CON ĐƯỜNG NGÔN SỨ
Phải biết nói lời của Thiên Chúa. Mặc dù
khi nói lời Thiên Chúa, người ta có thể bị ghét bỏ hoặc bị thiệt thân.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II luôn luôn thực thi sứ vụ
ngôn sứ trong cuộc đời giáo hoàng của mình. Ngài thường dùng lời nói của mình
không những để kêu gọi hòa bình, mà còn mạnh mẽ đả kích sự bạo lực và giết
chóc.
Một lần kia, ngài đến đảo Sicile, tổng hành dinh của
Mafia nước Ý. Trong bài diễn văn tại đây, Đức Cố Giáo Hoàng đã lớn tiếng kêu gọi:
Không được giết người! Đó là lề luật của Thiên Chúa! Vì thế, không một tổ chức
nào, không một quyền lực nào, cho dù đó là Mafia đi chăng nữa, cũng không được
giết người!
Ngay sau đó, để đáp lại, Mafia Ý đã giết hai linh mục và
cài 2 trái bom tại trung tâm Rôma. Một trái nổ ngay vương cung thánh đường
Latran lịch sử. Trái bom kia nổ ngay tại thánh đường thánh Grêgôriô được xây dựng
từ thời trung cổ.
Sau vụ nổ, Đức Cố Giáo Hoàng đã có mặt tại hiện trường và
tiếp tục đưa ra lời kêu gọi thống thiết: Tôi thỉnh cầu những ai đã gây ra chuyện
này: Hãy sám hối, vì một ngày kia các ông sẽ lãnh nhận án phạt của Thiên Chúa!
Đức Cố Giáo Hoàng đã can đảm nói sự thật dù có bị
ghét bỏ hay bị hiểm nguy đến tính mạng. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đi
theo con đường ngôn sứ mà Chúa Giêsu đã đi. Chúa Giêsu là vị ngôn sứ chính danh
mà hôm nay Ngài đã hé lộ cho mọi người thấy dung mạo và sứ vụ ngôn sứ của Ngài
trong bài Tin Mừng theo thánh Maccô: “Không
một ngôn sứ nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình.”
Ngài là vị ngôn sứ bị khước từ tại quê hương
xứ sở. Qua đó, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy: Con đường ngôn sứ luôn
luôn là một con đường đau khổ.
Ngôn sứ, con đường đau khổ
Bài đọc I, trích sách tiên tri Êzêkiel kể về ơn gọi của
ngôn sứ Êzêkiel. Ông đã được Thiên Chúa trao cho sứ mạng đến với dân Israel để
truyền lại sứ điệp của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng ban cho Êzêkiel thần linh của
Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng cho ông biết đó là một dân cứng đầu và phản
loạn. Họ sẽ không nghe lời các ngôn sứ, thậm chí còn xua đuổi và ám hại các
ngôn sứ nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn muốn tỏ cho họ thấy: “Ở giữa họ có một vị ngôn sứ.” Cuộc đời của ngôn sứ Êzêkiel cho thấy:
Ngôn sứ luôn phải chịu đau khổ và con đường các ngôn sứ đi luôn là con đường
gian khó.
Bài đọc II, trích thư thứ II gửi tín hữu Côrintô, đã phác
họa ơn gọi ngôn sứ của thánh Phaolô tông đồ. Hơn ai hết, thánh Phaolô luôn cảm
thấy mình rất yếu đuối. Sự yếu đuối đó như “cái
dằm đâm vào thịt” ngài. Cũng vì sự yếu đuối mỏng dòn, nhiều lúc thánh Phaolô
như thất vọng, buông xuôi, xin Chúa lấy “cái dằm” ấy ra khỏi thân xác ngài. Nhưng
Chúa đã củng cố niềm tin nơi ngài khi nói với ngài: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối.”
Cuối cùng, thánh Phaolô đã tin tưởng phó thác vào quyền năng và sức
mạnh của Chúa. Ngài vui mừng trong sự yếu hèn, trong sự lăng nhục, sẵn
sàng chịu bắt bớ và khốn khó vì Đức Kitô. Trong đau khổ, thánh Phaolô đã có thể
kêu lên: “Khi tôi yếu đuối chính là lúc
tôi mạnh mẽ.”
Con đường của thánh Phaolô đi chính là con đường của một
ngôn sứ. Con đường đó là con đường đau khổ. Nhưng thánh Phaolô đã đi đến cùng
con đường ấy và đã đoạt được triều thiên vinh quang.
Bài Tin Mừng theo thánh Marcô đã vẽ tả con đường đau khổ
của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ “bị khước từ.” Chúa Giêsu trở về quê hương mình là
Nagiarét. Ở đó, Ngài đã gặp lại những người đồng hương và cả những người họ
hàng, thân tộc. Mọi người đều kinh ngạc, sửng sốt khi Ngài giảng Kinh Thánh
trong Hội Đường. Những người đồng hương ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài và
về những phép lạ Ngài đã làm ở nơi khác.
Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc tầm thường của Ngài: Ngài chỉ
là bác thợ mộc con bà Maria, thì họ không tin Ngài nữa. Vì sự cứng lòng tin ấy
của họ, Chúa Giêsu đã bỏ họ mà qua làng khác.
Con đường ngôn sứ của Chúa Giêsu là con đường đau khổ. Vì
Chúa đã bị khước từ nơi chính những người thân cận, gần gũi của mình. Cuối con
đường đau khổ ấy chính là thập giá đau thương. Nhưng Chúa đã vượt qua chặng đường
đau thương đó để tiến đến sự phục sinh vinh quang.
Ngôn sứ, con đường của mỗi người tín hữu
Ngày nay, con đường ngôn sứ vẫn được mở ra cho mỗi người
tín hữu chúng ta. Trên con đường ấy, chúng ta được mời gọi để đến với tha nhân
trong ơn gọi của một ngôn sứ, để truyền rao sứ điệp Tin Mừng của Chúa. Cũng giống
như ngôn sứ Êzêkiel, chúng ta được sai đi trong thân phận thấp hèn, nhưng vẫn
phải gặp gỡ với cả những người cứng tin và gian ác. Chúng ta cũng giống như
thánh Phaolô tông đồ, luôn nhận thấy mình là kẻ yếu đuối và mỏng dòn. Nhưng vào
chính lúc chúng ta yếu đuối, lại là lúc chúng ta mạnh mẽ nhất. Giữa lúc chúng
ta đang phải đối diện với những thử thách và gian nan, chúng ta lại nghe thấy lời
Chúa văng vẳng bên tai: “Ơn
Ta đủ cho ngươi.”
Người tín hữu hôm nay phải biết nói
lời của Thiên Chúa. Mặc dù khi nói lời Thiên Chúa, người ta có thể bị ghét
bỏ hoặc bị thiệt thân. Chúng ta cũng được mời gọi để nói sự thật, dù đó là “sự thật mất lòng.” Nhưng để có thể nói
sự thật, con người phải thấm nhuần chân lý của Chúa. Nhất là phải
có sự dũng cảm của một vị ngôn sứ.
Cũng giống như những người đồng hương của Chúa, có những
lúc đôi mắt đức tin của chúng ta như mờ tối, không nhận ra Chúa đang đồng hành
với chúng ta. Chúng ta không nhận ra Chúa đang dùng quyền năng và sức mạnh để
nâng đỡ chúng ta. Cũng vì thế, đã có những lúc chúng ta khước từ Chúa, khiến
Chúa không thể đến với chúng ta và ban ơn cho chúng ta.
Biến cố Chúa bị khước từ tại quê hương và nơi những người
thân của Ngài vẫn còn lặp lại trong cuộc sống chúng ta hôm nay: Vẫn còn có rất
nhiều người không đón nhận Chúa. Chúa vẫn mãi là vị ngôn sứ không được tiếp nhận.
Có lẽ đó chính là sự đau khổ lớn lao trong cuộc đời của Ngài: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận Ngài” (Ga 1, 11).
Ngày xưa, những người đồng hương của Chúa không nhận ra
Chúa vì chỉ nhìn thấy sự xuất thân tầm thường của Chúa. Họ không tin Chúa bởi
vì Chúa chỉ là “bác thợ mộc.”
Ngày nay, nhiều người không tin Chúa vì Chúa cũng đang
mang những dung mạo thật hèn mọn. Ngài hiện diện nơi những người anh em rất tầm
thường: mang khuôn mặt của một bác thợ tầm thường, hay khoác bộ áo của một nông
dân quê mùa. Thậm chí, có thể Chúa đang ẩn thân nơi những con người đang thù
ghét chúng ta. Chúa đang mong mỏi được gặp gỡ ta và đồng hành với ta.
Một ngày kia, có đoàn khách làm việc từ thiện đến thăm một
viện phong. Khi thấy một nữ y tá đang chăm sóc một người bệnh rất tận tụy, một
ông khách dừng lại và hỏi thăm về gia cảnh của cô y tá. Cô y tá trả lời: “Tôi chưa lập gia đình, nhưng đã có người
yêu. Người yêu của tôi là một bác thợ mộc.”
Đó chính là một cô gái đã tận hiến cuộc đời trong một tu
hội đời. Cô từ khước cuộc sống gia đình, tình nguyện phục vụ các bệnh nhân đau
khổ. Bác thợ mộc kia chính là Chúa Giêsu, người yêu muôn thuở của cô.