CHÚA
NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN
NĂM B
2
V 4,42-44; Ep 4,1-6; Ga 6,1-15
BÀI ĐỌC 1: 2 V 4,42-44
Hồi ấy, trong miền có nạn
đói. 42 Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu
người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông
Ê-li-sa nói: "Phát cho người ta ăn.”43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông:
"Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông
bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn
còn dư.”44 Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như
lời Đức Chúa phán.
ĐÁP CA: Tv 144
Đ. 16 Chúa thương rộng mở tay ban,đoàn con hết
thảy muôn vàn thỏa thuê.
10 Lạy Chúa, muôn loài
Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, 11
nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
15 Lạy Chúa, muôn loài
ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. 16 Khi Ngài
rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê.
17 Chúa công minh trong
mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. 18 Chúa
gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
BÀI ĐỌC 2: Ep 4,1-6
Thưa anh em, 1 tôi là người đang bị
tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên
Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và
nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3 Anh em hãy
thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà
gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em
đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ có một Chúa,
một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi
người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 7,16
Hall-Hall: Vị ngôn sứ
vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Hall.
TIN MỪNG: Ga 6,1-15
Khi ấy,1 Đức Giê-su sang bên kia biển
hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2 Có đông đảo dân chúng
đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những
kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4
Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái.
5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo
dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho
họ ăn đây? "6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết
mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến
hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”8 Một
trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người:9
"Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với
ngần ấy người thì thấm vào đâu! "10 Đức Giê-su nói: "Anh
em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống,
nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng
phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê
rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.”13
Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn
lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức
Giê-su làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!
"15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm
vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
SỐNG DẤU CHỈ
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
Chúng ta
biết toàn bộ Tin Mừng của Gioan, ông chỉ ghi lại 7 phép lạ Chúa Giêsu đã làm:
1.
Nước lã hóa rượu nho (x Ga 2,1-12).
2.
Con của vị sĩ quan sắp chết lại được khỏe mạnh (x Ga
4,46-54).
3.
Người tàn phế nằm bờ giếng được khỏe (x Ga 5,1-18).
4.
Năm bánh, hai cá cả đoàn dân ăn còn dư (x Ga 6,1-15).
5.
Chúa đi trên mặt biển đến với thuyền các môn đệ đang gặp
sóng gió liền được yên (x Ga 6,16-21).
6.
Người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt (x Ga 9,1t).
7.
Ladarô chết đã án táng bốn ngày cũng được sống lại (x Ga
11).
Bảy phép
lạ trên ông Gioan gọi đó là’DẤU LẠ”, Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình tuần
Sáng thế khởi đầu Thiên Chúa đã tạo dựng muôn vật rất tốt đẹp chỉ bằng Lời phán
ra (x St 1); nên Tin Mừng Gioan được gọi là “TUẦN SÁNG THẾ MỚI”. Ngày thứ tư
trong tuần Sáng Thế thứ I, Thiên Chúa tạo dựng nên tinh tú, mà dân ngoại hiểu
đó là các vị thần phải tôn thờ, nhất là thần mặt trời; thì dấu lạ thứ tư trong
tuần Sáng Thế mới, Chúa Giêsu chỉ dùng năm bánh và hai cá nuôi đoàn lũ dân đông
không đếm nổi. Ông Gioan muốn chúng ta hiểu đây là dấu chỉ về Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập, vì những chi tiết trong trình thuật Hóa Bánh
được lặp lại vào lúc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể:
-
Đức Giêsu lên núi với các môn đệ, lúc ấy sắp đến lễ Vượt
Qua (x Ga 6,3-4): Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể khi Ngài cùng ăn tiệc Vượt
Qua với các môn đệ (x Mt 26,26t). Và khi Ngài dâng Lễ trên đồi Sọ có môn đệ
Gioan (x Ga 19,26).
-
Đức Giêsu ra lệnh các môn đệ bảo dân ngồi xuống nơi bãi cỏ
(x Ga 6,10): Hình ảnh Chúa Giêsu là Mục Tử đưa chiên vào đồng cỏ, chính là tiệc
Thánh Thể.
-
Đức Giêsu cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra phân phát
cho dân (x Ga 6,11): Lúc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh đọc
lời chúc tụng rồi bẻ ra phân phát cho các môn đệ và nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy” (Mc 14,22).
Ai đến tham dự Tiệc Thánh
Thể, thì cùng được thông hiệp sự sống với Thiên Chúa (x Ga 6,57), được đồng
hóa với Chúa Giêsu (x Gl 2,20), trở nên bậc thần thánh (x Ga 10,34).
Từ trình
thuật Hóa Bánh chúng ta rút ra tám dấu lạ để thể hiện bằng việc làm hầu diễn tả
chiều sâu, chiều rộng của mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể:
DẤU LẠ THỨ I: AI
ĐỀ NGHỊ CHO DÂN ĂN?
Cả Đức Giêsu,
cả môn đệ:
1.
Chính
Đức Giêsu thấy dân đói, Ngài muốn cho họ ăn, Ngài hỏi các môn đệ: “Thầy mua đâu được bánh cho
dân ăn?” (Ga 6,5).
2.
Chính
các môn đệ khởi xướng đến thưa với Thầy Giêsu: “Xin Thầy giải tán dân, để họ vào làng mua thực phẩm mà ăn” (Mt
14,15; Mc 6, 35-36; Lc 9,12).
Vậy Chúa
Giêsu muốn mọi người phải tự mình nhìn thấy nhu cầu của đồng loại như Ngài, và
tìm cách giải quyết giúp họ, một khi chính mình đã thuộc về Chúa Kitô như ông Phaolô
(x Pl 3,12b), nên ông Phaolô khuyên các tín hữu: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô. Tôi như một tù nhân trong Chúa – một người tù
phải hoàn toàn làm theo lệnh người cai tù – ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn
nại, hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng nhau, duy trì sự hiệp nhất, ăn ở thuận
hòa, và cùng chia sẻ cho nhau trong cùng một niềm hy vọng, vì chúng ta đã cùng
chịu một Phép Rửa, trở nên chi thể trong thân mình Đức Kitô Giêsu” (1Cr
11,1; Ep 4,1-6: Bài đọc II).
DẤU LẠ THỨ II: NẾU CÁC MÔN ĐỆ CÓ 200$, CŨNG KHÔNG ĐỦ ĐỂ
MUA BÁNH NUÔI DÂN (x Mc 6,37; Ga 6,7). SỐ TIỀN NÀY NÊU DẤU CHỈ GÌ?
Người Do Thái
đi làm lương công nhật là một đồng (x Mt 20,2), thì 200$ là tiền công một năm,
số tiền quá lớn.
Vậy mọi
người cần tận lực làm việc mới trở nên giàu có, mới có của chia sẻ để làm cho
người anh em giàu, còn mình chấp mình nghèo giống Chúa Giêsu (x 2Cr 8,9).
DẤU LẠ THỨ III: ĐỨC
GIÊSU DÙNG 5 BÁNH VÀ 2 CÁ NUÔI ĐOÀN LŨ DÂN (x Mt 14,13-21; Mc 6,31-44; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13), CON SỐ BÁNH CÁ ẤY NÊN DẤU C HỈ GÌ?
1.
Con cá tiếng Hy Lạp là Ictus, và Ictus cũng có nghĩa là bàn
tiệc. Vậy hai con cá là dấu chỉ hai bàn tiệc trong Thánh Lễ:
a.
Bàn tiệc Lời Chúa: Gồm các Bài đọc, Bài
giảng và kinh Tin Kính.
b.
Bàn tiệc Thánh Thể: Từ lúc dâng bánh
rượu tới khi mọi người rước Lễ.
Hai bàn
tiệc trên liên kết chặt chẽ tạo nên một hành vi phụng thờ duy nhất (x Hiến Chế
Phụng Vụ số 56).
2.
Năm
bánh: Chúa
Giêsu muốn mọi người đến dự tiệc Thánh Thể để được Ngài cho năm nguồn sống:
a.
Đức Tin và lòng Mến: Vì người công chính
sống bởi Đức Tin (x Rm 1,17) và chỉ có lòng Mến tồn tại muôn đời (x 1Cr 13,13).
b.
Lời Chúa: Trong Thánh Lễ,
chính Chúa Giêsu ban Lời cho chúng ta (x Dt 1,1-2), và Ngài muốn mọi người phải
xác tín rằng: “Người ta sống không chỉ
nhờ bánh mà còn sống bởi mọi Lời xuất từ miệng Thiên Chúa” (x Mt 4,4).
c.
Thịt Máu Chúa Giêsu (Chúa Giêsu Thánh
Thể): Ai lãnh nhận, thì dù có chết cũng sẽ được sống lại, vì cùng một sự sống
với Thiên Chúa (x Ga 6,34-58).
d.
Chúa giúp chu toàn bổn phận: Như Đức Giêsu đang
lúc đói khát, đến nỗi phải xin nước giếng uống, thế mà các môn đệ mời Ngài ăn
bánh, Ngài lại nói: “Thầy có của ăn rồi,
của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (x Ga 4,34).
e.
Của vật chất vừa đủ: Vì lòng tham của con
người ai cũng muốn có nhiều của cải, và khi đã giàu có, của cải sẽ lấp mắt không
nhìn thấy Chúa (mất Đức Tin); và nếu quá túng thiếu, cũng không ai tự sức mình
làm cho có đủ của ăn, mà đói quá thì sinh trộm cắp làm Chúa xấu hổ! Nhưng còn
đỡ tệ hơn nhiều của làm mất Đức Tin. Chỉ có Chúa mới làm cho ta có đủ của dùng
không dư không thiếu (x Cn 30,8-9).
DẤU LẠ THỨ IV: ĐỨC
GIÊSU DÙNG 7 BÁNH VÀ ÍT CÁ NUÔI DÂN, CÓ MẤY TÁC GIẢ GHI LẠI VÀ CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Phép lạ
hóa bánh lần II: bảy chiếc bánh và ít cá, chỉ có hai tác Matthêu và Marcô ghi
lại (x Mt 15,32-39; Mc 8,1-10).
Đây là dấu
chỉ về 7 Bí tích là kho tàng ơn Thiên Chúa, Hội Thánh dùng phân phát cho muôn
dân, hơn xưa ông Giuse thu tích thóc lúa trong bảy năm được mùa vào kho lẫm, và
sau bảy năm hạn hán, mất mùa, cả thế giới lâm cảnh đói khát, nên ai cũng tuốn
đến với ông Giuse mua lương thực (x St 41t).
Vậy những
ai đóng góp của cải vật chất cho Hội Thánh để làm phát triển ơn Chúa, làm giàu
kho tàng bảy Bí tích mà Hội Thánh có nhiệm vụ phân phát cho đoàn chiên Chúa đã
trao.
DẤU LẠ THỨ V: ĐỨC
GIÊSU GIẢNG TRƯỚC HAY SAU KHI NGÀI CHO DÂN ĂN?
Có hai
cách ghi:
1.
Theo
Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu giảng sau khi Ngài cho dân ăn no. Thánh sử Gioan ghi như
vậy vì dựa vào khoa sư phạm giáo dục của Chúa Giêsu: “Ngài
làm trước dạy sau” (Cv 1,1). Ngài cho dân ăn no thỏa như thế để Ngài muốn
dạy mọi người: “Của ăn no bụng là lương thực hư nát, mà
các ngươi còn vất vả, tất bật chạy đi tìm Ta giúp; thì hãy gia công hơn nữa để
tìm lương thực cho linh hồn lưu lại đến sự sống đời đời, đó là Thịt và Máu Ta
ban cho các ngươi, khi các ngươi đến dự tiệc Thánh Thể Ta đã dọn sẵn” (x Ga 6,14-15. 22t).
2. Theo Tin Mừng Nhất Lãm (Mt, Mc, Lc), Đức Giêsu giảng trước, sau đó Ngài mới
cho dân ăn.
Cách ghi
này tác giả Nhất lãm đã dựa vào cơ cấu của Thánh lễ để viết: Trong Thánh lễ
giảng Lời trước cho rước Lễ sau. Trong Thánh Lễ cả Chúa Giêsu, cả môn đệ đều
cho dân ăn.
a.
Chủ tế phải cho dân ăn:
Trình
thuật hóa bánh theo Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại: Đức Giêsu ra lệnh cho các môn đệ:
“Các con hãy cho dân ăn” (x Mt 14,16;
Mc 6,37; Lc 9,13); thì khi Giám mục hay Linh mục dâng lễ phải giảng Lời đã vất
vả soạn để nuôi giáo dân. Nếu dâng lễ mà không giảng, hỏi người dâng lễ đã lấy
gì là “bánh” của mình đặt vào tay
Đức Giêsu để nuôi dân? Nếu chỉ dùng quyền chức Linh mục mà cho dân ăn Chúa Giêsu
Phục Sinh (rước Lễ), thì đó là “Chúa Giêsu cà thọt”; Ngài bị cụt một phần thân thể vì thiếu bài giảng của
người dâng Lễ! Trong Hiến Chế Mạc Khải số 21, Hội Thánh dạy: “Hội Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như chính
Thân Thể Chúa Kitô, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy Bánh
ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa,cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban
phát cho các tín hữu. Thánh Kinh đã và đang được Hội Thánh xem như là quy luật
tối cao hướng dẫn Đức Tin được Thiên Chúa linh hứng và đã được ghi chép một lần
cho muôn đời. Bởi vậy mọi lời giảng dạy trong Hội Thánh cũng như chính chính
Đạo Thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn”. Vì “bài giảng trong Thánh Lễ rất đáng được coi là phần của chính Phụng
vụ” (x HC Phụng Vụ số 52).
b.
Đức Giêsu cho dân ăn.
Đức Giêsu
thấy dân đến với Ngài xin bánh ăn, hoặc xin được chữa lành mọi bệnh tật (x Ga
6,22-26; Mc 1,21-39) mà xem ra Ngài không quan tâm đến khát vọng của họ, lại
lên tiếng “DẠY NHIỀU ĐIỀU” (x Mc 6,34). Và vì phải nói nhiều điều với dân, nên
Ngài đã kéo dài tới ba ngày! (x Mt 15,32). Đây là điều Đức Giêsu muốn nói với các
chủ chăn: “Đừng lo làm hài lòng người đời”
(Gl. 1,10), vì người đời chỉ muốn nghe giảng càng vắn càng thích, không giảng càng
tốt! Bởi lẽ “Chúa của họ là cái bụng,
vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, họ chỉ biết nghĩ đến những điều ở dưới
đất, đích cùng của họ là diệt vong!” (Pl 3,19), nên họ thường lấy câu: “Có
thực mới vực được đạo làm thánh giáo” (x Mc 7,7b -8), mà gạt bỏ đi Lời Chúa dạy:
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và
sự công chính của Ngài, còn cơm ăn áo mặc Ngài ban thêm sau” (Mt 6,33).
Vậy chủ chăn phải noi gương Thầy Giêsu, có
quyền bắt dân nghe nhiều điều, những điều rút ra từ các Bài đọc mà Hội Thánh đã chọn trong
mỗi Thánh Lễ, nếu giấu đi Bài đọc nào là phạm tội giết hồn xác của tín hữu và
quăng xuống hỏa ngục! (x Cv 20,26-27). Thánh Tông Đồ đã bắt chước Thầy Giêsu
cũng giảng nhiều điều, đến nỗi ông kéo dài bài giảng đến quá nửa đêm, anh Êutykhô
từ lầu ba ngủ gật nhào đầu xuống đất! Thế mà ông Phaolô không cho ai đưa anh đi
cấp cứu, mọi người cứ phải ngồi nghe ông giảng nhiều điều cho đến sáng, rất may
sau buổi Lễ anh Êutykhô ra về bình an (x Cv 20,7t). Bởi thế có khi giảng không
vừa ý người đời như Thầy Giêsu, bị toàn dân chống đối và bỏ đi hết thảy, cũng
không hối hận (x Ga 6,60-66). Vì phải hết lòng loan báo Tin Mừng, nên ông
Phaolô khuyên Giám mục Timôthê, môn đệ của mình: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc
không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại
và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý
lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ,
bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về
những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng
đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh”
(2Tm 4,2-5).
Còn đối với các Kitô hữu, khi tham dự Thánh Lễ phải quảng đại nghe Lời
Chúa, dù có ngăn trở công ăn việc làm, mất ăn mất ngủ, hay nhịn đói nhịn khát,
cũng cứ kiên nhẫn nghe giảng lâu giờ như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai, dĩ
nhiên chẳng khi nào đi dự Lễ mà nghe giảng lâu tới ba ngày hay nghe thủng đêm
(x Mt 15,32; Cv 20,7-11). Tiếc rằng ngày nay rất nhiều người chỉ bố thí cho
Chúa năm mười phút nghe giảng là đã lâu rồi; trong khi đó lại rất quảng đại
ngồi lâu giờ dự tiệc của người trần thế! Có ai khi dự tiệc người đời mà chốc
chốc lại đưa tay coi đồng hồ? Trong khi đó, có nhiều người đi dự lễ cứ sốt ruột
xem đồng hồ hoài! Hãy nhớ rằng thời Cựu Ước nhiều người không muốn nghe lời các
ngôn sứ, nên xảy ra hạn hán, cả xứ chết đói, chỉ những ai đến nghe giáo huấn
của ngôn sứ Êlysa thì được ông cho ăn no, dù ông chỉ có 20 chiếc bánh mà nuôi
cả 100 người ăn no mà còn dư!(x 2V 4,42-44: Bài đọc I). Thế thì ai đến dự Lễ
nghe Lời Chúa qua Hội Thánh rao giảng, thì chắc chắn không ai phải đói, bởi lẽ
Chúa Giêsu quyền năng hơn ông Êlysa, Ngài chỉ dùng 5 chiếc bánh và 2 con cái,
nuôi một đoàn lũ đông vô kể ăn no mà vẫn còn dư. Nhưng việc đó chỉ là dấu chỉ
về tiệc Thánh Thể, ai đến dự cũng được no thỏa sự sống hạnh phúc muôn đời.
DẤU LẠ THỨ VI: BÁNH
VÀ CÁ CỦA AI?
Bánh và cá
của các môn đệ hoặc của em bé:
a.
Theo
Tin Mừng Nhất lãm: Bánh và cá
của các môn đệ đưa cho Thầy Giêsu (x Mt 14,17; 15,34; Mc 6,5;Lc 9,13).
b.
Theo
Tin Mừng Gioan: Bánh và cá
của em bé đưa cho Chúa Giêsu (x Ga 6,9).
Như thế
Chúa muốn người Công Giáo, người lớn cũng như trẻ nhỏ phải cộng tác với Ngài
trong mầu nhiệm Thánh Thể để nuôi nhau. Nói cách khác, khi ta rước lễ, ta không
ăn riêng Chúa Giêsu đã chết và sống lại, mà ta còn nuốt vào lòng mình cả các
thánh nữa. Chính vì thế lời cầu nguyện khi Chầu Thánh Thể, vị chủ sự xướng: “Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại”,
mọi người đáp lại: “Bánh đó đủ mọi mùi
thơm ngon”. Đủ mọi mùi đó là: mùi thơm của Chúa Giêsu Phục Sinh cộng với
mùi thơm của các Kitô hữu thánh thiện (x 2Cr 2,15).
Theo lương
tâm, không có luật nào buộc ta phải chia bánh cho người khác lúc ta đang túng
thiếu, đang đói khát. Thế mà Thầy trò gồm 13 người, cũng đang lúc đói như bao
nhiêu người đến nghe Đức Giêsu giảng, cả Nhóm chỉ có năm chiếc bánh và hai con
cá, chắc chắn không đủ cho Nhóm được no, nhưng cứ làm theo Lời Thầy dạy: Phải
đặt nhu cầu của đồng loại trước nhu cầu của Nhóm, nên sẵn sàng đem chia bánh cá
theo lệnh Thầy. Vậy nếu loài người ai cũng quý trọng đón nhận Lời Chúa, để có tâm hồn quảng đại như các Tông Đồ, thì
thế giới này chẳng còn có ai sống trong cảnh nghèo đói, điều này lạ hơn, làm
Chúa vinh hiển hơn. Xưa Chúa mưa manna và chim cút ngập trại dân Do thái, cứ
lượm ăn mỗi ngày, mới có đủ sức đi trong sa mạc 40 năm về miền đất Hứa (x Xh
16). Vả lại, nếu người ta sống ích kỷ, thì Chúa có hóa ra bao nhiêu của cải,
người ta cũng tranh nhau giành giật đến đổ máu vì miếng ăn!
DẤU LẠ THỨ VII: AI
BẺ BÁNH VÀ CHIA CHO DÂN?
Cả Đức Giêsu,
cả môn đệ:
a.
Theo
Tin Mừng Gioan: Chính Đức
Giêsu cầm
bánh bẻ ra phát cho dân ăn (x Ga 6,11). Đây là dấu chỉ Ngài bẻ nát cuộc đời
trên thập giá, trở thành Bánh Hằng Sống nuôi dân Ngài.
b.
Theo
Tin Mừng Nhất Lãm: Chính các
môn đệ lấy bánh từ tay Thầy Giêsu bẻ ra chia cho dân (x Mt 14,19b; 15,36b; Mc
6,41b; 8,7b; Lc 9,16b). Đây là dấu chỉ các ông cũng phải mất mạng như Thầy
trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, để bù vào những gì còn thiếu trong cuộc Tử
Nạn của Đức Giêsu (x Cl 1,24), và như thế trở nên cùng một tấm Bánh Hằng Sống
nuôi đoàn dân Chúa trao phó. Chân lý này đã được báo trước qua sự cố ông Gioan Bt
bị cắt đầu được nhắc đến ngay trước phép lạ hóa bánh, để xác quyết rằng cái
chết của ông Gioan Bt vì sứ mệnh Chúa trao, là dấu chỉ báo trước Chúa Giêsu sẽ
bị giết và môn đệ Ngài cũng bị giết! (x Ga 21,19). Để cùng trở thành bánh hằng
sống nuôi muôn dân (x Cl. 1,24; Mt 14,1-12; Mc 6,17-28; Lc 9,1-9).
Ta biết
rằng Tin Mừng Nhất Lãm nhắc lại sự cố ông Gioan Bt bị cắt đầu trước trình thuật
Hóa Bánh để các môn đệ noi gương bắt chước trên con đường phục vụ. Trong khi đó
ông Gioan không ghi sự cố ấy trước trình thuật Hóa Bánh, vì không ai làm mẫu
cho Chúa Giêsu trong sứ mệnh thi hành ý Chúa Cha.
DẤU LẠ THỨ VIII: NHỮNG
MẨU BÁNH DÂN ĂN CÒN DƯ THU LẠI ĐƯỢC MẤY THÚNG?
Cả bốn tác
giả Tin Mừng đều ghi trong trình thuật hóa bánh lần I: Đức Giêsu dùng năm bánh
và hai cá nuôi số dân đông không đếm nổi: chỉ đếm đàn ông đã tới 5. 000 người,
đàn bà con nít không kể. Cuối cùng các môn đệ thu lại những mẩu bánh còn dư
được 12 thúng! (x Mt 14,20-21; Mc 6,43-44; Lc 9,17; Ga 6,13)
Nhưng
trong trình thuật hóa bánh lần II: Chúa lại dùng 7 bánh và ít cá nhỏ, nuôi số
dân đông: đàn ông đếm được 4. 000 người không kể đàn bà con nít. Các môn đệ thu
góp những mẩu bánh dư được 7 thúng! (x Mt 15,37-38; Mc 8,8-9).
Số thúng
bánh dư là dấu chỉ:
-
12 thúng là dấu chỉ 12 môn đệ Đức Giêsu đặt làm nền tảng
xây dựng Hội Thánh.
-
Số 7 thúng bánh dư là dấu chỉ 7 Bí tích Đức Giêsu thiết lập,
là những kho tàng ơn Chúa, Hội Thánh dùng để nuôi dân.
Đây là
những dấu chỉ dạy dân Chúa cần ý thức đóng góp của cải cho các chủ chăn để xây
dựng Hội Thánh, nhất là làm phát triển Tin Mừng, sinh nhiều ân sủng, chứ không
chỉ những ơn từ bảy Bí tích mà thụ nhân được hưởng. Vì thế Điều Răn V của Hội
Thánh dạy các tín hữu phải đóng góp của cải vật chất tùy theo khả năng và lòng
Mến của mình cho nhu cầu của Hội Thánh (x GLHT số 2041-2043).
Thực ra
việc đóng góp của cải cho Hội Thánh chưa đụng đến nhu cầu sự sống của người tín
hữu, đó chỉ là của dư như những thúng bánh ăn còn thừa! Ta đặt giả thuyết: Mỗi
người bớt 1/10 của ăn nuôi thân xác mình để cộng tác với Hội Thánh, thì chắc
chắn chưa ai phải cảm thấy đói. Bởi vì khẩu phần 9USD cũng tương đương với khẩu
phần 10USD. Như thế, nếu mỗi người đi dự lễ Chúa nhật, trong cả tuần góp được
10USD bỏ vào giỏ Nhà Thờ, thì chắc chắn không giáo xứ nào thiếu tiền để phát
triển Tin Mừng, tập họp được nhiều người về cho Chúa.
Thật tội
nghiệp cho Chúa, Ngài hạ mình xuống xin chúng ta tiền của dư thừa để Ngài được
vinh hiển, mà rất hiếm người bố thí cho!!
Vậy ai
thực hiện được tám dấu lạ trên rút ra từ trình thuật Hóa Bánh, chắc chắn họ
xứng đáng là “bậc thần
thánh” (x
Ga 10,34), vì đã cộng tác với Chúa Giêsu làm hoàn hảo công trình Thiên Chúa tạo
dựng muôn vật trong “Tuần
Sáng Thế mới” mà Chúa Giêsu đang thực hiện khởi đi từ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh
cho tới ngày cánh chung, đúng với ý nghĩa con số 8 (Đức Giêsu bị giết vào ngày
thứ sáu, ngày thứ bảy Ngài được an táng, Chúa nhật hay là ngày thứ tám trong
tuần Ngài phục sinh).
Muốn sống mầu
nhiệm Bí tích Thánh Thể, không phải tin là dự tiệc Thánh Thể như lãnh bùa hộ
mệnh, để rồi an tâm sống buông thả theo xác thịt, mà phải biết cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin mở lòng nhân hậu mà hướng dẫn
chúng con, để khi biết cách dùng những của cải chóng qua đời này, chúng con đã
gắn bó với của cải muôn đời tồn tại” (Lời nguyện đầu Lễ). Vì chúng ta tin
Chúa Giêsu là “Vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16: Tung
Hô Tin Mừng). Chúa viếng thăm chúng ta Ngài mang theo quà. Quả thật “Chúa rộng
mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thỏa thuê” (Tv 145/144,15: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Ông Phaolô chỉ nói lại cho chúng ta duy
có một câu Chúa Giêsu dạy: “Cho thì có
phúc hơn là lấy!” (Cv 20,35).
Linh mục
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH