NGƯỜI THỢ ĐIÊU KHẮC
Mỗi Kitô hữu đều phải trở nên một nhà điêu khắc,
đục đẽo cho ra tình yêu Chúa trên cuộc đời mình: ”Căn cứ vào điều này, chúng ta
biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả
chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3,16)
Ông sống tận cuối
làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc
thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm
bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến
nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập
chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở
những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to
lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.
Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm
ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha”
giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!
Ông Cha này rất
điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một
tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên
Thánh Giá này là tượng Chúa Giêsu cao một mét bảy.
-
Nhưng thưa ông, Chúa Giêsu là ai, tôi không
biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?
Vị Linh Mục
thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một
bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà
nghề, giọng đầy phân vân:
-
Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng…
Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm
thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức
ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy,
tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục
nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
-
Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi,
hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.
Suốt cả tháng
trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn.
Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an
nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa
là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một
người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương
mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế
ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền
lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!
Ông cứ vừa nghiền
ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông
cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật
trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi, hai cánh mũi phập phồng
trong cơn khó thở!
Ngày qua ngày,
ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của
Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng
nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần
bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy
guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được
sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn
khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của
các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!
Mỗi nhát đục
ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say
mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở
Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi
chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng
tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ
tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị
Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông
này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! Cái điệp khúc “Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của
Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!
Mỗi ngày qua,
tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có
một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một
người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một
người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ,
nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng
thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc
miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.
Giai đoạn khó
khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên
hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu trong cả bốn quyển Tin Mừng.
So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những
nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà
Chúa Giêsu phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật.
Răng nghiến lại? Ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng
có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì
quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể
xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn
này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong
tay Cha.” Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện
rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng
không biết việc chúng làm.” Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái
mà ông phải cô đọng lại!
Từng nhát đục
ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giêsu đau
đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải
rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy
quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện
chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giêsu thánh thiện và khả ái làm ông hài
lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng
nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng
Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt
mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.
Tiếng gà gáy
sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm
ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng
nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều
qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống
giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh
sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng
cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh
phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ
tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…
Phải đến hai
ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa
hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng
Thánh Giá.
Đức Giêsu đã có lời chiêu mộ môn đệ thật lạ lùng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 23,23)
Từ bỏ chính mình là một thái độ sống thường thấy nơi những
người có một lý tưởng sống cao thượng. Mời gọi các môn đệ có cho mình một lý tưởng
sống cao thượng là điều không khó hiểu, nhưng tại sao trong lời chiêu mộ của
Chúa lại thêm lời kêu gọi ”vác thập giá
mình hằng ngày” mà theo?
Chúa đã chết trên thập giá. Thập giá là một khổ hình ngày
xưa dùng để trừng trị các tội phạm rất nặng. Cái chết trên thập giá của Chúa
Giêsu vừa cho thấy tội lỗi của nhân loại rất nặng, vừa cho thấy tình yêu của
Chúa dành cho mọi người và từng người là hết sức lớn lao: ”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)
Tình yêu là sự sống của Thiên Chúa, nên khi kêu gọi các
môn đệ vác thâp giá mình mà theo Chúa, Chúa mời gọi mọi người chia sẻ sự sống của
chính Ngài để có được sự sống không bao giờ mất: ”Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 23,24)
Ai cũng muốn có được sự sống đời đời. Sự sống đó không phải
là sự sống ở đời sau mà đã được bắt đầu ngay từ đời này, đơn giản chỉ là sống yêu thương. Sống yêu
thương là mệnh lệnh sau hết Chúa Giêsu dạy các tông đồ trong bữa Tiệc Ly: ”Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15,12)
Vẻ đẹp và hạnh phúc bởi luật sống yêu thương đó thực sự thu
hút thánh Phaolô. Ngài đã tìm thấy hạnh phúc thật nơi đó: ”Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống, nhưng
không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” (Gl 2,19-20)
Còn với thánh Phêrô, người đã ngăn cản khi Chúa mạc khải
mầu nhiệm thập giá cho các môn đệ, và đã ba lần chối Chúa khi thấy Chúa vác thập
giá, thì sao? Qua khổ hình thập giá, thánh nhân cảm nghiệm được tình yêu lớn
lao của Chúa và đã để mình chịu thu hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của tình yêu đó. ”Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu
cho anh em dõi bước theo Người... Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu
đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội
lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để
một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải
mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1Pr 2,21-24)
Vì thế, ơn gọi cao quý của mỗi Kitô hữu là trở nên một nhà điêu khắc, đục
đẽo cho ra tình yêu Chúa trên cuộc đời mình: ”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức
Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí
mạng vì anh em.” (1Ga 3,16)