Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
28. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
29. Chúa
dưỡng nuôi hồn xác loài người Catholic.org.tw
30. Chúa
dưỡng nuôi dân Ngài Lm Carolo Hồ Bạc Xái
31. Chúa
ban của ăn cho loài người Lm Giuse Đinh lập Liễm
35. Chúa
ta đợi gì nơi tin mừng Achille Degeest
36. Phúc
âm đã phản ảnh trong thánh lễ Charles E. Miller
1. Cộng tác
với Chúa.
Hãy cộng tác với ơn Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và
cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như
thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi
buộc mỗi người.
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa
Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin
Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ
từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu
phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em,
trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở
nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng
là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.
Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm
thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một
vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói
cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách
thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không
được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ
của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư
phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại
tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin
Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã
vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao
nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng
Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và
kỳ diệu.
Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường,
nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể
dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước
lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục,
cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.
Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những
hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc
thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
2. Cơm bánh
hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên
tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là
Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa
cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
I. Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công
lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một
khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi
nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải
làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm
sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực.
Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi
ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ
có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri
Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi
họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã
ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái,
đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban
bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công;
thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127,
1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con
cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn,
chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi
dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
II. Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa
bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài
là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu
nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa
bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt
vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài
đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu
đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu
Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô
hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người
mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho
mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài
cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người.
Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người
chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết
người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ
Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy
bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh
em mình.
III. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân
sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận
tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm
bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và
hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có
sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm
nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để
giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh
giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như
một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn
bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha
nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy
Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ
được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên
tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh
phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa
mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở
nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Giêsu, cuộc sống của họ và của
những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận
ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người
thực tế không? Tại sao?
2. Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay
vinh dự cho bạn? Tại sao?
3. Tham gia xây dựng phúc
lợi cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
"Năm 1997, nhân dân Hàn Quốc (Korea) và Mã Lai (Malaysia)
đã cùng nhà nước kiềm chế lạm phát bằng việc chủ động tiêu dùng hàng nội, hạn
chế tối đa dùng hàng xa xỉ từ nước ngoài. Hơn thế nữa, rất nhiều phụ nữ của hai
quốc gia nầy còn ủng hộ nhà nước những đồ trang sức quý giá như vàng bạc, kim
cương... để cứu vãn nền kinh tế.
Những việc làm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc với ý chí tự cường
mạnh mẽ nầy đã góp phần tích cực giúp Hàn Quốc và Malaysia sớm vượt qua cuộc
khủng hoảng tài chính trầm trọng".
Sau khi nghe bản tin nầy, người bạn của tôi bình luận: "Ở
xứ người, khi gặp lạm phát, người dân ủng hộ vàng bạc, kim cương và những đồ
trang sức quý giá để cứu vãn quốc gia; còn tại xứ mình, khi đất nước gặp lạm
phát, việc đầu tiên của nhiều người là đổ xô mua vàng, mua đô để thủ thân làm
cho tình hình kinh tế thêm tồi tệ. Chủ trương của một số đồng bào ta là
"sống chết mặc bây, tao no trước đã". Nếu não trạng nầy không được
thay đổi, thì không bao giờ đất nước chúng ta theo kịp các lân bang."
Chúa Giêsu hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu
của Chúa Giêsu. Do đó, Người đã hạ mình xuống thế, hóa thân làm người để phục
vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống mình cho muôn người được sống.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu luôn sống vì
mọi người và cho mọi người: "cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người
cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin
Mừng" (Lc 7, 22)
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng
đặc biệt lưu tâm đến phúc lợi cộng đồng. Người không dừng lại ở việc trao ban
những lời đem lại hạnh phúc và sự sống đời đời cho đoàn dân đông đảo đang theo
Người mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tham gia xây dựng phúc lợi cộng
đồng.
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người,
thế nên Chúa Giêsu không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham
gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Người ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với
Người: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền
bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê vào cuộc: "Thưa Thầy, ở đây
có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người
thì thấm vào đâu! "
Thế là đứa bé sở hữu số thực phẩm nầy được đưa đến với Chúa
Giêsu. Người đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập
thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giêsu mời gọi góp phần cho phúc lợi
của cộng đồng.
Có lẽ đây là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn
vàng và thói đời vẫn cho rằng: "sống chết mặc bây, tao no trước đã."
Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ
vào tay Chúa Giêsu.
Sau khi có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, "Đức Giêsu
cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ,
Người cũng phân phát như vậy".
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ
người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, "ai muốn ăn bao nhiêu
tuỳ ý."
Số phận cá nhân tùy thuộc vào số phận cộng đồng
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của
toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề
và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại.
Cá nhân là những tế bào tạo thành xã hội nên số phận của từng cá
nhân hoàn toàn tùy thuộc vào số phận chung của xã hội, của cộng đồng.
Khi các cá nhân góp công góp sức xây dựng cộng đồng hưng thịnh
hơn thì sẽ được hưởng nhiều phúc lợi do cộng đồng mang lại.
Chính vì thế, "hiện nay các chiến lược gia của các công ty
lớn đều nhìn nhận rằng nghĩa vụ đóng góp cho phúc lợi xã hội phải là một mục
tiêu cốt lõi của công ty mình" (theo lời Tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Tổng
Giám Đốc Cty Apave Việt Nam & Đông Nam Á)
Ngồi chờ xã hội mang đến nhiều phúc lợi cho mình mà không tham
gia cống hiến cho cộng đồng xã hội sẽ bị chê trách là ký sinh.
Ai biết hy sinh quyền lợi riêng để lo cho lợi ích của tập thể là
người có tầm và có tâm. Người biết vượt ra ngoài vòng lợi ích cá nhân và gia
đình để chăm lo cho phúc lợi cộng đồng là người có nhân cách cao đẹp.
Và đó cũng là mẫu người mà Chúa Giêsu muốn đào tạo qua nội dung
Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin dạy chúng con biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên
người biết chăm lo cho phúc lợi của anh chị em chung quanh mình. Amen.
4. Hãy xót thương người
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong cuộc thi viết chuyện dưới 100 chữ, có câu chuyện kể rằng:
Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực
lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của một đứa bé ngồi trên xe hơi vất
xuống lề đường. Thằng anh chạy vội đến nhặt, nhưng bánh quá lấm láp bởi đất
bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai rằng: "Anh hai thổi
sạch rồi mình ăn". Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chẳng chịu đi
cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó
làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít:
"Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh". Thằng anh ngậm ngùi: "Ừ,
tại anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón
thôi!"
Chuyện quá ngắn mà lòng quặn đau. Chuyện không biết thực hư đến
đâu? Nhưng cảnh đời người thừa thải đổ đi. Kẻ nghèo bòn nhặt lấy mà ăn thì vẫn
còn quá nhiều ở xung quanh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta phải
làm gì trong hoàn cảnh hôm nay?
Năm xưa Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương xót đám dân theo Ngài.
Họ nghèo đói tinh thần lẫn vật chất. Họ đói cơm và đói cả tình thương. Thiếu
cơm thì không có bữa ăn ngon. Thiếu tình thương thì bữa ăn mất ngon và cuộc
sống chỉ là những tháng ngày buồn chán và thất vọng. Hai vấn đề nhưng chung quy
vẫn là một. Không có tình thương sẽ không có chia sẻ. Khi có tình thương thì
"bánh ngon bẻ đôi", "chị ngã em nâng", người ta sẽ sống đùm
bọc lẫn nhau đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau" và ngay cả khi
nghèo đói họ vẫn có thể chia sẻ cho nhau, vì "lá lành đùm lá rách".
Chúa Giêsu đã khéo léo gợi lên trong lòng các môn đệ một vấn nạn
lương tâm: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?". Dường như các môn đệ
đã lặng thinh trước vấn nạn Thầy Giêsu đặt ra. Họ im lặng vì "lực bất tòng
tâm". Họ im lặng vì chưa cảm thấy trách nhiệm liên đới với người khổ đau.
Philipphê đã nhanh trí thoái thác trách nhiệm khi ông nói: "Thưa Thầy, có
mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.".
Môn đệ Anrê cũng ủng hộ lập trường của bạn ông: "Ở đây có một em bé có năm
chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào
đâu!"
Khi người ta không cảm thấy liên đới, người ta sẽ tìm trăm ngàn
lý do để né tránh, để an phận thủ thường, để bình an lương tâm. Các môn đệ muốn
nại vào khó khăn để biện minh cho sự thờ ơ của mình. Nhưng Chúa đã tận dụng chính
khó khăn đó để dạy các ông: hãy bắt đầu bằng nỗ lực của bản thân và chính Thiên
Chúa sẽ hoàn tất mọi sự trong tình yêu quan phòng của Ngài. Vì "mưu sự tại
nhân, thành sự tại thiên".
Thực vậy, sau khi đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá từ lòng
quảng đại của một em bé. Chúa Giêsu đã có thể nhân rộng ra thành hàng trăm,
hàng ngàn tấm bánh. Với quyền năng của một vì Thiên Chúa có thể tạo dựng mọi sự
từ hư vô. Ngài có thể làm tất cả nhưng Thiên Chúa lại muốn hành động ngang qua
con người. Bởi vì con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Ngài muốn con người tiếp
tục thay Ngài gieo yêu thương vào trong thế gian. Hay nói cách khác, con người
được tạo dựng để yêu thương. Do đó, ai không yêu thương là vong thân, là đang
chết dần trong ích kỷ và cô đơn. Người ta sống để yêu, mà không còn khả năng
yêu thương, tức là con người đã mất giá trị đích thực của đời người.
Có lẽ nhân loại hôm nay không chết đói cho bằng chết vì thiếu
tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa
cử yêu thương, san sẻ của đồng loại. Con người cần cơm bánh để sống. Nhưng con
người lại rất cần tình thương để tồn tại. Thật là một bất hạnh cho con người,
nếu hai chữ tình yêu không còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những
ai không có ai đó để thương, để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con
người không có tình yêu sẽ đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Lịch sử còn đó những cuộc tương tàn huynh đệ. Bởi thiếu tình yêu
người ta đã đối xử bất khoan dung với nhau. Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó
hàng ngàn người chết vì chiến tranh và nghèo đói. Họ đã chết bởi sự vô tâm đến
tàn nhẫn mà con người dành cho nhau. Chính trong giờ phút này, trên thế giới
vẫn có biết bao trẻ em chết vì đói, biết bao em bé sinh ra suy dinh dưỡng đang
khi đó hàng tấn lương thực dư thừa của người giầu, của các nước giầu đang đổ ra
biển khơi. Theo thống kê thì nhân loại hôm nay kinh tế đã phát triển không
ngừng. Của ăn của để luôn thừa mứa. Trung bình cứ 6 người đủ ăn thì có một
người nghèo đói. Nhưng đáng tiếc, 6 người lại không đùm bọc được một người.
Người đói vẫn van xin, vẫn đợi chờ lòng thương xót, vẫn rã rời vì thiếu tình
thương của đồng loại. Kẻ đói vẫn sống lây lất. Người giầu sang vẫn dư thừa đổ
đi.
Lời Chúa hôm nay dường như đang chất vấn bạn và tôi về những
thiếu sót của chúng ta trước sự khốn cùng của tha nhân. Chúng ta hãy hành động
nhân danh Chúa để bánh và cá tiếp tục được nhân rộng đến cho mọi người, để tình
yêu đem lại hạnh phúc cho con người hôm nay.
Xin Chúa giúp chúng con luôn giầu lòng quảng đại để có thể trao
ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương. Amen.
5. Đừng bỏ lỡ
cơ hội – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa là tình yêu. Con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa. Con
người cũng phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa giữa thế gian. Thế gian cần
có tình yêu để tồn tại. Không có tình yêu, thế gian sẽ là một kiếp đoạ đầy.
Thật là một bất hạnh cho con người, nếu hai chữ tình yêu không
còn có ở trên đời. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có ai đó để thương,
để nhớ. Tình yêu là lẽ sống còn của con người. Con người không có tình yêu sẽ
đầy đoạ mình và làm khổ anh em.
Tình yêu sẽ giúp cho con người nhớ đến nhau, quan tâm đến nhau
và hy sinh cho nhau. Tình yêu sẽ khiến người ta chạnh lòng thương với những
mảnh đời bất hạnh chung quanh. Không có tình yêu người ta sẽ dửng dưng vô cảm
với nhau. Nhưng nhờ tình yêu người ta sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thi thố
tình yêu.
Em bé trong tin mừng hôm nay đã không bỏ lỡ cơ hội giúp người.
Có thể em không nghĩ rằng mình sẽ giúp được cho hơn 5000 người có bánh và cá
ăn. Em chỉ trao ban một phần nhỏ của em cho ai đó đang quặn đau vì đói. Em đã
dâng cho Chúa một cách vô vị lợi, không toan tính thiệt hơn. Em đã làm tất cả
vì tình yêu đối với đồng loại của mình. Chính lòng quảng đại của em đã được
Chúa làm phép lạ nhân rộng bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn.
Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta thường bỏ lỡ cơ hội giúp
người. Đôi khi chúng ta cũng áy láy vì từ chối giúp người ăn xin, người cơ nhỡ.
Đôi khi chúng ta cũng tiếc nuối vì việc thiện chúng ta đã bỏ qua. Và đôi khi
chúng ta cũng ân hận vì sự vô tâm của mình mà ai đó đã chết dần vì chúng ta.
Người ta kể rằng: vào một đêm đông gió tuyết lạnh lùng. Một ông
lão đến gõ cửa nhà phú hộ. Người phú hộ trông thấy ông lão đang co ro trong
chiếc áo rách tả tơi. Ông biết ông lão rất lạnh, nhưng ông nghĩ để ông ấy đi
thì hơn. Vì nhà mình sạch, ông lão thì bẩn và hôi hám, chi bằng cho ít tiền để
ông lão ra đi. Người phú hộ đã quyết định như thế và đã cho ông lão vài đồng xu
để ra đi.
Mấy ngày sau, một thi thể đã được phát hiện ở đầu làng, bị chôn
vùi dưới tuyết. Người bị chết cóng chính là ông lão ăn xin trong làng. Người
phú hộ nghe tin cảm thấy tiếc nuối vì mình bỏ lỡ cơ hội cứu sống một mạng người.
Vâng, bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện là một thiếu sót của chúng ta.
Đôi khi vì đó mà chúng ta ân hận cả đời. Thiên Chúa luôn tạo cho chúng ta biết
bao cơ hội để trao ban những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân, để thi thố tình
thương đến với những anh em bất hạnh. Có thể là những cơ hội cứu sống người
khác. Có thể là những cơ hội mang lại niềm vui cho tha nhân. Có thể chỉ là
những cơ hội nhỏ nhoi khi chúng ta biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau từ
ngay chính gia đình của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào được nước trời phải
biết lập công qua việc giúp đỡ tha nhân. Tha nhân là hiện thân của Chúa. Ai
giúp đỡ tha nhân là giúp đỡ Chúa. Vì thế, hãy thi thố tình thương trong khả
năng, trong hoàn cảnh của mình. Đừng đánh mất cơ hội vào Nước trời khi bỏ rơi
đồng loại và sống dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.
Thế nhưng, chúng ta vẫn đang bỏ đi biết bao cơ hội giúp người.
Biết bao người già đã chết trong sự cô đơn vì con cháu bỏ rơi. Biết bao người
chồng, người vợ đang bị đối xử bằng những đòn roi, những lời thoá mạ, làm nhục
lẫn nhau. Biết bao lần chúng ta đã ngoảnh mặt làm ngơ khi ai đó van nài chúng
ta. Biết bao lần chúng ta bước qua những mảnh đời bất hạnh mà không hề xót
thương.
Chúa Giê-su Ngài luôn chạnh lòng thương với những mảnh đời bất
hạnh. Ngài không bỏ lỡ cơ hội giúp người. Từ mọi thành phần. Từ mọi tầng lớp.
Ngài đều thi ân giáng phúc. Hôm nay, Ngài cũng nhắc nhở các môn sinh: “chính
anh em hãy cho họ ăn”. Cho dù các ông nại vào lý do số đông để từ chối, để nói
rằng: “lực bất tòng tâm”. Nhưng Chúa muốn các ông phải bắt đầu. Bắt đầu từ việc
thu gom một phần bánh nhỏ bé. Mọi việc dù nhỏ, dù lớn cũng phải được bắt đầu.
Bắt đầu không nhất thiết phải hoành tráng, phải đánh trống khua chiêng. Bắt đầu
từ những việc nhỏ bé âm thầm nhưng với thời gian, với ơn Chúa sẽ trở thành
những việc phi thường.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết bắt đầu việc thiện từ những việc
nhỏ bé tầm thường, và để Chúa sẽ kiện toàn những điều tốt đẹp đó theo ý Ngài.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm việc thiện cứu đời, nhưng luôn
biết tận dụng mọi cơ hội lớn nhỏ để dâng cho Chúa như những chiếc bánh, con cá
hầu mang lại niềm vui cho mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những hy
sinh, những nghĩa cử bác ái mà chúng ta đã làm cho Chúa và cho tha nhân. Amen.
6. Bánh Hằng Sống –
Cố Lm. Hồng Phúc
Hai bài đọc Chúa Nhật hôm nay chú trọng đến việc bánh được biến
hóa ra nhiều, để nuôi dân chúng ăn no nê. Xứ Do thái là xứ lúa mì, đến nỗi có
những nhà vạn vật học cho rằng xứ Palestine là thủy tổ lúa mì. Bài đọc thứ nhất
trích ở truyện Tiên tri Êlisê làm cho 20 chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa,
biến hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no nê mà lại còn dư nữa. Đó là dấu chỉ tình
thương của Thiên Chúa đối với con cái Người, và hứa hẹn những ngày sung túc khi
Đấng muôn dân mong đợi đến.
Hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa làm cho 5 chiếc bánh
lúa mạch và 2 con cá, biến hóa ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà
và trẻ con, và còn dư 12 thúng bánh vụn.
Đây là một phép lạ, một trong những phép lạ cả thể mà Chúa Giêsu
đã làm. Tất cả bốn nhà Thánh Sử đều ghi lại. Các nhà chú giải vô thần tìm cách
giải thích bằng những phương pháp tự nhiên nhưng lập luận của họ đều không đứng
vững. Đối với Gioan, đây là một dấu chỉ, danh từ mà Gioan hay dùng và chúng ta
thấy rõ Ngài muốn hướng dẫn chúng ta về Chúa Giêsu và phép Thánh Thể.
Vậy trong câu truyện, Chúa Giêsu là vai chính, là trung tâm
điểm. Việc Chúa biến hóa bánh ra nhiều và bài giảng sau đó, có mục đích bạch lộ
con người của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng quyền năng và rộng rãi. Mỗi người muốn
dùng bao nhiêu tùy ý. Ngày xưa dưới sự hướng dẫn của Môsê, trong cuộc lưu lạc
lâu ngày lâu tháng trong sa mạc, dân chúng chỉ được nhận số manna cần dùng (Xh.
15, 4. 16-18). Trái lại, ở đây thật là thừa thãi dư dật, cũng như trong tiệc
cưới Cana, để nói rằng với Chúa Giêsu thời viên mãn đã đến, Đấng Messia đã xuất
hiện. Các môn đệ, vâng lời Thầy, còn “thu lượm được 12 thúng bánh vụn”. Con số
12 theo Thánh Kinh là con số ám chỉ sự đầy đủ: Gioan muốn ám chỉ rằng phép lạ
hóa bánh ra nhiều để dân chúng được ăn no nê, sẽ còn tiếp diễn.
Nhất là, như rượu Cana, như bánh biến hóa, không phải chỉ để
nuôi năm ngàn người, mà để nuôi cả nhân loại qua mọi thế hệ. Như vậy phép lạ là
dấu chỉ phép Thánh Thể. Bánh ấy là bánh ban sự sống, quần chúng đông đảo vô số
kể, đó là Giáo hội qua các thời đại. Chúa Giêsu hiện diện trong Giáo hội sẽ
thực hiện lại phép lạ mà Ngài làm hôm nay là biến bánh rượu nên Thịt và Máu để
nuôi linh hồn chúng ta. Và nhân danh Ngài, “các thủ hạ của Đức kitô và những
người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” còn tiếp tục ban phát Bánh hằng
sống cho nhân loại (ICor. 4, 1).
Sau khi phép lạ xảy ra, “Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến
bắt Ngài để tôn lên làm Vua, nên Ngài lại trốn trên núi một mình”.
Lại tái diễn ảo mộng một Đấng Messia chính trị đến để cứu vãn
quốc gia! Không. Ngài đến để cứu vãn con người. Ngài là Vua, nhưng là Vua các
tâm hồn. Ngài hằng kêu gọi một cuộc trở lại với Thiên Chúa. Nước Ngài là nước
tự do, hòa bình và bác ái, như đã được vang vọng giữa sao trời đêm Ngài xuống
thế.
Chúa là Bánh hằng sống, là của nuôi tâm hồn đau khổ nhưng “đói”
Chúa. Một tù nhân cải tạo viết: “năm 1986, từ khi trại chúng tôi có một linh
mục tuyên úy, hoạt động tôn giáo có đều đặn và tổ chức hơn, được xưng tội và
rước Mình Thánh mỗi ngày Chúa nhật, được suy niệm bài Phúc Âm bằng… một hai câu
thơ lục bát tóm gọn truyền miệng cho nhau. Mình Thánh Chúa được bỏ trong các
hộp dầu cù là, rượu được đưa vào trại qua các ve dầu Nhị Thiên Đường, còn bánh
lễ là các rẻo bánh. Hàng tuần cha PVL dâng Thánh lễ ban đêm một mình trong mùng
ngủ, chuyển Mình Thánh trong hộp dầu cù là cho một người gần nhất và chuyển
tiếp ra các đội khác trong toàn trại. Chúng tôi đã được Chúa bổ dưỡng và ban ơn
sức mạnh trong những ngày sống trong đau khổ”.
“Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra và thi ân cho chúng tôi được
no nê” (Tv. 144, 16 – Đáp ca).
7. Bánh hóa nhiều – Phêrô
Trần Đình Phan Tiến
Phép lạ bánh hóa nhiều (I) mà Chúa Giêsu (Ga 6,1-15) đã thực
hiện, không phải là một sự thách thức đối với Người. Vì nguyên mầu nhiệm nhập
thể và nhập thế của Người là một phép lạ vĩ đại rồi, cũng là phép lạ duy nhất
mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Đó là một sự mặc khải lớn lao và là một
quà tặng duy nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người. Vì ngoài Đấng cứu độ
,Thiên Chúa không còn món quà nào lớn hơn như thế nữa.
Nhưng tiếc thay! nhãn quan của loài người thì luôn đối nghịch
với nhãn quan Nước Trời, để hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng
Thiên Sai phải chu tất sứ mạng của Người. Đó là mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa
đã thực hiện. Vì vậy, sự xung đột giữa nhãn quan trần thế và nhãn quan Nước
Trời là điều tất yếu. Bởi vì, nếu nhãn quan trần thế có cùng một điểm chung với
nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa đã không dùng Thập gía để cứu độ nhân trần.
Nên chi Thiên Chúa luôn nhượng bộ trần thế, với một lý do duy
nhất đó là, vì Ngài là Thiên Chúa. một Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương, dù
nhãn quan bất đồng.
Còn ngược lại đối với nhân thế, Thiên Chúa càng yêu thương thì
họ càng phản nghịch, bởi vì họ là nhân thế. Nhân thế thì luôn luôn nhìn đời
bằng nhãn quan thế trần. Nhãn quan thế trần thì không thể nhìn ra Đức Kitô
Giêsu, vì thế họ không tin Người từ Thiên Chúa mà đến. Suốt cuộc đời Chúa Cứu
Thế là suốt một hành trình bị "chối từ". Mặc dù Người không bị mắc
lừa, không bị kích động để làm phép lạ, nhưng Khi cần thiết Người vẫn biểu hiện
những dấu lạ đúng lúc, đúng nơi, đúng thời điểm. Dù vậy, họ nhiều lần chứng
kiến quyền năng Thiên Chúa thể hiên nơi Người, nhưng họ cũng không tin Người là
"CON THIÊN CHÚA". Bởi vì sự đối nghịch giữa trần thế và Thiên Chúa,
mặc nhiên họ không dám chống lại Thiên Chúa, nhưng nhãn quan trần thế của họ
không đón nhận nhãn quan thiên quốc, đó là Đấng Thiên Sai. Dù Thiên Chúa đã mặc
khải chính Đấng Thiên Sai cho họ,nhưng Thiên Chúa đã mặc khải một cách phổ
quát, phần còn lại khi Đấng Thiên Sai xuất hiện thì họ phải biết đón nhận
Người, như nhu cầu "đói" ăn của thân xác họ. Nhưng tiếc thay! điều
nầy đã không xảy ra, vì họ chỉ biết tiếp nhận nhu cầu của trần thế là lương
thực phải tiêu hao. Rõ ràng họ biết mở lòng để đón nhận nhu cầu thể xác là
bánh, nhưng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời là Chính Đấng Cứu
Thế.
Như vậy, sự mâu thuẫn ở nơi họ là quá rõ ràng, họ đòi hỏi nơi
Đấng Thiên Sai một sự nghịch lý là Người phải cung cấp lương thực thân xác cho
họ. Rõ ràng họ không mở lòng để đón nhận nhãn quan Nước Trời, thì Thiên Chúa
không thể nào ban ơn cứu độ cho họ được.
Nhìn lại kẻ có nhãn quan Nước Trời là thiểu số, số ít mà thôi,
chỉ có số ít đi theo Chúa Giêsu và tin Người là Đấng Thiên Sai. Những người ấy,
ngay cả cùng thời với Chúa Giêsu, hay bây giờ và về sau nầy nữa, mãi mãi cũng
là thiểu số. Vì "kẻ được gọi thì nhiều, mà kẻ được chọn thì ít". Như
vậy kẻ được chọn là kẻ có nhãn quan Nước Trời, vì kẻ có nhãn quan Nước Trời thì
họ mới đón nhận Đấng Cứu Thế và tin vào Người là "GIÊSU"! Vì Những ai
không tin vào "GIÊSU" thì làm sao họ tin Người là "BÁNH HẰNG
SỐNG". Nhưng chính Người đã nói: "CHÍNH TÔI LÀ BÁNH HẰNG SỐNG"(
Ga 6, 35). Khi và chỉ khi, người nào có nhãn quan Nước Trời thì họ mới tin vào
"Lời" của Chúa Giêsu.
Như vậy, muốn có nhãn quan Nước Trời, nhân thế phải biết mở lòng
ra để đón nhận, dù là Thiên Chúa đã mặc khải, nhưng nhân thế không hợp tác với
Ngài, thì ơn ích thiêng liêng là ân sũng của Thiên Chúa cũng không thể xảy ra
được. Phép lạ Bánh hóa nhiều là một minh chứng cụ thể về việc nầy. TIN vào Đức
Kitô, đồng thời là nhãn quan Nước trời, là một ân sủng của Thiên Chúa dành cho
nhân thế, nhưng đòi hỏi sự hợp tác của nhân thế như: "năm chiếc bánh và
hai con cá của em bé" trong đoạn Tin Mừng (Ga 6,1-15) hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin vào Chúa là chúng con đã mở lòng
ra để đón nhận nhãn quan Nước trời, trong mọi, nơi mọi lúc xin ban cho chúng
con biết chu toàn phận sự chứng nhân cho Chúa ở trần thế nầy. Amen.
9. Bánh và cá – Lm. Giuse
Trần Việt Hùng
Suốt cuộc lữ hành của dân Do-thái trong hoang địa, Thiên Chúa đã
ban Manna từ trời rơi xuống để dân chúng thu lượm lại làm bánh nuôi sống. Bánh
trở thành dấu chỉ hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Sách Các Vua nói đến
một người từ Baal-Salisa đến dâng của đầu mùa là bánh mạch nha và lúa mì. Thiên
Chúa đã chúc lành cho bánh này được dư đầy và cả trăm người ăn mà còn dư.Nhưng
tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn
được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì Thiên Chúa phán thế
này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư (2 Vua 4, 43). Bánh trở thành biểu tượng của sự
dâng hiến và hợp nhất. Muôn ngàn hạt lúa miến làm thành một tấm bánh.
Từ rất sớm, con người đã biết dùng khả năng để biến đổi hoa trái
và hạt miến, lúa mì thành cơm bánh để nuôi thân. Con người cần có thực phẩm
nuôi sống. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự trong vũ trụ để con người và súc vật
có thực phẩm mà dùng. Mọi nguồn trong thiên nhiên đều có công dụng tương trợ
nuôi sống lẫn nhau. Thiên Chúa không tạo dựng bất cứ loài nào một cách thừa
thãi và vô dụng. Trật tự lạ lùng sinh sống trong vũ trụ là cả một sự hài hòa hỗ
tương giúp muôn vật được tồn tại. Không có một loài nào bị dư thừa loại bỏ. Chỉ
vì khả năng của con người còn giới hạn chưa thể khám phá ra hết những nhiệm mầu
ẩn tàng nơi các sự vật chung quanh.
Chúa biến 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá ra thật nhiều để
nuôi hơn 5 ngàn người. Chúa nhân bánh và cá lên gấp bội cho nhiều người được ăn
thỏa thuê. Biết rằng Chúa không làm phép lạ hóa bánh thường xuyên để nuôi sống
mỗi ngày. Chúa đã trao ban cho con người có thân xác khỏe mạnh, có trí khôn, có
khả năng và có môi trường để lao động. Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào
vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai (Stk. 2, 15). Chúa muốn con người
cộng tác vào công trình sáng tạo với Chúa để làm cho trái đất thêm trù phú và
phì nhiêu. Con người phải lao động với sức mình để nuôi thân. Chúng ta không
thể ngồi đó chỉ để xin xỏ khấn vái mà phải xả thân lao động. Sau khi tổ tông
trái lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ đã nhận được lời truyền:Ngươi sẽ phải đổ mồ
hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được
lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất. (Stk. 3,19).
Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh nuôi nhiều ngàn người ăn no nê.
Đây là dấu chỉ lòng thương xót và sự quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa đối với
các loài thụ tạo, nhất là loài người. Đã có lần Chúa đã nói về sự quan phòng
rằng:Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho;
thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng
sao (Mt. 6,26). Chúa Giêsu có quyền năng trên mọi tạo vật. Ngài có quyền tác
tạo và biến đổi mọi sự vượt trên tiến trình tự nhiên. Mọi sự vật trong vũ trụ
cần có thời gian để sinh nở, phát triển và chín mùi. Với uy quyền trong ý
tưởng, lời nói và hành động, Chúa Giêsu rút bớt thời gian để có hiệu qủa ngay
tức khắc. Đó là các phép lạ.
Chúng ta quan sát mọi loài từ thực vật cho đến các loài động
vật, tạo hóa đã đặt để trong mỗi loài một sự truyền sinh giống nòi tùy theo nhu
cầu của cuộc sống. Có những cây trổ sinh hoa trái theo mùi vị khác nhau: Chua,
cay, mặn, ngọt, đắng, chát và nồng. Một cây lúa miến sinh hằng trăm hạt. Một
giàn nho trổ sinh muôn ngàn trái. Một con cá lóc dẫn theo cả mấy trăm con rồng
rồng. Một con cua ôm cả ngàn con. Một con nhền nhện ôm bầu trứng cả ngàn con…
Các con vật sinh xôi nẩy nở gấp trăm gấp ngàn tùy theo giống loại. Theo tiến
trình tự nhiên, với thời gian được ấn định, mọi loài đều có cơ hội sinh hoa kết
qủa. Ngay từ thuở sơ khai, con người biết dùng khả năng mình để trồng cấy và
biến đổi hạt lúa thành cơm bánh nuôi thân.
Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều hai lần. Chúa đã dùng bánh trong
bữa tiệc ly để biến đổi thành Mình Thánh Chúa nuôi hồn:Cũng trong bữa ăn, Đức
Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói:
"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy (Mt 26, 26). Manna là bánh ban
xuống bởi trời nhưng tổ tiên đã ăn và đã chết. Giờ đây Thiên Chúa sẽ ban cho họ
bánh trường sinh, ai ăn sẽ được sống đời đời:Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi
là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng
khát bao giờ (Ga 6, 35). Chúa Giêsu là bánh trường sinh từ trời xuống để nuôi
dưỡng hồn xác chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu qua sự hiện diện nhiệm mầu
trong Bí Tích. Chúng ta tôn thờ, kính viếng, kết hợp và nhận lãnh Thánh Thể làm
của ăn. Chúng ta trở nên một trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta tuy nhiều
nhưng chỉ là một, cùng chia sẻ chung một tấm bánh và uống chung một chén rượu.
Thánh Phaolô đã xác tín rằng: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh
em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm
tin, một phép rửa (Eph 4, 4-5). Trong Chúa Kitô, chúng ta không còn phân biệt
nam nữ, giầu nghèo và tự do hay nô lệ. Chúng ta không chỉ thuộc về Hội này hay
Hội nọ, mà chỉ có một hội, đó là Hội Thánh Chúa:Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của
mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4,
6).
Ngày nay, Chúa vẫn có thể tiếp tục làm các phép lạ hóa bánh ra
nhiều để nuôi dân. Chúa cần 5 chiếc bánh nhỏ và 2 con cá. Ai trong chúng ta
cũng có thể dâng cho Chúa chút ít tấm bánh và vài con cá nhỏ. Chúa sẽ chấp
nhận, chúc tụng, tạ ơn và đem ra phân phát cho nhiều người. Mỗi năm Tổng Giáo
Phận Nữu Ước đều có cuộc vận động gây quỹ cho Đức Hồng Y để giúp các nhu cầu cần
thiết trong Giáo Phận. Tuy dù cuộc sống khó khăn và kinh tế đang xuống dốc,
nhưng lòng quảng đại của con người không giảm. Từ những đồng xu của các bà góa
nghèo tới những tấm lòng rộng lượng bao la, mỗi năm một tăng, số tiền dâng cúng
năm nay 2012 của Tổng Giáo Phận đã lên tới 19 triệu 30 ngàn đôla.
Chúa sẽ nhận những lễ dâng nho nhỏ hằng ngày của mỗi người như
đã nhận 5 tấm bánh và 2 con cá của một bé trai dâng cúng. Chúa Giêsu nhắc nhở
chúng ta:Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10, 8).
Chúng ta biết rằng góp gió thành bão. Của lễ dâng cho dù có ít ỏi vẫn có thể
sinh ra nhiều hoa trái bông hạt. Chỉ cần 50 xu hay một đồng đô cũng có thể nuôi
sống một trẻ mồ côi, một em khuyết tật, một người phong cùi hay một cụ già neo
đơn trong một ngày tại quê hương nghèo ở Việt Nam. Ai cho đi thì sẽ được ban
thêm: Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có,
thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi (Mt 25, 29).
Lạy Chúa, Chúa hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no thỏa.
Xin cho tấm bánh được tiếp tục bẻ ra phân phát cho những người túng đói. Chúa
đã ban cho chúng con lương thực hằng ngày đầy đủ, xin cho chúng con cùng biết
chia sẻ những miếng bánh vụn từ bàn rớt xuống cho những người đang đói khổ. Xin
cho chúng con biết nghĩ đến người khác, xin đừng để chúng con phí phạm của ăn
thức uống hằng ngày. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
10. Bánh hóa nhiều.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ
tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều
gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc
sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ
chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một
chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để
chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà
có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của
bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà
phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm
sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi
ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ
nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay
và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu
cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá
cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được
no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để
Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi
điều mơ ước của bà.
Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống,
chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai.
Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa.
Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta
một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy
tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm
cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng
ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu
bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với
chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì
ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ
bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy
chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện
những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta
trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt
qua sự mong ước của chúng ta.
11. Chúng ta mua đâu ra
bánh cho họ ăn.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời
sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao
giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến
thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ
giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài
biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất
vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một
bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa
ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần
sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn
đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái
bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã
trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói
đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói
cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng,
đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để
nghỉ ngơi...
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc
với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc
thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn
con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng
trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi
lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều
mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ
với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước
gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng
và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho
ra người?
Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người
nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người,
mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên
trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô
gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông
chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên
và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của
rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những
ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con
thực hiện những ước mơ đó.
12. Đào tạo
trái tim – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin
Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi
tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới
những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự
hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó
khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét
giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức
Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát,
Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ
ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán
cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên
người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao
này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền
năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim
con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương
phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là
một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể,
lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng
có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có
rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương
tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức
Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy
cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương
đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông
giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn
dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào
công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn
ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng
Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con
người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc.
Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có
câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu
cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong
muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn
lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh.
Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng
thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho
Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn
người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói
khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện
nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua
cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi
thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết
kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của
mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ.
Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới
còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối
chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực
thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại.
Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người
sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về
lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó
là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương
thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói
khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc
làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn
diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm
Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm
linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu
muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương
anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm
cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh
em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của
đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn
diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không
chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng
hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm.
Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao
giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể
không?
13. Có thực mới vực
được đạo
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn)
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước đã được ăn no nê bánh manna từ
trời rơi xuống. Bánh đó tượng trưng cho ân huệ Thiên Chúa thương dân Người.
Ngài không muốn họ phải chết đói chết khát.
Hôm nay và mãi mãi Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc cuộc
đời chúng ta. Ngài không bỏ rơi con người. Ngài chăm sóc chúng ta từng chi tiết
nhỏ mọn như một người mẹ hiền thương con và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu chính
là hiện thân tình thương ấy của Thiên Chúa Cha.
Các bản văn Kinh Thánh CN 17 TN đều thuật lại việc Thiên Chúa
chăm sóc son người một cách cụ thể liên quan đến miếng cơm manh áo. Bài đọc 1
sách các vua quyển thứ 2 kể lại việc hồi ấy có nạn đói lớn trong miền, người ta
đem biếu ông Êlisa người của Thiên Chúa 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng
trong bị. Ông bảo ‘phát cho người ta ăn’. Nhưng tiểu đồng hỏi ông: ‘Có bằng
này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?’ Ông bảo: ‘Cứ phát cho
người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: họ sẽ ăn mà vẫn còn dư’. Tiểu đồng phát
cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán (x. 2 V 4,42-44).
“Chúa thương rộng mở tay ban, đoàn con hết thảy muôn vàn thoả thuê” (Tv 144).
Bài Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều từ phần đóng
góp phần ăn của một cháu bé so với đám đông mấy ngàn người cũng chẳng thấm vào
đâu; nhưng kết quả diễn ra thật lạ lùng.
Trước khi cho chúng ta ăn no phần xác Chúa phải cho ăn phần hồn.
Họ phải hy sinh vất vả theo Chúa để nghe Lời Chúa trước đã rồi Chúa mới làm
phép lạ hoá bánh ra nhiều cho họ ăn. Chúa biết 'có thực mới vực được đạo'. Chúa
bồi dưỡng, cứu độ con người cả hồn lẫn xác; chăm lo cả cuộc sống chúng ta.
Đám đông dân chúng, một khối người khổng lồ vây quanh Chúa Giêsu
để nghe Ngài giảng. Chúa đã nuôi họ bằng Lời hằng sống. Chúa còn muốn nuôi họ
bằng lương thực vật chất nữa. Chúa biết kinh nghiệm khi đói khát, người ta dễ
cáu gắt, khó chịu, bực bội; thậm chí vì miếng ăn có thể chém giết nhau. Chúa
Giêsu biết rõ điều ấy nên không nỡ để đám đông sau khi nghe Chúa giảng dạy lâu
giờ mà phải ra về khi bụng còn đói. Rất có thể họ sẽ phê bình, chỉ trích, nổi
cáu, đả đảo Chúa vì đói quá thì sao!
Nhưng cũng không phải là ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Đám đông dân
chúng và các môn đệ đâu có biết sau đó Chúa làm phép lạ cho họ ăn no nê. Họ chỉ
biết theo Chúa để nghe giảng thôi. Mà ở địa bàn lúc bấy giờ là nơi hoang vắng
cũng chẳng có quán ăn nào.
Phép lạ có được là nhờ sự quảng đại của một em bé đã dám bỏ phần
ăn của mình là 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,1-15). Phép lạ đòi hỏi có sự
cộng tác, chia sẻ. Phép lạ đòi có sự quảng đại, hy sinh. Chúng ta luôn có đủ
khả năng để giúp đỡ người khác cách này cách nọ. Đừng sợ mình cho đi ít quá hay
không có gì để cho. Chỉ cần vài miếng ăn của đứa bé thế là có một phép lạ vĩ
đại mà chúng ta không tin sao?
Thời đại chúng ta, vấn đề ăn uống có lẽ ít còn là chuyện ăn cho
no, vì thóc gạo lương thực không đến nỗi thiếu thốn như ngày xưa, nên phải tìm
kiếm ăn sao cho ngon. Vì thế, có nhiều nghệ thuật ăn uống, mỹ thuật trình bày
món ăn sao cho hấp dẫn nữa. Ấy thế mà lại thiếu trầm trọng bữa ăn mang tính
huynh đệ, bác ái thực sự. Thành thử ra, ngay cả khi không đói khát, người ta
vẫn tranh giành nhau từng miếng ăn nhỏ nhen, bất chấp tương quan anh chị em,
cha mẹ con cái... Thực tế trong con người chúng ta vẫn có khuynh hướng xấu ấy.
Hôm nay Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để dạy chúng ta về sự chia sẻ
trong tình liên đới. Bằng chứng là một em bé đã dám bỏ ra 5 chiếc bánh và 2 con
cá của mình để đưa cho Chúa phân phát cho đám đông là một điều hơi lạ, vì đối
với trẻ em, chuyện này là hơi khó. Chúa Giêsu đã biến từ một sở hữu cá nhân, sự
tham lam ích kỷ của con người thành sự chia sẻ, cho đi và hưởng dùng cho cả
cộng đồng, tập thể lớn.
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới này rất phong phú, dồi dào tài
nguyên khoáng sản không những nuôi sống mấy tỉ người mà nuôi sống cả muôn loài
muôn thú nữa. Chỉ cần người ta đừng lãng phí, đừng ích kỷ, tham lam độc ác;
nhưng biết cộng tác, chia sẻ thì ai cũng sẽ được hưởng cao lương mỹ vị. Chẳng
hạn như Mẹ Têrêxa hằng ngày nuôi 9.000 người nghèo ở Calcutta. Nhưng một nghiên
cứu có tính quốc tế cho biết: mỗi 1 giờ đồng hồ có khoảng 1.500 trẻ em chết vì
đói khát, bệnh tật; nửa triệu dân số thế giới không được cung cấp đủ nước sạch;
450 triệu người mỗi đêm phải đi ngủ mà bụng vẫn đói meo!
Thế giới vẫn còn nghèo đói, lạc hậu, dốt nát do chiến tranh và
các tệ nạn xã hội. Đức Giêsu luôn cần những con người cộng tác để trẻ em được
dạy dỗ, người nghèo được nuôi nấng, người ốm đau được chăm sóc. Vì thế, một cá
nhân có thể trở thành dụng cụ cho phép lạ, nếu chúng ta biết chia sẻ điều mình
có với Chúa như là của cải, sức khoẻ, tài năng, thời giờ, tình yêu, địa vị,
quyền hành. Chúa sẽ biến thành kết quả khôn lường. Một ông giám đốc, một nhà
khoa học, một thầy giáo, một diễn viên, một linh mục, tu sĩ hay giáo dân có thể
giúp ích, nuôi sống bao nhiêu người. Một chương trình nghệ thuật hay quảng cáo
thu được rất nhiều tiền do sự đóng góp của nhiều người, sau đó người ta có thể
dành cho những mục tiêu cao đẹp, chính đáng nào đó chẳng hạn. Như giúp người
nghèo đói, bệnh tật. Chúng ta hãy cộng tác với những tổ chức từ thiện bác ái
trong đạo ngoài đời để làm nên những phép lạ hằng ngày. Với niềm xác tín rằng
“nếu chúng ta dâng cho Chúa một tia lửa Chúa sẽ biến thành ngọn lửa. Nếu chúng
ta dâng cho Chúa một sợi dây Chúa sẽ biến nó thành cây đàn. Nếu chúng ta dâng
cho Chúa một giọt nước Chúa sẽ biến nó thành một dòng suối...”.
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, 5 chiếc bánh và 2 con cá là
con số tuợng trưng cho 7 bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là nguồn lương
thực Chúa nuôi dưỡng chúng ta mãi cho đến ngày tận thế, không bao giờ cạn kiệt.
Chúa chăm lo cho chúng ta cả hồn lẫn xác. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa và các
bí tích của Chúa hướng dẫn và nuôi sống chúng ta, chắc chắn sẽ có những phép lạ
thường xuyên xảy ra.
Cử chỉ Chúa làm khi hoá bánh ra nhiều cũng giống như cử chỉ khi
Chúa lập Bí tích Thánh Thể. Rõ ràng Chúa Giêsu là tấm bánh như chính Ngài đã
nói “Ta là bánh hằng sống”, đã dám bẻ cuộc đời mình ra cho nhân loại chia nhau
ăn để họ được sống muôn đời. Quả thật, nhân loại sẽ còn đói khát Chúa Giêsu
mãi. Đói khát Lời Ngài, Thịt Máu Ngài. Hôm nay Chúa vẫn đang cần những con
người cộng tác trao ban Lời Ngài, bẻ bánh trao cho nhân loại để họ hết đói
khát. Những người cộng tác không ai khác là các môn đệ, là Kitô hữu chúng ta,
hãy hiến thân để phục vụ anh chị em đồng loại đang đói khát vật chất, tinh
thần, đức tin. Chúng ta hãy cho họ ăn để họ được sống dồi dào cả hồn lẫn xác
như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
14. Để phép lạ
được tiếp tục – Lm. Nguyễn Nguyên
Thiên Chúa là Tình Yêu, đó là một định nghĩa thật chính xác về
Thiên Chúa của Kitô giáo chúng ta. Tình yêu ấy bao trùm toàn thể vũ trụ này.
Không một thụ tạo nào có thể sống và tồn tại nếu không nằm trong quỹ đạo yêu
thương của Ngài. Là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, nên khi đến trần gian,
trong những ngày tháng công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã thể hiện tình yêu ấy
một cách cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật thế, nhằm đáp ứng nhu cầu khát khao chân lý của dân chúng,
Chúa sẵn sàng dạy dỗ họ nhiều điều. Rồi khi thấy đám đông đi theo mãi mê nghe
Chúa giảng dạy mà quên cả ăn, khiến Ngài không đành lòng để họ ra về giữa cơn
đói cồn cào. Nên Chúa đã hỏi: “Philipphê, ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Câu hỏi làm toát lên một sự quan tâm, lo lắng được xuất phát từ tình yêu chân
thành. Dù rằng, chính Tông đồ Philipphê, khi được hỏi đã thú nhận sự bất lực
của mình khi trả lời Chúa Giêsu: “Đến hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi
người được một chút”. Khi nói “hai trăm bạc bánh”, Philipphê muốn nói rằng cho
dù có một số tiền lớn tương đương với tiền công 200 ngày của một người Do Thái
lúc bấy giờ hoặc tính theo giá trị của hôm nay là 100.000 đồng/công, số tiền
này lên đến 20 triệu đồng, thì “cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút”.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn đó không cản trở được tình yêu,
lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông đang mệt lả vì đói. Ngài đã
vượt qua tất cả mọi trở ngại, để thực hiện một phép lạ thật tuyệt vời. Chỉ với
5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, Ngài đã làm ra số lương thực đủ cho cả
đám đông đang bị cơn đói hành hạ, hơn nữa còn dư lại 12 thúng đầy. Điều con
người không thể tưởng, không thể nghĩ, không thể làm được, thì Chúa Giêsu với
tình thương Ngài đã thực hiện cách dễ dàng. Nhưng chúng ta cũng lập tức nhận ra
rằng Chúa đã thực hiện phép lạ không phải từ số không, nhưng từ chất liệu của
con người, đó là bánh và cá. Chúa Giêsu không dùng lời quyền năng để biến từ
không ra có, mà phép lạ được khởi đi từ một khẩu phần ăn ít ỏi của một em bé.
Vậy là đã quá rõ Chúa muốn qua phép lạ hôm nay nói với mọi người chúng ta rằng:
Chúa muốn dùng tình thương của con người, để qua đó Ngài thi thố tình thương
của Thiên Chúa cho con người gấp bội. Cũng như sự quảng đại của em bé đã làm
cho nhiều người được no nê, những đóng góp của biết bao người thiện chí, dù là
ít ỏi, giới hạn, chẳng đáng là bao nhưng thực hiện với lòng yêu thương, sẽ
khiến Thiên Chúa làm cho sự quảng đại này được nhân lên, nhân lên mãi trong
cuộc sống.
Thế nên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình
và tự vấn xem, chúng ta đang đặt trong tay Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống
và khả năng để Ngài sử dụng theo như ý Ngài muốn? Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã
làm xưa. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì - chẳng hạn thời gian, tài
năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta - Ngài sẽ
sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta.
Ngài sẽ bội nhân chúng vượt lên trên mọi niềm mơ ước nào của chúng ta giống như
Ngài đã bội nhân 5 chiếc bánh và 2 con cá của cậu bé trong Tin Mừng. Có lẽ đây
là điều không dễ vì khi đói, miếng bánh còn quý hơn vàng, và thói đời thường
cho rằng “sống chết mặc bây, tao no trước đã”. Nhưng cậu bé sau khi đã quảng
đại, sẵn sàng trao khẩu phần ăn của mình cho Chúa, em không chỉ được ăn no nê,
mà còn nhận lại được niềm sung sướng khi thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem
lại niềm vui bất ngờ cho biết bao người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn giàu lòng quảng đại để có thể
trao ban niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong đời sống bác ái yêu thương.
Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được toả lan
rộng rãi khắp nơi. Amen.
15. Góp phần làm nên
phép lạ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát
triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước
xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy
những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi
người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt
ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người
ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về
thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố
hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân
nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch,
lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa
hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng
bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó
tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm
quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn
thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi
nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những
đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ
được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ,
hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải
làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn
nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có
thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ
chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một
chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ
lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để
chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động
nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ
của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn
lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối,
30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế
giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa
thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa anh chị em,
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ
đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần
cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh
và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000
người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.
Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần
“bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân
chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm
Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin
Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám
đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn
cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của
cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy
đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành
cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ
vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự
vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và
khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng
hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông
dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay
Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng
quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi
tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị
em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các
thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới
những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa
không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi
anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã
mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong
Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian,
tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài
sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta.
Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống
như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm
nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì
lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của
mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns
nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu
bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu.
Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của
chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao
tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại,
sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy,
chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu
thương chia sẻ cho nhau.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu
để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để
bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài:
Bánh ban sự sống muôn đời.
16. Cám ơn –
Arthur Tone.
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. Anh dừng
xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người
đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi
đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân,
nên y la lớn để mọi người nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”.
Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng
đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước
khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn
Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một
lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện
hôm nay về việc Chúa nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức
Giêsu cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta
cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền
phép mỗi Thánh Lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa
ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và
đồng thời cũng giúp chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta
phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa.
Sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài
trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”.
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người:
Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là
đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến
Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu nguyện và giải quyết
những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ
đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật
bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng
ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua
bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những
tổ chức trợ cấp người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện
trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi
giá.
Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi
tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn
có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời
cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa
có. Hợp ý với Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt
bằng lời nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin Chúa chúc lành bạn.
17. Mua đâu ra bánh
cho những người này ăn.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một
trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch
hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn
thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch khách đến thăm di tích lịch
sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu
bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói
giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh
mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa
với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng
sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ
ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn
chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt
đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng
cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn
uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và
có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã
nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với
nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của
tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu
cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để
ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều.
Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới
Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta.
Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm
bánh vậy.
Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể
phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một
phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một
qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta
còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu,
nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang
mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được
là một hành động biểu lộ đức tin.
Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm
lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những
mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
18. Tặng phẩm
trong tay Chúa
(Suy niệm của Lm. J.B. Nguyễn Minh Hùng)
Đọc câu chuyện Chúa làm phép lạ hoá nên nhiều từ 5 chiếc bánh và
2 con cá làm lương thực nuôi, chỉ với số lượng đàn ông thôi, đã có đến 5.000
người, người ta hay chú ý đến: sự động lòng yêu thương của Chúa Giêsu, nên ban
lương thực cho đám đông đang đói; hay lời của thánh Anrê giới thiệu một em bé
có trong tay bánh và cá; hay sự cộng tác của con người khi trao bánh và cá để
Chúa làm phép lạ; hay Chúa đưa các môn đi vào mối bận tâm của Chúa khi hỏi:
“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”…
Nhưng ít có ai nói đến chính sự tự hiến mình của năm chiếc bánh
và của hai con cá để, nhờ chúng mà phép lạ diễn ra. Đành rằng, sự hiến dâng,
cũng chính là sự hy sinh của em bé đã góp phần làm nên phép lạ. Nhưng chính
bánh và cá mới thực là chất thể của phép lạ. Bánh và cá (chứ không phải bản
thân em bé) mới thực sự làm cho phép lạ nên hiện thực.
Trong quyển “Năm chiếc bánh và hai con cá” (xuất bản năm 1998),
Đức cố Hồng y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận đã không nhìn phép lạ của Chúa
Giêsu nuôi hơn 5.000 người ăn chỉ là phép lạ của quá khứ. Bằng tất cả nỗ lực
thánh hoá mọi giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… xảy ra trong đời
mình, Đức Hồng y nhìn thấy phép lạ của Chúa trên chính cuộc đời và trong chính
sự sống, trong từng nhịp thở của bản thân mình. Bằng tất cả sự hiến dâng mọi
giây phút sống, mọi biến cố, mọi hoàn cảnh… Đức Hồng y đã biến mình thành một
thứ “bánh” và “cá” trong tay Chúa. Và cũng vì thế, Đức Hồng y nhìn thấy cuộc
đời mình là một cuộc đời phép lạ. Bằng cách thánh hiến mọi giây phút sống, mọi
biến cố, mọi hoàn cảnh…, Đức Hồng y đã nhận ra sự cao cả trong tình yêu của
Chúa khôn xiết: vừa lạ lùng bởi không thể hiểu nổi, nhưng cũng quá đỗi thân
quen bởi nó chạm đến chính mình; vừa nhiệm mầu bởi biết rằng nó đến từ Chúa,
nhưng cũng gần gũi quá đỗi bởi cũng cảm nhận nó là chính mình… Đức Hồng y đã
thấy Chúa thăng hoa đời mình chẳng khác gì “năm chiếc bánh và hai con cá” trong
tay Chúa năm xưa: rất ít nhưng lại hoá nên rất nhiều.
Vì sao nhìn lại chính mình, Đức Hồng y lại có thể thấy phép lạ
của Chúa? Bởi Đức Hồng y đã hoàn toàn đặt mình trong tay Chúa: ngài chính là
tặng phẩm chính mình dâng lên Chúa, tặng phẩm chính mình dành cho Chúa. Đối với
người được tặng quà, một khi đã có tặng phẩm trong tay mình, người chủ của món
quà ấy sẽ thể hiện ý mình, thể hiện cách sử dụng của mình trên món quà. Nếu
cuộc đời, sự sống và tình yêu của Đức Hồng y đã là của Chúa Giêsu, đã là quà
tặng dành cho Chúa Giêsu, đã thuộc về Chúa Giêsu, đã nằm trong bàn tay Chúa
Giêsu, thì Chúa Giêsu có quyền có mọi sáng kiến trên tặng phẩm ấy. Và sáng kiến
của Chúa Giêsu được thể hiện nơi tặng phẩm của chính Người, một tặng phẩm mang
tên Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, đó là:
- Tất cả ân ban ôm trọn cuộc đời Đức Hồng y.
- Tất cả tình thương kỳ diệu, tình thương vừa nhiệm mầu, nhưng
cũng vừa cụ thể mà Đức Hồng y cảm nghiệm trên tất cả mọi thử thách, dẫu những
thử thách ấy rát buốt nhất, thương đau nhất trong suốt đời mình.
- Tất cả niềm hy vọng sáng chói vọt lên giữa cảnh đời đen bạc,
giữa những hận thù, những tăm tối và ác độc nhất của lòng người…
- Tất cả niềm tin vào Đấng đã khởi sự tốt đẹp, thì Người sẽ hoàn
tất tốt đẹp giữa cái vô lý cực độ của một tù nhân không bản án, hay những năm
tháng lưu vong, hay chính nỗi niềm xót xa vô hạn về sự vắng mặt của mình trong
vai trò là mục tử giữa đàn chiên mà mình được trao phó.
- Tất cả lòng tha thứ, không gợn một chút oán hận nào trong trái
tim của một con người chất chứa đầy tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi. Nhất là những
tâm tư, trăn trở, nghĩ ngợi đó không phải vì chính mình, mà vì trách nhiệm, vì
đoàn chiên, vì lòng yêu mến cả những người đang ngày đêm thù hằn và cư xử độc
ác với mình.
- Tất cả sự chiến thắng trên chính hoàn cảnh. Dẫu đó là hoàn
cảnh bế tắt nhất, mất hy vọng nhất, để sống cách tuyệt hảo phút hiện tại mà
Chúa ban và nỗ lực làm việc không mệt mỏi, không để cho sự bị giam cầm có thể
giam cầm tâm trí, giam cầm nhiệt huyết, giam cầm ý chí. Nhưng luôn vươn tới,
luôn biến mình thành người tự do để hoàn thành cách xuất sắc nhất giây phút
hiện tại mà Chúa ban.
- Tất cả hồng ân của hy tế thập giá trong từng thánh lễ. Nhất là
những thánh lễ được cử hành với ba giọt rượu và một giọt nước, cùng với Mình
Thánh Chúa là những chiếc bánh lễ được xé nhỏ nằm gọn trong chiếc túi nylon nhỏ
xíu. Những hy tế hằng ngày được hiến dâng ấy đã tạo nên sức mạnh vô song để cây
thập giá đời mình tháp nhập vào thánh giá Chúa Kitô tuyệt đẹp.
- Tất cả niềm hoan hỉ lớn lao khi Mình Thánh Chúa được kiệu khắp
nơi giam cầm, trên chính ngực áo của những con người tưởng chừng mất tự do, và
những giờ Thánh trong đêm tối tĩnh mịch để cùng nhau nhận lãnh Phép Lành Mình
Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên người bạn sớt chia nỗi nhục nhằn của những con
người đau khổ. Ôi, niềm vui Chúa ban sao quá thiêng liêng nhưng lại ấm áp cách
lạ thường! Hồng Ân Thánh Thể làm nên nghị lực quật cường nơi những con người
tưởng chừng đã bị tiêu diệt tận cùng.
- Tất cả niềm bình an lớn lao trong những giây phút chìm đắm cầu
nguyện. Không phải bằng lời, nhưng bằng đời cầu nguyện. Cầu nguyện giữa những
hoang mang trong thương đau, lẫn niềm vui trong trách nhiệm mà Hội Thánh đặt
lên vai mình. Đó là sáng kiến ngoạn mục mà Chúa Giêsu tạo nên trong lòng một
con người. Con người đó là con người của niềm hy vọng và bình an.
- Tất cả sự khải hoàn của một tâm hồn rao giảng Tin Mừng ở mọi
nơi mọi lúc. Nhất là những lúc đưa được những anh em đồng đạo và đang đồng phận
khổ đau với mình thoát khỏi tình trạng đức tin nguội lạnh; hay những lúc rửa
tội lén lút cho những anh em lương dân để họ trở về với Chúa Kitô; hoặc hoán
cải lòng những anh em đối nghịch với mình, những anh em canh gác mình, những
anh em nghi ngờ mình… để họ nhận biết Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô,
luôn tha thứ cho tất cả mọi người, tha thứ cho cả những kẻ bách hại mình.
- Tất cả lòng yêu mến đối với Đức Trinh Nữ cách tuyệt diệu. Với
một tràng chuỗi Mân Côi trong túi, để lên đường vác thánh giá trong chính ngày
lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Người Con của Đức Mẹ đã trở thành dáng đứng kiêu sa
và tấm gương soi chiếu trên tất cả Hội Thánh, để giữa những cùng khốn nhất,
những người con của Hội Thánh cũng hãy biết để Đức Mẹ đứng cạnh mình, như xưa
Đức Mẹ đã từng đứng cạnh Thánh Giá Chúa Giêsu trong giờ Người lâm tử.
- Tất cả tình yêu thông hiệp với Hội Thánh Chúa Kitô. Đó là tấm
lòng canh cánh nặng trĩu với sứ mạng giám mục mà đoàn chiên đang trông chờ giữa
thời buổi khó khăn gay gắt. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ cho Đức Thánh Cha. Đó
là niềm ý thức không bao giờ phai: mình là Giám mục của Hội Thánh Chúa Kitô. Đó
là sự sốt sắng cầu nguyện bằng Lời Chúa, bằng các nhạc phẩm của Hội Thánh. Đó
là những cử hành thánh lễ theo ý hướng của Hội Thánh…
Nhiều lắm những sáng kiến mà Chúa đã tạo nên nơi tặng phẩm của
Người. Chắc chúng ta không thể kể hết trong một vài con chữ. Tuy nhiên, bấy
nhiêu cũng đủ để chứng minh rằng, chỉ cần chúng ta hiến dâng chính mình như
“con cá”, như “tấm bánh” trong tay Chúa Giêsu, để nên tặng phẩm của Người, thì
Người sẽ có những sáng kiến độc đáo, những sáng kiến có một không hai trên
chính cuộc đời của ta, đến mức ta không thể hiểu hết, không thể ngờ nổi…
Hiến dâng Chúa đời mình như những chiếc bánh, như những chú cá
năm xưa, Đức Hồng y đã nằm gọn trong tay Chúa, để Chúa bẻ mình ra phân phát,
trao ban cho con người, cho nhân loại mọi thời, mọi nơi.
Cuộc “bẻ mình” nào mà không đau đớn, không để lại những dấu tích
của thánh giá?! Chúa Giêsu tự hiến chính mình, Người trở thành tấm bánh bẻ ra
cho muôn người, thì cuộc hiến tế chính mình để thành tấm bánh bẻ ra, cũng đã
đòi Chúa Giêsu phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận nát tan, chấp nhận mọi đớn
đau, chấp nhận cả cái chết đầy tủi nhục. “Hai chữ ‘thập giá’ đã gợi lên, cho
mọi người thời Chúa Giêsu, một cây khổ giá trần trụi với hình ảnh một người
quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và
đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những
con mắt tò mò và dửng dưng. Thế mà, Đức Kitô, con Thiên Chúa, đã chọn
"thập giá” để hiến thân trọn vẹn, ban chính mạng sống mình đến tận cùng
cho đến độ chịu đóng đinh trên thập giá, nơi đó Ngài gánh tất cả tội lỗi của
trần gian. Mặc dù "vô tội” (Mt 27,4), là "người công chính” (1 Pr
3,18), Ngài đã chấp nhận trở nên giống như người tội lỗi” (Hà Minh Thảo, Kính
nhớ Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Radio Veritas Asia,
Philippines).
Làm tặng phẩm cho Chúa để tuỳ nghi Chúa sử dụng, Đức Hồng y Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận biến mình trở thành “tấm bánh”, thành “con cá” mang lại
sự hữu ích cho sáng danh Chúa và mở rộng Nước Trời. Sự “bẻ mình” trong tay Chúa
của Đức Hồng y đã giúp Đức Hồng y cả một đời làm giám mục, bước theo Chúa đến
mức vẹn toàn, đến trọn con đường thập giá. Con đường thập giá đó chính là một
đời với một dòng họ quyền quý, nhưng sau đó đã vội tan tác. Con đường thập giá
đó cũng là một định mệnh nghiệt ngã đã đưa Đức Hồng y qua mọi thăng - trầm,
được - mất, sống - chết, bình an - tủi nhục, hạnh phúc - cô đơn, hy vọng - đau
khổ, sức khoẻ - bệnh tật…
Chính tặng phẩm là hiến tế đời mình mà Đức Hồng y dâng lên Chúa
như 5 chiếc bánh và 2 con cá trong tay Chúa, đã thổi bùng lên một linh đạo mà
tất cả chúng ta đều có thể bước theo, có thể noi gương. Vậy chúng ta cũng hãy
bắt chước mà sống theo linh đạo của Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận:
hiến tế đời mình qua từng ngày sống, thành tặng phẩm dâng lên Chúa, để tuỳ sáng
kiến mà Chúa muốn thực hiện đúng theo thánh ý của Người trên chính cuộc đời và
sự sống của ta. Tặng phẩm như những chiếc bánh, những con cá trong tay Chúa:
- Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại. Sử dụng
cách tối đa giây phút mà tôi đang có đây để làm được bất cứ điều gì cho sáng
danh Chúa, cho tình yêu Hội Thánh, cho Nước Trời, tôi dẽ thực hành ngay, không
chần chừ.
- Chiếc bánh thứ hai: Phân biệt giữa Chúa và việc
của Chúa. Chúng ta hay bị cám dỗ lao vào công việc. Lắm lúc mất ăn, mất ngủ vì
công việc. Đến khi phải chuyển công tác, ta lại cảm thấy thất vọng, muốn buông
xuôi. Sự năng động ấy tốt, nhưng đó không phải chính Chúa. Thậm chí, nhiều lúc
lao vào công ciệc, dễ làm ta kiêu ngạo. Ví thế, điều quan trọng trong đời ta là
vâng theo Thánh ý Chúa. Ta cần tìm chính Chúa, khám phá Chúa trong mọi hoàn
cảnh, mọi thái độ vâng phục của mình. Chúa muốn ta tìm chính Chúa chứ không
phải tìm việc của Chúa.
- Chiếc bánh thứ ba: Một bí quyết: Cầu nguyện. Hãy
cầu nguyện. hãy chuyện trò với Chúa để Chúa soi sáng, Chúa dạy dỗ từ trong nội
tâm. Cầu nguyện sẽ mang lại một niềm bình an vô song, sẽ bù đắp tất cả những gì
thiếu thốn nơi con người mỏng dòn của ta.
- Chiếc bánh thứ tư: Sức mạnh duy nhất: Phép Thánh
Thể. Sống và kết hợp với Thánh Thể Chúa phải là một việc đạo đức hàng đầu,
không bao giờ quên. Thánh Thể Chúa sẽ là sức mạnh huyền diệu giúp ta vững vàng
trong mọi nguy biến. Thánh Thể Chúa sẽ tăng lực để ta đạp dưới chân mình mọi đá
sỏi gai góc nhất. Thánh Thể Chúa là liều thuốc cực mạnh đưa ta đến bến bờ bình
an.
- Chiếc bánh thứ năm: Yêu thương đến hiệp nhất.
Chúc thư Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu yêu thương hết mọi người, chúng ta yêu
thương không phân biệt bất cứ người ngay, kẻ gian. Như Chúa Giêsu tha thứ cho
hết mọi người, chúng ta tha thứ cho cả những địch thù, cả những kẻ sát hại ta.
Như Chúa Giêsu cầu nguyện cho hết mọi người. Chúng ta cầu nguyện cho cả những
người không thiện cảm với mình. Như Chúa Giêsu hiến mình cho hết mọi người.
Chúng ta không chối từ hy sinh, nếu hy sinh ấy cứu được linh hồn hay sự sống
của đồng loại quanh mình… Tình yêu sẽ là sợi dây siết chặt mọi trái tim con
người. Tình yêu sẽ biến đổi thù hận thành bạn bè. Tình yêu sẽ mang lại tươi
vui, bình an. Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời này đáng sống, đáng phục vụ.
- Con cá thứ nhất: Mối tình đầu của tôi: Mẹ Maria
vô nhiễm. Đức Mẹ đã từng hạnh phúc và đau khổ khi đồng hành cùng thánh ý Chúa
trong cuộc đời. Hạnh phúc và đau khổ đan xen suốt cuộc đời Đức Mẹ từ khi Người
được Chúa Chọn làm mẹ của Chúa, trải dài trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Mầu nhiệm
Ẩn Dật, Mầu nhiệm Công Khai, Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, đến tận cùng cuộc đời
dương thế của Đức Mẹ. Đức Mẹ hiểu chúng ta. Trong vui - buồn - sướng - khổ của
đời mình, hãy chạy đến cùng Đức Mẹ để được Đức Mẹ cùng đồng hành, cùng sớt
chia, cùng hiến dâng và cùng chấp nhận.
- Con cá thứ hai: Tôi chọn Chúa. Chúa là giá trị
độc nhất vô nhị trong đời tôi. Chỉ có Chúa và chỉ vì Chúa mà tôi yêu; tôi hoạt
động; tôi thao thức; tôi suy tư; tôi cảm thông; tôi vui; tôi làm việc; tôi có
tương quan với mọi người, với thiên nhiên, với muôn vật, với mọi cảnh huống…;
tôi cầu nguyện cho tôi, cho con người, cho sự vật…; tôi học tập; tôi rao giảng;
tôi truyền giáo… Chúa là khởi và đích của tôi, để trong tất cả, tôi ra đi từ
Chúa và quay về với Chúa.
Bạn thân mến,
Với hình ảnh “5 chiếc bánh và 2 con cá” trong trình thuật Tin
Mừng của Thánh Gioan (Ga 6,1-15), qua tấm gương và những gợi ý của Đức Hồng y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta cùng nhau bước theo Chúa Giêsu, dâng
chính đời mình trong tay Chúa. Xin Chúa làm cho chúng ta như đã làm cho “5
chiếc bánh và 2 con cá” sinh lợi ích cho chính Chúa, cho Hội Thánh của Chúa,
cho linh hồn mỗi người chúng ta và cho cả vũ trụ này.
Con người chúng ta - bánh và cá mới: tặng phẩm mới đáng yêu
trong tay Chúa!!
19. Tình thương.
Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
- Ta thương dân này.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm
trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo
sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn
thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta
và Maria.
Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng
Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác.
Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền
dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày,
trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một
tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.
Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà
còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những
thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con
vật.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
- Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho
các con.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an
ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ
đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải
giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do
Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta
ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi,
khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến
đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một
cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và
đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái
tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một
cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
- Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa
mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải
chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ
ban là thịt Ta cho thế gian được sống.
Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy,
Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn:
- Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta
và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình.
Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống
thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ
một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy
mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm
thể Đức Kitô.
Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương
giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
- Kìa xem họ thương nhau biết chừng nào.
20. Suy niệm của Lm.
Đaminh Trần Đình Nhi
Ăn là nhu cầu của sự sống. Sự sống thể xác được duy trì và phát
triển là nhờ ăn uống. Cũng vậy, đời sống thiêng liêng cần những của ăn tinh
thần. Thiên Chúa ban cho ta thức ăn nuôi dưỡng thể xác thì Người cũng ban cho
ta Lời của Người (Đnl 8:3) để dưỡng nuôi linh hồn. Hai phép lạ được thuật lại
trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay về việc làm cho bánh hóa nhiều có những điều để
ta suy nghĩ về Chúa cũng như về bản thân ta.
1. Nghĩ về lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta (bài
đọc Cựu Ước – 2 Vua 4:42-44)
Ta bắt đầu với câu truyện ngôn sứ Ê-li-sa lấy hai mươi chiếc
bánh lúa mạch và một bị cốm mà nuôi hằng trăm người đang khốn khổ vì nạn đói.
Điều khiến ta không thể không chú ý chính là câu trả lời của vị ngôn sứ khi
tiểu đồng hỏi ông phải làm thế nào trước tình trạng bánh quá ít mà số người cần
ăn lại quá đông. Ông nói: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này:
Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nói như thế, ngôn sứ Ê-li-sa đã cảm nhận được tình
yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa.
Bối cảnh câu truyện là nạn đói đang hoành hành tại miền
Ghin-gan. Giữa lúc bao người lâm cảnh khốn cùng, ngôn sứ Ê-li-sa là người may
mắn vì “có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa,
người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị”. Nhưng
ông không giữ lại để lo cho mình, mà bảo tiểu đồng đem phân phát cho những
người đang thiếu thốn đói ăn. Ông cảm nhận Thiên Chúa đã đặc biệt thương và
chăm sóc ông giữa cơn khốn cùng khi ông nhận lấy những chiếc bánh và bị cốm
người ta đem biếu ông. Tuy nhiên tình thương của Chúa dành cho ông không thể bị
giới hạn, mà cần được lan tỏa tới những người chung quanh. Những chiếc bánh lúa
mạch và bị cốm là hình ảnh nói lên tình thương ấy đã được đem chia sẻ với mọi
người. Bao nhiêu người ăn mà chúng vẫn còn dư thừa. Cũng vậy, lòng thương yêu
chăm sóc của Thiên Chúa dành cho ta chan hòa và bao bọc ta trong bàn tay quan
phòng của Người. Lòng yêu thương của Thiên Chúa là đề tài cho tác giả Thánh
Vịnh viết thành bao lời chúc tụng tôn vinh. Đó cũng là đề tài rao giảng của
Chúa Giê-su khi Người khai triển những giáo lý của Tám Mối Phúc, nói về tình
yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha (Mt 6:25-34; Lc 12:22-31).
Ngôn sứ Ê-li-sa chính là hình ảnh báo trước vị Ngôn Sứ vĩ
đại Thiên Chúa sẽ sai đến với nhân loại, là Chúa Giê-su Ki-tô. Người là chính
Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể để tỏ ra cho nhân loại biết Thiên Chúa yêu thương
họ biết chừng nào (Ga 3:16). Câu truyện Tin Mừng hôm nay nói với ta về việc
biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Chúa Giê-su cho ta thấy tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa qua
phép lạ hóa bánh ra nhiều (bài Tin Mừng –
Gio-an 6:1-15)
Trong hành trình rao giảng của Chúa Giê-su, dân chúng thường đến
tụ họp quanh Người để lắng nghe những lời dạy dỗ. Nhưng mỗi lần Người di chuyển
từ nơi này tới nơi khác, họ cũng không ngại đi theo Người vì họ đã say mê giáo
lý của Người và luôn cảm thấy đói khát lời Người. Thánh Gio-an kể lại là “Chúa
Giê-su sang bên kia biển hồ Ga-li-lê” và “có đông đảo dân chúng đi theo”. Tới
nơi, nhìn cảnh dân chúng đói khát, Người làm phép lạ hóa năm chiếc bánh và hai
con cá ra nhiều để họ được ăn no nê. Sau phép lạ, khi chiều đến, các môn đệ
Chúa xuống thuyền đi sang phía Ca-phác-na-um, còn Chúa Giê-su thì “lánh mặt ,
đi lên núi một mình” để cầu nguyện, vì “biết dân chúng sắp đến bắt mình đem đi
mà tôn làm vua”. Tiếp đến, thánh sử kể việc Chúa Giê-su đi trên mặt nước đến
gặp các môn đệ trên thuyền, gợi lại biến cố Thiên Chúa đưa dân Người vượt qua
Biển Đỏ. Đó là những gì xảy ra chung quanh phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Quả thực thánh Gio-an đã sắp đặt câu truyện như thế, mục
đích để nói lên hình ảnh Chúa Giê-su là Thiên Chúa yêu thương chăm sóc ta.
Thiên Chúa đã đưa dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ và nuôi dưỡng họ trên đường về
đất hứa. Cũng thế, Chúa Giê-su là Tình Yêu Thiên Chúa xuống thế làm người để
nuôi dưỡng ta và dẫn ta vượt biển trần gian trên đường về quê trời. Ta hãy hiện
diện trong khung cảnh Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để chiêm ngưỡng cung
cách của Người. Từ ánh mắt cho đến lời nói của Chúa, hết thảy đều nói lên nỗi
lo lắng thương yêu Người dành cho đám dân chúng đang mệt nhọc vì đói khát.
Người không chỉ nhìn thấy một đám đông lũ lượt theo Người vì ngưỡng mộ, nhưng
là một đám đông khao khát được biết phải làm gì để sống cho đúng với ước mong
của Cha trên trời. Người cũng lợi dụng chính cơ hội này để dạy các môn đệ bài
học yêu thương chăm sóc anh chị em. Vì thế, Người đã gợi ý cho ông Phi-líp-phê:
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Nói như vậy là vì Người mời gọi các môn đệ
hãy mở lòng nhận ra những nhu cầu và thiếu thốn của người khác. Trước gợi ý của
Chúa, mỗi môn đệ có một sáng kiến riêng. Ông Phi-líp-phê thì thực tế tính toán,
để cuối cùng đi tới câu trả lời là đành bó tay. Nhưng thật là may mắn, vì ông
An-rê đưa ra một giải quyết của lòng tin khi ông nói với Chúa: “Ở đây có một em
bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Rồi ông cũng làm một bài toán
giống như ông Phi-líp-phê: “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Chắc là
ông An-rê tin rằng việc còn lại phải làm là thuộc quyền năng của Chúa Giê-su.
Đúng vậy, Chúa Giê-su đã nhập cuộc và làm phần thuộc về Người. Phép lạ hóa bánh
ra nhiều là do quyền năng của Thiên Chúa, nhưng Người cũng muốn bàn tay con
người của ta góp phần vào phép lạ của tình Chúa chăm sóc yêu thương.
Cũng giống như trong phép lạ ngôn sứ Ê-li-sa, dân chúng ăn
no nê mà bánh vẫn còn dư. Bánh còn dư nói lên sự phong phú đầy tràn của tình
yêu Thiên Chúa chăm sóc ta. Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy thu nhặt những miếng
thừa “kẻo phí đi”. Tình yêu Thiên Chúa ta nhận lãnh là để sinh ích lợi cho ta
và cho những người khác, chứ không phải để phung phí đi một cách vô ích. Về
điểm này, chắc chắn mỗi người đều phải xét mình. Ta lãnh nhận tình yêu và sự
chăm sóc của Chúa nhiều không kể xiết, từ vật chất cho đến tinh thần. Nhưng ta
cũng phải thú nhận rằng mình đã phung phí những ơn lành của Chúa một cách vô
bổ. Ta đã phí phạm thì giờ, tiền bạc, đồ ăn thức uống quá đáng. Một thí dụ, mỗi
lần đi ăn tiệc cưới ở Hoa-kỳ, ta thấy những người hầu bàn đổ đi bao nhiêu đồ ăn
đắt tiền vào thùng rác. Nhưng liệu ta có tự hỏi: Nếu như những người nghèo đói
có được những đồ ăn dư thừa kia thì họ sung sướng biết mấy? Chính vì thế, Chúa
Giê-su cũng muốn nhắc nhở ta hãy chia sẻ tình thương của Chúa với anh chị em,
kẻo phí đi tình thương Người đã dành cho ta.
3. Sống tình yêu thương chăm sóc lẫn nhau (bài
đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 4:1-6)
Bài học Chúa Giê-su dạy các môn đệ phải biết nhận ra những nhu
cầu của anh chị em và giúp đỡ họ đã được thánh Phao-lô lập lại và ngài xin anh
chị em tín hữu Ê-phê-xô hãy thực hành trong đời sống cộng đoàn. Trước hết, ngài
khuyên họ hãy sống theo “ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ”. Đúng vậy,
Thiên Chúa đã kêu gọi họ bỏ lối sống của thế gian để sống lối sống Ki-tô, tức
là sống “khiêm tốn, hiền từ , nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau,
duy trì sự hiệp nhất bằng cách thuận hòa gắn bó với nhau”. Nói tóm lại, Thiên
Chúa kêu gọi họ hãy sống theo gương Chúa Ki-tô mà yêu thương chăm sóc cho anh
chị em.
Lý do tại sao ta phải sống như vậy là vì ta là thân thể
Chúa Ki-tô, chia sẻ cùng một niềm tin và một niềm hy vọng, hành động theo cùng
một Thần Khí là tinh thần của Chúa Ki-tô và làm con cùng một Cha trên trời. Chúa
Giê-su là người Anh Trưởng đã sống yêu thương chăm sóc cho các em thế nào, ta
cũng phải theo gương Người mà sống như vậy. Ta bắt chước Người, ngước mắt lên
để nhìn thấy anh chị em chung quanh đang thiếu thốn, chứ không chỉ nhìn vào
mình để nuôi thêm tính ích kỷ và để thấy ta là trên hết. Ta không phí tình yêu
Chúa dành cho ta, nhưng sử dụng nó để phục vụ, giúp đỡ anh chị em. Một cái bánh
lúa mạch hay một con cá nhỏ, đối với ta có lẽ chẳng đáng là bao, nhưng đối với
anh chị em thiếu thốn lại có giá trị hết sức lớn lao. Chúa sử dụng những hy
sinh, chia sẻ nhỏ bé ấy của ta để Người thực hiện những phép lạ phi thường.
Phép lạ bánh và cá hóa nhiều cần phải được tiếp diễn ở ngay tại nơi và ngày giờ
ta đang sinh sống, nếu ta nhận biết mình là một chi thể đích thực của Nhiệm Thể
Chúa Ki-tô.
4. Sống Lời Chúa
Bài học ngôn sứ Ê-li-sa dạy cho tiểu đồng của ông cũng như bài
học Chúa Giê-su dạy các môn đệ yêu thương và chăm sóc dân chúng đã cho ta cơ
hội nhìn lại thái độ của ta đối với những người anh chị em thiếu thốn cùng khổ
đang cần đến sự giúp đỡ của ta. Tình yêu thương của Chúa thật bao la vô bờ.
Nhưng tình yêu ấy cần phải được chuyên chở qua chúng ta là những người làm môn
đệ Chúa Ki-tô. Ta đem tình thương của Chúa đến cho anh chị em, không chỉ qua
những giúp đỡ vật chất, nhưng còn là những an ủi, khích lệ hay nâng đỡ tinh
thần và tâm lý nữa. Trái tim yêu thương và nhậy cảm của Chúa Giê-su trước đám
dân chúng thiếu thốn và đói khát cũng phải là trái tim của ta, những Ki-tô hữu
đích thực hôm nay vậy.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô khuyên tín hữu Ê-phê-xô “hãy
sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban”. Vậy “ơn gọi” Thiên Chúa đã ban
cho tôi là gì? Và tôi đã sống thế nào theo ơn gọi ấy?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là sức mạnh và là niềm trông cậy
của chúng con, không có Chúa, chẳng có chi vững bền, không có chi thánh thiện;
xin mở lòng nhân hậu hướng dẫn chúng con, để khi biết cách dùng những của cải
chóng qua đời này, chúng con được gắn bó với của cải muôn đời tồn tại. Chúng
con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ,
Chúa Nhật 17 mùa Thường niên).
21. Cộng tác.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều
kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa
là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình
cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của
mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những
chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ
thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ
cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”.
Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không
mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có
nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương
xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội
nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng
mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng
thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì
chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem
thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc:
“Anh em hãy cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi
nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi
nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động
thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy
sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm
thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp
đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết
san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn
lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho
ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra
những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa
cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin
Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng
rãi hơn.
Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh
này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có
năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ
cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của
các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ
dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác,
không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là
tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa
muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không,
nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có
thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người
thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em
đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra
nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá
của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm
phép lạ.
Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi
tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi
các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều
này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương
trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc
của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự,
nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể
cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa
làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng
thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời
thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên
Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc
chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng
tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc
sống ngày càng tốt đẹp hơn.
22. Chia sẻ.
Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị
anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động
chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của
tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên
ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác
thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì
vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.
Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống
Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay,
thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho
họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết
vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ
đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn
tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì
nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm
bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn
khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới
và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự
viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử
trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự
cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh
mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp
phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng
ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ.
Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên
Chúa thực hiện những phép lạ.
Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng:
Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác
chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã
thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những
túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực
hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết
được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có
khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời
biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa
kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho
chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn,
nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay,
nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực
hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một
cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của
vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói
cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một
người giàu có bỏ ra như của bố thí.
Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng
quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ
kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi
dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của
những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở
chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái
Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động
lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp
chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
23. Lương thực.
Trong các bài đọc chúng ta thấy Thiên Chúa lo cho người đói.
Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ông Elisa đã gạt bỏ những thói tục rườm rà và
nhấn mạnh rằng bánh phải được phát cho dân, mặc dù bánh ấy làm từ hoa mầu đầu
vụ dành để dâng cho Thiên Chúa. Và trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu phân
phát bánh cho dân, họ đã đi theo Người vào nơi hoang địa.
Lương thực là nhu cầu đầu tiên của đời sống. Không có lương
thực, không thể có đời sống, kể cả một đời sống cao hơn. Cho kẻ đói ăn là mối
đầu tiên của việc thương yêu phần xác con người. Vào ngày phán xét sau cùng,
Đức Giêsu sẽ nói: “Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn” hoặc “Khi Ta đói, các
ngươi đã không cho Ta ăn”.
Khi Đức Giêsu gặp dân đang đói. Người cho họ lương thực, và khi
làm thế, Người biểu lộ lòng quảng đại cao cả của Người – mọi người ăn no nê và
còn dư mười hai thúng đầy.
Đức Giêsu cầm năm cái bánh và dâng lời tạ ơn, chúng ta cũng phải
dâng lời tạ ơn khi chúng ta ăn. Trong một thế giới có hàng triệu người đang
đói, chúng ta không thể coi lương thực ta dùng là chuyện đương nhiên.
Mỗi ổ bánh (có thể dùng một ổ bánh thật cho cộng đoàn nhìn thấy)
cũng là cả một phép lạ như những ổ bánh Đức Giêsu đã ban cho dân. Nó được làm
nên bởi bàn tay của nhiều người và bàn tay của Thiên Chúa. Điều này được diễn
tả rất đẹp trong lời nguyện dâng bánh trong thánh lễ “Lạy Chúa, chúng con chúc
tụng Chúa là Thiên Chúa của mọi loài thụ tạo. Nhờ lòng nhân hậu của Chúa chúng
con có được bánh này để tiến dâng. Được làm bởi hoa màu của đất và lao công của
con người, nó sẽ trở thành bánh sự sống cho chúng con”.
Thiên Chúa làm cùng một phép lạ qua thời tiết bốn mùa và thời
vụ. Trong cánh đồng, Người nhân lên nhiều không phải bánh mà là những hạt ngũ
cốc, đến nỗi nếu chúng ta góp phần của mình sẽ có đủ cho mọi người. Chỉ một hạt
lúa mì có thể sinh ra bảy mươi hạt khác.
Ngày nay, người ta có mối bận tâm về lương thực nhưng vấn đề rất
khác nhau tùy từng khu vực của thế giới.
Trong thế giới phát triển, chúng ta có quá nhiều lương thực. Lo
lắng chính của nhiều người là làm thế nào giảm bớt phần ăn để được giảm cân.
Nhưng những người cứ mãi lo lắng bận tâm về mình với vấn đề đó, không còn có
chỗ dành cho yêu thương. Còn trong thế giới thứ ba, vấn đề là làm sao có được
cái ăn cho mọi người.
Phép lạ của Đức Giêsu phải làm cho chúng ta biết ơn Thiên Chúa
về lương thực mà chúng ta có được và cẩn thận không hoang phí nó. Phép lạ ấy
cũng phải làm cho chúng ta tích cực quan tâm đến những người không có lương
thực. Người ta biết rằng có hơn 700 triệu người trên thế giới ngày nay không đủ
ăn. Một phần ba trẻ em Châu Phi bị suy dinh dưỡng.
Phải làm gì với lương thực dư thừa là một vấn đề gây bối rối cho
các Kitô hữu. Một câu trả lời là dự trữ lương thực. Nhưng chắc chắn việc dự trữ
lương thực dư thừa cũng gây ra sự phẫn nộ lớn như dự trữ các vũ khí hạt nhân.
Một câu trả lời khác là giảm số lượng lương thực sản xuất. Nhưng điều này dẫn
đến sự phẫn nộ của các nông dân được trả tiền để bỏ không đất đai mầu mỡ. Hầu
hết nông dân không hài lòng với sự dàn xếp ấy.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Chúng
ta cảm nghiệm sự quảng đại ấy mỗi lần chúng ta ngồi xuống dùng bữa và đặc biệt
khi chúng ta tiếp nhận Thánh Thể. Kinh nghiệm của lòng quảng đại phải là kết
quả của việc mở rộng tâm hồn, và ước muốn quảng đại với những người khác, những
người không may mắn như chúng ta.
24. Yêu quý mảnh bánh
vụn.
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Hữu An)
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn
Phúc âm (Mt. 14,13-21; Mc. 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô
còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38;Mc 8,1-10).
Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát,
nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được
dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở
ngoài trời. Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây? Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối
bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh
lúa mạch và 2 con cá nhỏ. Phản ứng các môn đệ được ghi lại trong 4 phúc âm: - Matthêu:
Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi. - Marcô:
Thế chúng tôi phải đi mua 200đ bạc bánh mà cho họ ăn sao? - Luca:
Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi
mua thức ăn cho cả toàn dân này - Gioan: Philipphê thưa: Có mua
hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở
đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhưng với bằng ấy người
thì thấm vào đâu!
Phản ứng của các môn đệ là bế tắc, muốn thoái thác phủi tay.
“Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào
các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15) Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng
ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai
lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa Giêsu
chấp nhận. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm: Họ không cần phải đi đâu
cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi.
Đức Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao,
đọc lời chúc tụng thì những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám
đông ăn no nê.
Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con
người. Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức
ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa
trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao
cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho
nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa
Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi. Với 5000 người
không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn
ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những
miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là “Ta
thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc
đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Chúa.
Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân
sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời thành trăm ngàn vụn nhỏ thì
càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ nó trở thành nhỏ bé
mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh. Khi hiến lễ đền tội cho
nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống thì cũng
chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại
để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng,
trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn
sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên
thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con
đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con”(ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con
đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV
816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung
trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới
đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).
25. Bánh người nghèo.
Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật
tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà
dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc
nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.
Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm
và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng
cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng:
"Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!".
Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn
túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép
màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc
vào tài phép của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân
chúng rõ ý Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm
vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước
ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và
kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều
tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn
người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể
làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh
khác, được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn
thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các
bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã
hội".
Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện.
Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang
và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân
chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải
thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời
gian của phép lạ: "Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do
Thái". Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm
tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.
Những cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn
và phân phát cho những người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí
tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel
và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc
Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng
đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi
chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
26. Đức Giêsu
hóa bánh ra nhiều
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt
cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin
Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong
chương trình của Đức giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng
là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong TM iV,
chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc
khải sâu sắc nhất về Đức Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà
con người phải thực hiện là như thế nào.
Tuy nhiên, nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn TM Ga khác với các
bản văn TMNL ở nhiều điểm. Điểm khác biệt đầu tiên và chính yếu nằm nơi cách
giải thích câu truyện (xem bài diễn từ của Ga 6, từ c. 26). Sự cố xảy ra được
TM IV xác định bằng những chi tiết chính xác hơn: “bên kia Biển Hồ Galilê, cũng
gọi là Biển Hồ Tibêria” (c. 1); “có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng
được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (c. 2; x. 2,23:
tương đương với Mc 6,31-33; Mt 14,13-14 và 15,30-31); đám đông không có đức tin
chân thật (sau 2,23 cũng như về cuối truyện ch. 6); khái niệm “dấu lạ” (c. 14)
để gọi “phép lạ” đặc biệt của TM IV, với ý nghĩa là “đặc tính hiện tượng bên
ngoài cần vượt quá để nắm được ý nghĩa đích thực” (dân chúng chỉ quan tâm tới
chuyện lạ lùng thôi: x. cc. 14-15.26).
“Sách các Dấu lạ” của TM Ga là từ ch. 2 đến hết ch. 12. Chương
nói về “Bánh trường sinh” (6,1-71) nằm trong phân đoạn có bố cục sau đây:
Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu
(dịp các đại lễ Do Thái) (5,1–10,42)
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm
liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống
(trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho
trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù bởi ánh
sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng
sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến).
Có thể xác định bố cục tổng quát của chương 6 theo một lược đồ
đồng tâm như sau:
a) cc. 1-15: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
b) cc. 16-21: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
c) cc. 22-59: Diễn từ của Đức Giêsu
b’) cc. 60-65: Cảnh với Đức Giêsu và các môn đệ
a’) cc. 66-71: Cảnh với các môn đệ, được nhắc đích danh
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (6,1-4);
2) Dấu lạ bánh hóa nhiều (6,5-13);
3) Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (6,14-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu lên núi (3.15): Quả núi này
không có trên bản đồ, nhưng được dùng thường xuyên trong Kinh Thánh và các Tin
Mừng (x. Mc 9,2; Mt 5,1; 15,29; 28,16) như là khung cảnh cho một mạc khải.
- và ngồi đó (3): Đây là tư thế
của người cai trị và giảng dạy.
- quan tiền (6): Một quan tiền là
lương của một ngày làm công.
- thu lại (12): Đây không phải
chỉ là “nhặt lại” (như trong Mc 6,43 và các bản văn song song) mà là “quy tụ”
(synagein) các miếng vụn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1-4)
Các chi tiết tác giả cung cấp khiến ta có cảm tưởng đây là một
bài tường thuật chính xác. Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp nhiều yếu tố gợi tới một
quá khứ, hoặc mang tính biểu tượng: giống như Môsê, có một đám đông đi theo Đức
Giêsu; đám đông đi theo Người vì cùng lý do như dân Israel khi họ theo Môsê:
những dấu lạ lớn lao Người đã làm; Đức Giêsu lên núi và ngồi xuống, tương tự
Môsê lên núi để dạy dỗ dân chúng. Ngoài ra, chi tiết “lễ Vượt Qua” vừa kín đáo
gợi đến cái chết của Đức Giêsu (là lúc Đức Giêsu ban mình Người làm bánh đích
thực ban sự sống), vừa gợi lại việc Môsê đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập và
phép lạ man-na. Điều này không phải là gán ghép, vì tác giả TM IV thích tháp
các mạc khải của Đức Giêsu vào trong khung các đại lễ như Vượt Qua, Lều, Cung
hiến. Đức Giêsu vừa hoàn tất vừa vượt quá tất cả những gì các đại lễ của Israel
nhắm tới và loan báo. Người là Môsê mới sẽ dẫn đưa dân Người trong một cuộc
xuất hành mối để đi từ kiếp nô lệ sang tự do.
* Dấu lạ bánh hóa nhiều (5-13)
Trong các TMNL, chính các tông đồ lưu ý Đức Giêsu rằng đám đông
không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Đức Giêsu: “Người đã
biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6). Trong các TMNL, các tông đồ chỉ được nhắc đến
như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Đức Giêsu hỏi Philípphê một câu
đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5). Rồi trong một lời bình
luận riêng (c. 6), tác giả TM IV giải thích rằng Đức Giêsu hỏi vậy không phải
là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử (peirazô) Philípphê về đức tin của
ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới
biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải
thích truyền thống Đức Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh
Thánh nói về Đức Chúa (Yhwh) ban man-na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành
(x. Ga 6,25-40). Sách Đnl giải thích các biến cố Xuất Hành vừa như là dấu chỉ
vừa như là những thử thách (x. Đnl 4,34; 7,19; 29,2; so sánh với 8,16; 13,4; x.
Xh 16,4; 15,25; 20,20). Theo cùng một cách như thế, tác giả tuy rõ ràng thấy
việc nuôi đám đông là một dấu chỉ (sêmeion, Ga 6,26.30), ở đây lại công bố rằng
việc này cũng là một thử thách.
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không
có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Đức Giêsu thì đang làm
chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu
hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn
nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người
Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Đức Giêsu đang hiện diện, nên các ông
biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng nhắm cho thấy rằng hoàn cảnh này
không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên
Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” (paidarion)
và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42-44: êlisa hóa
bánh ra nhiều; “cá nhỏ” (opsaria) nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của
loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các TMNL, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính
Đức Giêsu phân phát (c. 11). Đây là cách tác giả TM IV tập trung chú ý vào Đức
Giêsu. so sánh với các TMNL, chúng ta thấy rõ điểm này. Trong khi các TMNL quan
tâm đến Nước Thiên Chúa và lời rao giảng của Thầy chí thánh, TM IV lại chủ yếu
nhắm đến “con người” Đức Giêsu, và điều này đã xuất hiện ngay ở những dòng đầu
tiên của TM: tác giả chỉ nói qua về phép rửa, nhưng nói rõ Đức Giêsu là ai (Ga
1,29-34); nhân tiện nói đến các môn đệ đầu tiên, thì nói cho biết Đức Giêsu là
ai và Người có thể cống hiến điều gì (1,35-51); và khi nói về các điều kiện để
trở thành môn đệ, thì ngài nêu bật tình yêu đối với Đức Kitô (phải đi tìm Đức
Kitô, phải khao khát Người).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh
Thể. Trước tiên, cử chỉ Đức Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như
gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng. Quả thật tác giả TM IV không kể lại việc thiết
lập Bí tíchThánh Thể, nhưng cả ngài lẫn nguồn của ngài không thể không biết đến
biến cố này. Động từ “phân phát” (diadidonai) có thể đã được vay mượn từ nghi
thức Thánh Thể. Công thức “tạ ơn” (eucharistein: c. 11) cũng thế. Cuối cùng,
cc. 12-13 có chứa hai yếu tố độc đáo là động từ “thu lại” (synagein) và danh từ
“các miếng thừa” (klasmata) thuộc về nghi thức Thánh Thể và ta thấy có trong
sách Điđakhê (9,4). Còn công thức “kẻo phí đi” (c. 12b) khiến ta nghĩ tới sự
cẩn thận của hội Thánh khi thu lại các mẩu Mình thánh Chúa.
Khi dùng động từ “thu lại” theo nghĩa “quy tụ” (khác với Mc 6,43
và các bản song song dùng động từ “nhặt lại”), hẳn tác giả TM IV muốn nhắc đến
bí tíchThánh Thể có mục đích tưởng niệm cái chết của Đức Giêsu “để quy tụ con
cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Ở đây chúng ta thấy TM IV muốn gợi lại phép lạ man-na trong sa
mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. nhưng Đức Giêsu không chỉ
là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong
sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man-na cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở
đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như
lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Đức Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong
của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có
thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn
no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực
quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang
Tân Ước, từ Êlisa sang Đức Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
* Phản ứng của dân chúng và của Đức Giêsu (14-15)
Người Do Thái vẫn chờ đợi là vào thời đại thiên sai, phép
lạ man-na được tái diễn. Do đó, khi Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều, đám đông cho
rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian” (c. 14; x. Đnl 18,15; Ga
1,21). họ muốn “tôn Người làm vua”, nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi
một mình” (c. 15). Chi tiết này hoàn toàn có thể mang tính lịch sử. Tại
Paléttina vào thời ấy, do niềm hy vọng vào Đấng Mêsia, thường xuyên xảy ra
những cuộc nổi loạn về chính trị, những cuộc bạo loạn thường xuyên bị người
rôma đàn áp tàn bạo. Đức Giêsu muốn tránh thứ hiểu lầm này.
Tuy nhiên, tác giả TM IV ghi lại sự cố này không chỉ vì quan tâm
đến lịch sử, nhưng còn muốn nêu bật tính phù phiếm của lòng nhiệt thành của đám
đông. Lẽ ra bánh vật chất phải giúp họ hiểu Đức Kitô là ai. Họ không thấy phép
lạ là một “dấu chỉ” chứng thực Đức Giêsu là Đấng Mêsia chân chính, nhưng là một
xác nhận định kiến sai lầm của họ về Đấng Mêsia. Họ chỉ quan tâm đến bánh, chứ
không quan tâm đến Đấng Mêsia ban bánh. Họ đã “đọc” dấu chỉ theo lược đồ riêng
của họ, nên không nắm được ý nghĩa đích thật của dấu chỉ. Do đó, Đức Giêsu lánh
mặt. người muốn cho dân chúng hiểu rằng tư cách Mêsia của Người thuộc về một
bình diện khác. Tuy nhiên, vị Thiên Chúa đi trốn sự chờ đợi của loài người đó
lại có mặt ngay để giải thoát các môn đệ khỏi sợ hãi (x. 6,12.21).
+ Kết luận
Dấu chỉ giới thiệu Đấng Mêsia không phải chỉ có phép lạ hóa bánh
ra nhiều, nhưng là toàn bộ các sự kiện: phép lạ, niềm hứng khởi của đám đông và
việc Đức Giêsu đi trốn. Muốn hiểu Đức Giêsu là ai, phải hiểu được sự tương phản
giữa ý nghĩa của việc hóa bánh ra nhiều theo cách hiểu của đám đông và ý nghĩa
theo cách hiểu của Đức Giêsu. Ngoài ra, chúng ta phải hiểu mục tiêu Đức Giêsu
nhắm khi làm “dấu lạ” này: tấm bánh thuộc về một người phải trở thành lương
thực cho tất cả mọi người. Chúng ta chỉ có thể có một thế giới mới, khi người
ta từ khước tính ích kỷ, và chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu là chia sẻ của cải
của mình cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Con số những người theo Đức Giêsu đạt tới đỉnh cao với việc
làm cho bánh hóa nhiều: khoảng năm ngàn người đàn ông. Nhưng sau Bài giảng về
bánh ban sự sống từ trời xuống, chỉ còn lại Nhóm Mười hai (Ga 6,67). Chính Đức
Giêsu hướng dẫn một tiến trình làm sáng tỏ. Người khẳng định rõ ràng những gì
Người phải làm, chứ không làm một vài chuyện thỏa hiệp tùy theo sự chờ đợi của
dân chúng. Tiêu chuẩn Người nhắm không phải là con số các kẻ đi theo Người,
nhưng là sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó. Nếu chúng ta đặt nơi Người những
chờ đợi sai lầm, chúng ta sẽ thất vọng về Người. Nếu ngược lại, chúng ta lắng
nghe Người và đón nhận các ân huệ Người ban, Người sẽ đưa chúng ta đến sự sống
viên mãn.
2. Mọi sự bắt đầu nơi Đức Giêsu. Không ai yêu cầu Người cung cấp
lương thực cho đám đông ấy. Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu luôn
cho người ta thấy như vậy: Người tự mình mà đến, không cần lệnh hoặc lời cầu
xin, theo trách nhiệm Chúa Cha giao. Người hành động theo sáng kiến riêng, phù
hợp với ý muốn của Chúa Cha. Người quyết định cho đám đông ăn; Người truyền
lệnh và các môn đệ mời dân chúng ngồi xuống. Bánh thì chưa có, thế mà người ta
đã phải ngồi xuống, có thứ tự và gần nhau, để được phục vụ, như trong một bữa
tiệc. Kế đó Đức Giêsu đã cư xử như một người cha gia đình khi bắt đầu bữa ăn:
cầm lấy bánh, đọc lời kinh chúc tụng, tạ ơn, rồi phân phát bánh. Từ số tài
nguyên nghèo nàn, Người cho đám đông ăn no nê. Sau đó, Người ra lệnh cho các
môn đệ thu gom các mẩu thừa. Mỗi việc đều được Người bố trí và quyết định và
đều diễn tả sứ mạng của Người.
3. Đức Giêsu đã chứng tỏ khả năng giúp đỡ của Người là một khả
năng không giới hạn: không chỉ có thể phục vụ các cá nhân hay các nhóm nhỏ, mà
còn có thể đáp ứng nhu cầu của một một đoàn người rất đông. Không một trở ngại
nào có thể giới hạn quyền lực của Người. Phần Người, Người có thể quy tụ tất cả
mọi người lại quanh Người và cho mọi người được no thỏa; Người không loại trừ
một ai, Người có đủ cho mọi người. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra cho loài người
là: họ có biết trân trọng và muốn chấp nhận những gì Người sẵn sàng ban cho
không?
4. Đám đông đã muốn tôn Đức Giêsu làm vua. Bởi vì Người đã xử sự
một cách uy quyền và tự khả năng riêng, Người không chấp nhận để cho người ta
áp đặt cho Người một vai trò trong đó họ có thể trục lợi theo ý riêng của họ.
Các việc quyền lực Người thực hiện càng to lớn, các hiểu lầm của dân chúng càng
trầm trọng. Đức Giêsu tránh khỏi đám đông. Trong Bài giảng về bánh hằng sống,
Người sẽ giải thích dấu lạ bánh hóa nhiều. Rõ ràng chúng ta không được quy định
cho Người điều Người phải ban cho chúng ta. Chúng ta không được cư xử y như thể
chúng ta biết rõ hơn Người điều gì tốt cho chúng ta. Đứng trước Đức Giêsu, Đấng
uy quyền và tốt lành đến thế, chúng ta chỉ có thể bày tỏ hai thái độ, là cởi mở
và tin tưởng.
27. Chú giải của
Noel Quesson.
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin
Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình
thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục
bằng "bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí
tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ
Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những
dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám
đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối
theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám
đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một
con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo
Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì
lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý
nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước
mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng
như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas"
trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong
việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết
trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô
hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một
bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với
mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho
chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao
ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người.
Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy
nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói:
"Hãy cho họ có cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta,
lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa
đã đem chúng con trở về với cuộc sống "thường nhật" với lương thực
hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh
cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê,
anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh
lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa
bình", "công lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể
làm gì được? Việc này quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể
giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một
việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp
tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên
không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã
không muốn làm một hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có
thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến.
Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta.
Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu
bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên
đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu
gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải
đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không
thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những
siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền.
Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi
nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng
tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin
Mừng này: "Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong
khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi
xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những
người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi".
Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm
ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những
người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì
thấm vào đâu?". Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên
của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một
người khác. Người "tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những
hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở
trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm
tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho
thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia
Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường
"cơn đói của thể xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên
Chúa" mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại
những miếng thừa kẻo phí đi".
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy
ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và
"rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người
Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành
cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những
miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để
ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này
là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian".
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai
đến", chờ một "giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho
họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy
vọng rằng những "công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng
ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của
nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của
“tiến bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và
tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo:
"Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ
cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua,
nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với
Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá
khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả?
Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta
"đóng khung" Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì
những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con
người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène,
rằng: "Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được
ăn no bụng". Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực.
Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội,
kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao
quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt
hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà
chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con", để xóa cơn đói cho các con.
Chúa khước từ kế đồ "giải phóng" chính trị mà không người đương thời
với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người
lui vào thanh vắng một mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải
làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu
"Người là ai", là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên
Chúa"? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của
Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).