăn Quả Lòng Bà (x Lc 1,42: Bản dịch NTT), tức là Con Đức Maria, được
sự sống dồi dào (x Ga 10,10).
2- Mẹ Maria là bà Đêbôrah mới.
Yabin, vua Canaan, sai tướng Sisơra
kéo quân đánh Israel. Nữ ngôn sứ Đêbôrah hướng dẫn Baraq đem quân chống lại
Sisơra. Ông Baraq phải mời bà Đêbôrah đi theo làm cố vấn cho ông, nhờ đó Baraq
đánh tan được quân của Sisơra cách oai hùng (x Qa 4,1-16). Đức Maria có mặt từ
khởi đầu đời công khai của Đức Giêsu tại tiệc cưới Cana
(x Ga 2), cho tới khi Mẹ đứng dưới chân thập giá trên đồi Sọ nhìn Con bị chết
treo trong cảnh đau thương! (x Ga 19,25t) Rõ ràng Mẹ Maria theo Con trong suốt
cuộc đời công khai để làm cố vấn cho Con,quan trọng hơn bà Đêbôrah làm cố vấn
cho ông Baraq đánh thắng quân Sisơra.
3- Mẹ Maria là Yael mới.
Quân của Sisơra bị đánh tan, tướng
Sisơra chạy trốn vào nhà bà Yael, xin bà lấy chăn phủ lên ông hòng tránh mặt
ông Baraq. Bà Yael cho hắn ăn uống xong, đoạn bà lấy chăn trùm cho hắn ngủ, rồi
bà rón rén nhổ cọc lều,dùng búa tạ đóng lên mang tai Sisơra, ghim đầu hắn xuống
đất! Thế là bà Yael đã diệt tận gốc rễ kẻ chống lại Israel (x Qa 4,17-22). Chiến thắng
ấy thua xa bà Maria đạp nát đầu con rắn đã tấn công tổ tiên loài người (x St
3,15: Bản dịch Phổ Thông) để giải phóng cho loài người thoát tay Satan, thoát
án tử.
4- Mẹ Maria diễn tả người phụ nữ cắt đầu tên Shêba, kẻ chống lại
vua Đavid.
Tên Shêba dấy lên tập họp quân chống
lại vua Đavid,vua cho tướng Yoab đem quân truy nã Shêba,hắn chạy trốn vào thành
Abel – Bet – Maakah. Tướng Yoab cho quân bao vây thành, một bà trong thành lập
mưu cắt đầu Shêba quăng ra ngoài thành cho ông Yoab, vì bà không muốn chỉ vì
một kẻ có tội chống lại vua mà cả thành bị tru diệt (x 2 Sm 20). Thua xa Con
Đức Maria bị giết để cho loài người được sống (x Ga 11,50)
5- Mẹ Maria là bà Yudita mới.
Hôlôphernê là tướng quân của vua
Babylon, ông được lệnh đem quân vây hãm tấn công trại dân Do Thái. Toàn dân,
binh sĩ, cả các tướng lãnh Do Thái đều lâm vào ngõ bí muốn đầu hàng, nhưng bà
Yudita không thuận,vì làm như thế dân Chúa vẫn bị diệt và Chúa mất danh dự! Do
đó bà quyết âm ăn chay cầu nguyện tha thiết xin Chúa cứu dân vì danh dự của
Chúa (x Tv 143/142,11).
Thế rồi vào một đêm kia, bà trang
điểm lộng lẫy, âm thầm tiến vào trại quân của tướng Hôlôphernê, ông mê đắm sắc
đẹp của bà, bà lợi dụng phục rượu cho ông uống say mèm, rồi cắt đầu hắn đem về
trại Do Thái trong tiếng reo mừng của toàn dân! (x Gd 10t). Thua xa Chúa yêu sự
thánh thiện của Mẹ Maria, như lời ông Platon nói: “Sắc đẹp là vẻ huy hoàng của sự thánh thiện”, nên Mẹ được giữ chức
Trạng Sư để bầu cử cho con cái Mẹ thoát tay tử thần.
6- Mẹ Maria là bà Esther mới.
Do mưu mô của tướng Aman mà, vua
Assurêus đã ra sắc chỉ tiêu diệt toàn dân Do Thái. Nhưng Esther người gốc Do
Thái được vua Assurêus cưới làm vợ, khi bà thấy dân bị án tru diệt, bà đã ăn
chay cầu nguyện, rồi làm những bữa cơm thịnh soạn mời vua và tướng Aman dùng. Sau
bữa ăn cuối cùng, nhà vua hứa với Esther xin gì cũng cho, dù là nửa nước! Lúc
ấy Esther thưa: “Xin vua đừng nuôi ong
trong tay áo.” Vua hỏi: “Ai?” Esther
chỉ ngay vào Aman, thế là vua ra lệnh treo cổ Aman lên trụ cao do chính hắn đã
trồng hòng treo cổ Mardoke,chú của Esther. Vua còn cho phép người Do Thái được
quyền chống lại những ai tấn công mình. Thế là dân Do Thái tiêu diệt hết lính
của Aman, giải phóng cho toàn dân (x sách Es). Thua xa Đức Maria là Hiền Thê
của Thiên Chúa, Mẹ có công nuôi Con Thiên Chúa, Vua trời đất suốt 33 năm, nên
chắc chắn Chúa nhận lời cầu của Mẹ để ban Thánh Thần cho Hội Thánh lên đường
rao giảng Tin Mừng, giải thoát mọi người khỏi ách nô lệ Satan (x Cv 1,14t).
7- Mẹ Maria là bà Rêbêca mới.
Bà Rêbêca sinh đôi Esau và
Yacob,nhưng vì Esau đã cướp quyền trưởng nam của Yacob, nên bà Rêbêca lập mưu lấy
áo của Esau mặc cho Yacob để, chồng bà là Ysaac tưởng lầm là Esau vì ông bị mù,
mà chúc phúc cho Yacob (x St 25. 27). Thế thì Mẹ Maria lấy Lời Chúa trước đã ban
cho dân Do Thái như chiếc áo che chở họ mà mặc cho người Công Giáo, là con
trưởng của Thiên Chúa để được hưởng phúc lành.
8- Mẹ Maria là bà góa Sarepta mới.
Bà góa Sarepta nghèo khó, chỉ có một
người con, và hai mẹ con còn duy nhất một chén bột định làm bánh ăn rồi chờ
chết,nhưng khi gặp ngôn sứ Êlya,bà đã sẵn sàng nhường bánh cho ông, từ bấy giờ
hũ bột nhà bà không vơi. Khi con bà chết, ngôn sứ Êlya cầu nguyện cho em được
sống lại (x 1V 17). Công phúc của bà góa Sarepta vẫn thua công đức bà góa Maria,
vì Đức Maria đã nuôi Con Thiên Chúa 33 năm. Ta cũng là con của Mẹ, thì dù ta có
chết vì phạm tội, chắc chắn Chúa cũng cho ta được sống vì công đức của Mẹ Maria
đã nuôi Con Thiên Chúa .
9- Mẹ Maria là Bà Lớn thành Shunem mới.
Ngôn sứ Êlysa mỗi lần đi qua nhà bà
Lớn thành Shunem đều được bà mời vào trú ngụ và được bà phục vụ. Ngôn sứ Êlysa
đã cho bà có con trong tuổi già. Khi con bà qua đời, bà chạy lên núi ôm chân
ngôn sứ bắt vạ, ngôn sứ đến nằm trên xác em bé cầu nguyện, nhờ vậy em đã được
hồi sinh (x 2 V 4). Vẫn thua xa Đức Maria chính là Bà Lớn vì là Mẹ Thiên Chúa. Bà
Lớn Maria đã nuôi Con Thiên Chúa suốt 33 năm, chúng ta cũng là con Mẹ Maria, dù
có chết vì tội đã phạm, Đức Giêsu cũng tự ý cho ta được sống như Ngài đã tự ý
cứu con bà góa thành Naim gần thành Shunem được sống lại (x Lc 7,11-17).
10- Mẹ Maria là tấm lông chiên mới của Hội Thánh.
Ông Ghêđêôn trước khi xuất trận đã
xin Chúa một dấu chỉ: ông phơi tấm lông chiên ở ngoài sân, nếu sáng hôm sau tấm
lông chiên đẫm ướt sương, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân; rồi ông lại
xin Chúa thêm một dấu chỉ: ông lại đưa tấm lông chiên ra phơi ngoài sân, tấm
lông chiên khô ráo, còn sân thì đẫm sương, thì đó là dấu chỉ Chúa ủng hộ ông
chiến thắng (x Tp 6-7).
Theo hai thánh Ambrosio và Ephrem
cắt nghĩa:
-
Lần I: Sương
xuống đẫm ướt tấm lông chiên là Lời Chúa xuống trên Đức Maria trong ngày Truyền
Tin (x Lc 1,35).
-
Lần II: Sương
xuống ướt đẫm đất, còn tấm lông chiên thì khô ráo: Thánh Thần Chúa ban Lời
xuống trên Hội Thánh (x Cv 2).
Nhờ Mẹ suy đi nghĩ lại Lời Chúa
trong lòng (x Lc 2,19. 51b-52), cũng như Lời Chúa được ghi trên tấm xương thịt
và linh hồn của người Kitô hữu, mà chúng ta được toàn thắng sự dữ (x 2Cr 3,2-3).
11- Đức Mẹ là Cây Sự Sống.
Thực vậy, lời bà Êlysabeth chúc tụng
Mẹ Maria: “Trong nữ giới có người là diễm
phúc! Và đáng chúc tụng thay quả lòng
người” (Lc 1,42: Bản dịch NTT).”Quả lòng Bà Maria” chính là Chúa Giêsu,
Đấng là Sự Sống, thì Mẹ Maria phải là Cây Sự Sống. Xưa kia Adam, Eva sau khi
phạm tội, Chúa sai Thiên thần cầm gươm hỏa hào chớp chớp để canh giữ lối vào cây
sự sống (St 3,24). Vào thời Tân Ước, khi Đức Giêsu bị treo trên thập giá, Ngài
trao môn đệ cho Mẹ Maria (x Ga 19,25-27), để ai đến với Mẹ, thì được ăn “Quả
lòng Bà” (rước Lễ).”Quả lòng Bà” là Sự Sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57),
thì Cây sinh ra “Quả Sự Sống”, cũng gọi là “Cây Sự Sống.”
12- Đức Mẹ đích thực là Hòm Bia Thiên Chúa.
Xưa kia vua Đavid đã rước Hòm Bia
Thiên Chúa về cung điện của mình, trên đường đi ông đã đưa Hòm Bia vào tạm nghỉ
tại nhà ông Obededom ba tháng, nhà này được Chúa chúc phúc (2Sm 6,1-12), thì
Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, trước khi được rước về Cung Điện trên
Trời, Ngôi Lời đã được đặt trong cung lòng Đức Maria là Đền Thờ đích thực của
Thiên Chúa suốt 33 năm, thì cả Gia Đình của Mẹ là Hội Thánh được Thiên Chúa cứu
độ (Lc 1,39-56).
Với 12 điểm sáng chói trên, Mẹ đã
được Thiên Chúa ban để chiếu sáng vào Hội Thánh. Đó là lý do Chúa cho ông Gioan
nhìn thấy thị kiến người nữ đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12,1).
D. ĐỨC MARIA TRONG THỜI TÂN ƯỚC
1/ MẸ LÀ MẪU GƯƠNG CHO CON CÁI
VÂNG LỜI CHÚA.
Tiếng Xin Vâng của Đức Maria trong
ngày Truyền Tin thật chẳng có gì khó khăn, bởi vì ngày ấy Mẹ được chúc: “Đầy ân phúc” (Lc 1,28); Mẹ được đắc sủng
nơi Thiên Chúa (Lc 1,30); Mẹ được sinh Con đặt tên là Giêsu, là Con Đấng Tối
Cao (Lc 1,31-32); Con Mẹ làm Vua tái lập triều đại Đavid. Mẹ được cả uy quyền
Đấng Toàn Năng bảo đảm ban những ơn phúc ấy, cho nên Mẹ cũng sẵn sàng thưa: “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói” (Lc
1,38); khi Mẹ đến thăm bà Êlysabeth, người chị họ, được bà này thốt lên lời tán
dương: “Trong nữ giới, em là người có
phúc” (Lc 1,42a). Chính vì những lý do trên mà Đức Mẹ thêm tin tưởng hân
hoan nói lên lời tạ ơn Chúa: “Này từ đây
mọi đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48b).
Thế nhưng sau đó Mẹ đã gặp những cơn
thử thách ập đến:
-
Ông Giuse,
bạn trăm năm của Mẹ định tâm lìa bỏ âm thầm trốn đi (Mt 1,19).
-
Ngày sinh
Con, không tìm được nơi xứng đáng, phải đành đặt Con trong máng cỏ nơi hang bò
lừa (Lc 2,7).
-
Ông Simêon
nói tiên tri: “Trẻ này làm cho nhiều
người chỗi dậy,nhưng cũng làm cho lắm kẻ bổ nhào, một mũi gươm đâm thâu lòng bà”
(Lc 2,34-35).
-
Vua Hêrôđê ra
lệnh truy nã giết Hài Nhi Giêsu, khiến ông Giuse đang đêm phải đưa hai Mẹ Con
trốn sang Ai Cập (Mt 2,13t).
-
Chua xót nhất
là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con,xem ra tất cả
những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin chỉ là những dối gạt; Con thật của Mẹ
là Đức Giêsu bị người ta loại trừ, và Mẹ nhận lại Gioan là con người tội lỗi
(Ga 19,25-27).
Vậy tiếng Xin Vâng của Mẹ được đánh
giá cao vì suốt cuộc đời Mẹ sinh dưỡng Chúa Giêsu chỉ toàn gặp những nghịch
cảnh trái với Lời Chúa hứa. Nhưng những thử thách đó không quật ngã được Mẹ. Mẹ
vẫn ĐỨNG nhìn Con treo trên thập giá (Ga 19,25). Mẹ đã trở thành bánh lái và
cũng là hoa tiêu điều khiển con tầu Hội Thánh đang gặp sóng gió kinh hoàng nhất.
Xưa kia Chúa chỉ cho ông Noe đóng
tầu tỉ mỉ từng chi tiết, thế nhưng không thấy Chúa dạy ông làm bánh lái. Tầu mà
không có bánh lái làm sao cập bến! (St 6,14-16). Tầu ấy chính là Hội Thánh, và
như thế vào thời Tân Ước Chúa mới lắp “bánh lái Maria” vào. Để nhờ bánh lái này
mà Hội Thánh được cập bến Thiên Đàng!
Hình ảnh Đức Maria đứng dưới chân
Thánh Giá còn cho ta nhận ra Mẹ là một dũng tướng đang đứng chỉ huy mặt trận ác
liệt giữa thiện và ác, Mẹ tin thiện sẽ thắng ác!
2/ LỜI NÓI MẸ MARIA LÀM HOÀN
TẤT CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG VÀ CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI.
Tân Ước ghi lại sáu lần Đức Maria
nói, nhưng năm lần Mẹ nói với Chúa và nói về Chúa:
1-
Mẹ nói với
thiên thần: “Việc đó xảy đó thế nào vì
tôi không ăn ở với người nam” (Lc 1,34).
2-
Mẹ thưa với
thiên thần: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin
Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38).
3-
Mẹ cầu nguyện
rất dài tại nhà bà Êlysabeth, người chị họ (Lc 1,46-55).
4-
Mẹ trách Đức
Giêsu trốn ở lại Đền Thờ làm cho cha mẹ đau khổ đi tìm (Lc 2,48).
5-
Mẹ trình bày
với Đức Giêsu trong tiệc cưới Cana: “Nhà
này hết rượu rồi” (Ga 2,3).
Mẹ chỉ nói với loài người duy một lời trong lần thứ sáu cũng là
lần cuối cùng:
6-
“Giêsu
bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5)
Ta biết thuở tạo dựng ban đầu, Thiên
Chúa phán sáu lần trong sáu ngày, đặc biệt ngày thứ sáu cũng là lần thứ sáu, lần
cuối cùng, Chúa phán: “Ta hãy tạo dựng con
người giống hình ảnh Ta” (St 1,26). Đó là chỉ tiêu Chúa đặt trước, chứ thực
ra lúc ấy con người mới chỉ là một sinh vật (1Cr 15,45- bản dịch PVGK), hoặc
chỉ là loài thú, vì “thú và người giống
nhau là đều phải chết” (Gv 3,18-19). Chính vì thế con người chưa thể được nên
giống Thiên Chúa, trừ khi người ta thực
hiện lời Mẹ nói lần thứ sáu trong thời Tân Ước: “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5). Và ai thực hiện lời Mẹ Maria như trên, thì được cùng với Mẹ chung tay
với Chúa Giêsu làm hoàn hảo công trình sáng tạo vạn vật Chúa Cha đã khởi sự
thuở ban đầu.
3/ VIỆC PHỤC VỤ CỦA MẸ BÁO
TRƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CON THIÊN CHÚA THỰC HIỆN.
Thực vậy, ai cũng tưởng nghĩ Mẹ đến
nhà chị họ Êlysabeth đã mang thai được sáu tháng,thì Mẹ phải ở đó phục vụ trên
ba tháng, đợi khi người chị họ sinh “mẹ tròn con vuông”, rồi Mẹ mới trở về quê.
Thế mà tác giả Luca lại ghi: Mẹ ở nhà chị họ có ba tháng rồi trở về quê, sau đó Gioan mới sinh ra (Lc 1,56-57). Điều
ngạc nhiên này thật ra ông Luca đã nhận ra dấu chỉ: Đức Maria đã phác họa trước
chương trình cứu độ của Đức Giêsu, Con của Mẹ, Ngài đến phục vụ trần gian, đặc
biệt ba năm cuối đời, cuối cùng phải
chết trên thập giá, rồi được an táng trong mộ ba ngày, sau đó Ngài phục sinh về Quê Trời. Từ đó Hội Thánh mới
sinh các Kitô hữu.
4/ MẸ DANG RỘNG VÒNG TAY THAM GIA VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỨU CHUỘC CỦA ĐỨC GIÊSU TỪ
KHỞI SỰ ĐẾN HOÀN THÀNH.
Đó là lý do mà thánh sử Gioan cho
chúng ta thấy Đức Maria chỉ xuất hiện hai lần trong đời công khai của Đức Giêsu:
-
Lần I : Mẹ có
mặt trong tiệc cưới tại Cana cùng với Đức
Giêsu, Mẹ nói lên nhu cầu của loài người với Con Mẹ: “Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3); đồng thời Mẹ cũng nhắc cho loài
người: “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga
2,5)
-
Lần II: Khi
Đức Giêsu hoàn tất cuộc đời công khai trên thập giá, Mẹ Maria lại hiện diện và
được Đức Giêsu trao phó người môn đệ Gioan cho Mẹ chăm sóc (Ga 19,27).
Vậy Con Thiên Chúa toàn năng còn cần
đến Mẹ Maria cộng tác từ khởi sự cho đến hoàn thành, huống chi chúng ta là con
người hữu hạn lại càng cần phải cậy nhờ Mẹ hằng cứu giúp, đúng với danh hiệu
của Mẹ là “Trạng Sư, Đấng Bảo Trợ, Đấng Phù Trợ, Đấng Trung Gian” (xem
Hiến Chế Hội Thánh số 62). Bởi vì Mẹ vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là Mẹ loài người
(Hiến Chế Hội Thánh số 66).
Chính vì vai trò của Mẹ rất quan
trọng trong chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người, nên trong Phụng Vụ của
Hội Thánh có 15 Lễ Kính Đức Mẹ:
7-
Lễ Mẹ Thiên
Chúa 1-1
8-
Lễ Mẹ Dâng
Con Vào Đền Thờ 2-2
9-
Lễ Mẹ Lộ Đức
11-2.
10-
Lễ Truyền Tin
25-3
11-
Lễ Mẹ Đi Thăm
Viếng 31-5
12-
Lễ Mẹ Núi
Carmelo 16-7
13-
Lễ Cung Hiến
Đền Thờ Đức Bà Cả 5-8
14-
Lễ Mẹ Lên
Trời 15-8.
15-
Lễ Trinh Nữ
Vương 22-8
16-
Lễ Sinh Nhật
Đức Mẹ 8-9
17-
Lễ Bảy Sự Đau
Đớn Đức Mẹ 15-9
18-
Lễ Mẹ Mân Côi
7-10
19-
Lễ Mẹ Dâng
Mình 21-11
20-
Lễ Mẹ Vô
Nhiễm 8-12
21-
Lễ Trái Tim
Đức Mẹ (sau lễ Thánh Tâm).
5/ MẸ LÀ MẪU NGHE LỜI CHÚA ĐỂ
ĐỨC TIN LỚN DẦN.
Thật vậy, trong cuộc Truyền Tin:
22-
Thiên thần
chào: “Đầy ân phúc” (Lc 1,28).
23-
“Đầy ân phúc”
đó là bà Maria được đắc sủng nơi Thiên Chúa (Lc 1,30).
24-
Người sẽ thụ
thai, sinh Con, đặt tên là Giêsu (Lc 1,31).
25-
Đó là Con
Đấng Tối Cao (Lc 1,32).
26-
Ngài là Vua
nối dòng Đavid, triều đại vô cùng tận (Lc 1,33).
6/ MẸ LÀ MẪU CHO CÁC BÀ MẸ NUÔI
CON.
Trong Tin Mừng Luca, ông ghi nhận
hai lần Mẹ Maria nghe Lời Chúa giữ kỹ trong lòng, rồi suy đi nghĩ lại, Con Mẹ
lớn lên trong khôn ngoan đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta (Lc 2,19.
51b-52).
Hai lần ông Luca ghi Mẹ suy gẫm Lời
Chúa như vậy làm cho các bà mẹ phải liên tưởng đến hai bầu sữa của người mẹ
nuôi con, không phải mẹ cần ăn cao lương mỹ vị để có sữa nuôi con, mà nhất là
còn cần phải suy đi nghĩ lại Lời Chúa, để dòng sữa của mẹ nuôi con vừa là của
vật chất vừa của thần linh, cho con mình lớn lên khôn ngoan đầy ân sủng. Bởi vì
“người ta sống không nguyên bởi bánh mà
còn bởi mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
7/ MẸ LÀ KHUÔN MẪU CỦA HỘI
THÁNH THỜI CÁNH CHUNG.
Thiên thần xác nhận Mẹ Maria là một Trinh Nữ (Lc 1,27), để
báo trước những người thuộc về Hội Thánh, họ phải là những trinh nữ khôn ngoan trữ
dầu cầm đèn cháy sáng đón Chàng Rể vào dự tiệc cưới Nước Trời (Mt 25,1-13).
8/ CHÚA MUỐN MỌI NGƯỜI NÊN
THÁNH NHƯ MẸ MARIA.
Đức Giêsu nói: “Mẹ tôi và anh tôi là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành”
(Lc 8,21).
Con người là loài thụ tạo đầy yếu
đuối, bất xứng, thế mà Chúa lại muốn gọi họ là “Mẹ” của Ngài, vì hai lý do:
a. Người Kitô hữu được đưa lên địa vị cao cả là “Mẹ”
Chúa Kitô, vì Chúa muốn mọi người phải nên thánh như Mẹ Maria. Nếu Chúa đòi
người ta phải nên hoàn hảo như Cha trên trời (x Mt 5,48), thì loài người yếu
hèn làm sao có thể vươn tới; còn nên thánh như Mẹ Maria thì quả là trong tầm
tay, vì Mẹ cũng là loài thụ tạo như chúng ta.
b. Mẹ Maria sinh Con Đấng Tối Cao là Đầu trong Thân
Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô, là Hội Thánh, thì khi các Kitô hữu là chứng nhân cho
Tin Mừng để thâu họp muôn dân làm môn đệ của Đức Kitô, thì họ là các chi thể
trong Thân Mình của Ngài. Như vậy, cả Đức Maria, cả các Kitô hữu mới sinh Thân
Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô cách vẹn toàn.
9/ MẸ LÀ MẪU CHO HỘI THÁNH CẦU
NGUYỆN.
Trong sáu lần Đức Maria nói được
Phúc Âm ghi lại, thì chỉ có lần Đức Maria cầu nguyện tại nhà người chị họ dài
nhất, đặc biệt là Mẹ đan kết những câu Lời Chúa thành lời tạ ơn của Mẹ (x Lc
1,46-55). Chính vì vậy, mà Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Mạc Khải số 25,
nhắc nhở cho con cái mình: “Kinh nguyện
phải đi đôi với việc đọc Kinh Thánh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con
người, vì chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa khi cầu nguyện. Chúng ta nghe Ngài
nói lúc ta đọc Kinh Thánh.”
Hồng y Newman nói: “Tôi
đọc báo, tôi biết người ta đang làm gì; tôi đọc Kinh Thánh, tôi biết mình phải
làm gì.”
Trong Hiến Chế Mạc Khải số 25, Hội
Thánh đã nhắc lại lời thánh Giêrônimô: “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa
Kitô”
10/ MẸ LUÔN ĐOÁN Ý NGƯỜI KHÁC
ĐỂ PHỤC VỤ.
Trong Tin Mừng ghi lại hai lần Đức
Maria phục vụ:
·
Đức Maria vừa
nghe tin người chị họ có thai trong tuổi già đã được sáu tháng, mẹ vội vã lên
đường tới nhà chị họ để phục vụ (x Lc 1,39t).
·
Trong tiệc
cưới tại Cana, Mẹ thấy chủ tiệc đang lo lắng vì thiếu rượu đãi khách, nên Mẹ tự
ý nói với Giêsu, Con Mẹ: “Nhà này hết rượu” (Ga 2,3). Như thế Mẹ không van xin mà trình
bày nhu cầu của loài người, và với uy quyền của người Mẹ, thì đó trở thành lời
ra lệnh cho Con, và Đức Giêsu đã biến
nước lã thành rượu ngon hơn, mọi người được thỏa thuê (x Ga 2,1-11).
Vậy sống trong bất cứ môi trường nào,
ta hãy noi gương Mẹ Maria đoán ý của người xung quanh để phục vụ, làm cho họ vươn
tới sự trọn lành.
11/ MẸ MARIA LÀM ỨNG NGHIỆM LỜI
CHÚA NÓI VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẠP NÁT ĐẦU CON RẮN ĐỂ GIẢI CỨU CON NGƯỜI THOÁT ÁN
PHẠT DO TỘI NGUYÊN TỔ GÂY NÊN.
Sau khi Adam, Eva phạm tội, Chúa hứa
ban Đấng Cứu Độ để cứu dòng tộc của họ: “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn”
(St 3,15- Bản Bảy Mươi - tiếng Hy Lạp), hoặc “Người phụ nữ đạp nát đầu rắn”
(Bản Phổ Thông - tiếng La Tinh).
-
Theo bản Bảy
Mươi: Miêu duệ đó chính là Chúa Giêsu, người phụ nữ chính là Đức Maria, là Hội
Thánh. Chính Con Đức Maria tiêu diệt Satan.
-
Theo bản Phổ
Thông: Người phụ nữ là Đức Maria, là Hội Thánh, nhờ có Chúa ở cùng, đã tiêu
diệt nọc độc rắn Satan cám dỗ loài người.
Vậy ai sống Lời Chúa như Mẹ Maria,
thì được đồng công cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ loài người.
12/ ĐỨC MARIA LÀ MẸ THẬT CỦA
CÁC KITÔ HỮU.
Xưa kia vì Eva không tuân phục Lời
Chúa, nên Chúa phán: “Ta sẽ gia tăng đau
khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con
đẻ cái” (St 3,16a). Điều ấy đã ứng nghiệm nơi Đức Maria trong ngày Thứ Sáu
Tuần Thánh. Vì trên đồi Sọ, Con của Mẹ đã chết, thế mà loài người độc ác còn
đâm thủng tim Ngài! Lúc ấy Đức Giêsu không cảm thấy đau, nhưng lòng Mẹ vô cùng
đau đớn. Truyền thống của Hội Thánh hiểu rằng nước và máu từ tim Đức Giêsu đổ
xuống chính là Bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể khơi nguồn để sinh các Kitô hữu
làm con Thiên Chúa, đồng thời cũng là con của Đức Maria.
Vậy nơi đồi Sọ, Đức Giêsu là Adam
cuối cùng và Maria là Eva mới, cùng sinh ra dòng giống nhân loại mới được Chúa
cứu độ.
13/ MẸ MARIA MUỐN CHÚNG TA DỰ
LỄ HẰNG NGÀY ĐỂ ĐƯỢC ĐẦY ÂN PHÚC.
Trong ngày Truyền Tin, thiên thần
thưa với Đức Maria: “Vui lên, hỡi Đầy Ơn
Phúc, Chúa ở cùng Người” (Lc 1,28). Mẹ trở thành Đấng đầy ơn phúc, có nghĩa
là Mẹ được giống Thiên Chúa, vì được Chúa ở cùng. Bởi đó, mỗi khi ta dự Lễ trọn
vẹn, Chúa cũng ở cùng ta, để ta được đồng danh với Đức Maria “Đầy Ơn Phúc” (đây là một danh từ, là
hữu thể, chứ không phải là tĩnh từ, là phẩm tính của con người).
Vì thế, ai bỏ dự Lễ, Mẹ Maria vô
cùng lo lắng đi tìm kiếm về. Chân lý này đã được diễn tả trong dụ ngôn người
phụ nữ có mười đồng, mất một, bà lo lắng tìm kiếm cho bằng được, tìm được rồi,
bà vui mừng mời cả lối xóm đến chia vui (x Lc 15,8-10).
Quả thật, sau khi Chúa Giêsu Phục
Sinh, Ngài chỉ còn 11 môn đệ, mà trong đêm Chúa nhật, là thời điểm Hội Thánh sơ
khai dâng Lễ, lúc ấy chỉ có 10 môn đệ, thiếu ông Tôma, chắc chắn làm cho Đức
Maria lo lắng. Một tuần lễ sau, ông Tôma trở lại với cộng đoàn, thì Mẹ Maria
vui mừng hơn bà góa tìm lại được đồng bạc mất cho đủ mười đồng! (x Ga 20,19-31).
Cũng thế, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Mẹ
cùng cầu nguyện với các môn đệ để xin Chúa Thánh Thần đến canh tân đổi mới các ông
(x Cv 1,14). Đáng lẽ phải là Nhóm Mười Hai, là số người con của ông Giacob xưa
làm nên dân Israel; thì nay ông Giacob mới là Đức Giêsu tuyển chọn Mười Hai môn
đệ để lập nên Israel mới, đem ơn cứu độ cho muôn dân. Nhưng hôm đó chỉ có Mười
Một, vì Giuđa đã tự vẫn! Bởi thế, khi ông Matthia được tuyển chọn vào hàng môn
đệ Đức Giêsu, thay cho Giuđa, thì Đức Maria vui mừng biết bao! (x Cv 1,23-26).
14/ MẸ MARIA LÀ TRẠNG SƯ, VỊ
BẢO TRỢ, ĐẤNG PHÙ HỘ VÀ ĐẤNG TRUNG GIAN.
Giáo huấn Công Đồng Vat. II trong
Hiến Chế Hội Thánh số 62 nói về Đức Mẹ: “Trong
nhiệm cuộc ân sủng, Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin
tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin – sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại
giữ vững bên thập giá – cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ mọi người
được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về Trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ
không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta
những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. Với tình mẫu tử, Ngài chăm
sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế, và đang gặp bao nguy
hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời. Vì thế trong Hội
Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: TRẠNG SƯ, VỊ BẢO TRỢ, ĐẤNG
PHÙ HỘ và ĐẤNG TRUNG GIAN. Tuy nhiên
phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt gì vào vinh dự và quyền
năng của Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2,5-6).
Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang với Ngôi
Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức Linh Mục của Chúa Kitô được
thông ban dưới nhiều hình thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng
như tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật,
thì sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Thế không những không loại bỏ mà còn
khuyến khích các thụ sinh cộng tác trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất.
Vai trò tùy thuộc ấy của Đức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên
xưng mà luôn nghiệm thấy và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự
nâng đỡ và phù hộ Từ Mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung Gian
và Cứu Thế”
Khi ta chiêm ngưỡng một pho tượng kỳ
diệu, tuyệt tác, thì đương nhiên ta khen nhà điêu khắc tài ba. Do đó khi ta
chiêm ngưỡng danh dự và vinh quang của Mẹ Maria, thì ta phải cùng với Mẹ mà cất
tiếng tạ ơn: “Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả” (Lc 1,49).
15/ MẸ MARIA, ĐẤNG ĐỒNG CÔNG
CỨU CHUỘC.
Đức Giêsu dạy: “Phải cầu nguyện luôn, đừng nản chí” (Lc
18,1: Tin Mừng). Cụ thể là bắt chước bà góa kiên trì đấu tranh cho công lý giữa
rừng người gian ác, đòi mọi người kể cả thẩm phán bất lương phải nhìn nhận công
lý nơi bà. Bà góa đó chính là Mẹ Maria, vì suốt cuộc đời Mẹ kiên trì sống công
chính, gìn giữ ơn Vô Nhiễm mà chính Đức Giêsu, Con lòng Mẹ đã ban cho qua Mầu
Nhiệm Nhập Thể. Vì Đức Maria sinh Đức Giêsu, Ngài có hai bản tính: loài người
và Thiên Chúa không thể tách biệt, nên Đức Maria trở nên Mẹ Thiên Chúa. Do đó
Mẹ có quyền đòi hỏi cả loài người phải nhìn nhận công lý của Mẹ, chính là tin
và đón nhận Con của Mẹ, thực là Con Thiên Chúa muốn đến dẫn đưa loài người vào
con đường công lý, đạt sự sống thật dồi dào vô cùng tận! Nhưng suốt 33 năm, Mẹ
không tìm thấy người nào trong nhân loại nhìn nhận công lý của Mẹ đưa đến là
Con Thiên Chúa hằng sống, để họ được sống đời đời (x Ga 17,3). Cuối cùng Mẹ tới
đồi Sọ, đó là nơi tòa án của biết bao nhiêu thẩm phán bạo ngược: “Dẫu rằng chúng chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà
cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 18,4: Tin Mừng), nên chúng đã ra lệnh giết Con
của Mẹ, loại trừ công lý khỏi mặt đất, nhưng cuối cùng chính ông sĩ quan ngoại
giáo Roma cũng thuộc loại thẩm phán trong phiên tòa xử Đức Giêsu, khi nhìn thấy
tên lính dùng giáo đâm vào tim Ngài, máu và nước đổ xuống, lúc ấy ông ta mới
nói lên sự thật, nhìn nhận công lý của bà góa Maria: “Đích thực người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh