Thứ Bảy sau lễ Thánh
Tâm
LỄ TRÁI TIM MẸ VÔ
NHIỄM
BÀI ĐỌC: Is 61, 9-11
9 Có Lời Đức Chúa phán
với dân Người: “Dòng dõi các ngươi sẽ nức tiếng giữa chư dân,và giống nòi các
ngươi sẽ lừng danh giữa muôn ước. Tất cả những ai thấy các ngươi sẽ biết
rằngcác ngươi là một dòng dõi được Đức Chúa ban phúc lành.
10 Tôi mừng rỡ muôn
phần nhờ Đức Chúa , nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc
cho tôi hồng ân cứu độ,choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể
chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. 11 Như đất đai làm
đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm,Đức Chúa là Chúa Thượng
cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”.
ĐÁP CA: 1Sm 2
Đ. Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng cứu
độ tôi (Lc 1, 46-47).
1 "Tâm hồn con
hoan hỷ vì Chúa,nhờ Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang. Con mở miệng nhạo báng quân
thù:Vâng, con vui sướng vì được Ngài cứu độ.
4 Cung nỏ người hùng
bị bẻ tan,kẻ yếu sức lại trở nên hùng dũng. 5 Người no phải làm mướn
kiếm ăn,còn kẻ đói được an nhàn thư thái. Người hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy,mẹ
nhiều con lại ủ rũ héo tàn.
6 Chúa là Đấng cầm
quyền sinh tử,đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên. 7 Chúa bắt phải
nghèo và cho giàu có,Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.
8 Kẻ mọn hèn, Chúa kéo
ra khỏi nơi cát bụi,ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,đặt ngồi
chung với hàng quyền quý,tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 2,19
Hall-Hall: Đức Trinh Nữ Maria ghi nhớ
Lời Chúa và suy niệm trong lòng. Hall.
TIN MỪNG: Lc 2,41-51
41 Hằng năm, cha mẹ Đức
Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi Người
được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong
ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở
lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44 Ông bà cứ tưởng là
cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám
bà con và người quen thuộc. 45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở
lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46 Sau ba ngày, hai ông
bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ,
vừa đặt câu hỏi. 47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông
minh và những lời đối đáp của cậu. 48 Khi thấy con, hai ông bà sửng
sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! "49
Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở
nhà của Cha con sao? "50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa
nói.
51 Sau đó, Người đi
xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ
Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM VÌ
ĐƯỢC CHÚA Ở CÙNG
Khi ta
nhìn Đức Maria trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, thì Đức Maria là Mẹ
của Thiên Chúa (Hội Thánh kính ngày 1. 1). Mà vì Đức Maria được Chúa ở cùng, nên
danh Maria trở thành danh “Đầy Ơn Phúc” (x Lc 1,28 – Bản dịch NTT), dựa vào
danh này, Hội Thánh xác nhận Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm, thì khi ta nhìn Đức Maria
trong mầu nhiệm Hội Thánh, Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria được đặt sau lễ Thánh
Tâm Chúa Giêsu,có ý nhắc nhở: Nhờ Thánh Tâm Chúa Giêsu,chúng ta được tái sinh,
được thanh tẩy mọi tội lỗi và được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần (x Cv 2,38). Chính
nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria – Bà Eva mới vô tội – cộng tác với Adam cuối
cùng (Đức Giêsu) cùng sinh ra chúng ta là con Thiên Chúa, là các thi thể trong
Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu. Vì thế, Đức Maria trở thành mẫu người Công Giáo
được đính hôn với Tân Lang Giêsu, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, như thánh
Phaolô nói với các tín hữu: “Tôi đã đính
hôn anh em với một người độc nhất là Đức Giêsu Kitô, để tiến dâng anh em cho
Người như một trinh nữ thanh khiết” (2Cr 11,2).
Theo Tin
Mừng Gioan, chính Đức Giêsu đã hai lần gọi Mẹ mình là Bà: lúc khởi đầu và khi kết
thúc cuộc đời công khai của Ngài.
-
Khởi đầu cuộc đời
công khai của Đức Giêsu, Ngài “thai nghén” Hội Thánh đã hé mở tại tiệc cưới Cana, Ngài nói với Mẹ: “Này Bà, giữa tôi và Bà nào có liên quan gì? (Ga 2,4a). Và hôm ấy
lần duy nhất và lần đầu tiên trong suốt cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Mẹ
Maria chỉ ân cần dặn dò loài người: “Giêsu
bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5). Vì Đức Giêsu muốn dùng Lời Chân Lý mà sinh ra
các Kitô hữu, để họ nên như của lễ đầu mùa trong các loài thụ tạo của Ngài (x
Gc 1,18).
-
Kết thúc đời công
khai của Đức Giêsu, khi Ngài bị treo trên thập giá, cả Đức Maria và môn đệ Gioan
đều có mặt, lúc ấy Đức Giêsu mới xác nhận về sự liên hệ giữa Ngài với Đức Maria
và môn đệ của Ngài: “Hỡi Bà, này là con
Bà”, đoạn Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”, và từ giờ đó môn đệ đã lĩnh lấy
bà về nhà mình” (Ga 19,26-27). Nghĩa là nơi đồi Sọ, Đức Maria mới thực là bà
Eva mới, vì đã cùng chịu đau khổ với Con của mình là Adam cuối cùng, khi tim
Ngài bị đâm thủng, nước cùng máu chảy xuống, phát sinh các Bí tích, khai sinh
Hội Thánh. Chính lúc này, bà Maria – Eva mới – thực sự là “Mẹ các chúng sinh”, làm ứng nghiệm lời ông Adam nói với vợ: “Bà là mẹ các chúng sinh” (St 3,20), là
Mẹ của những người được sinh lại bởi Chúa Giêsu (x Cv 2,38). Và như thế, Đức
Maria đã làm ứng nghiệm Lời tiền Tin Mừng Thiên Chúa đã hứa cứu độ loài người:
“Người phụ nữ sẽ đạp nát đầu rắn” (St
3,15 – Theo bản dịch Phổ Thông).
Như vậy, hai
lần Đức Giêsu gọi Đức Maria là Bà, mở đầu và kết thúc cuộc đời công khai của
Ngài, là Ngài có ý nhấn mạnh: Từ khởi sự
cho đến hoàn tất, những công việc tôi đều có sự tham dự tích cực của bà Maria,
khác nào như lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Từ
khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa”. Bởi lẽ đó, thánh Phaolô nói:
“Cũng chỉ vì một người mà sự tội đã đột
nhập vào thế gian, và vì tội, thì sự chết nữa và như vậy sự chết đã lan qua hết
mọi người, một khi mọi người đều đã phạm tội… Ấy thế, mà sự chết đã ngự trị từ
Adam cho đến ông Môsê, trên những kẻ không phạm tội (vì lúc đó chưa có Luật)
bằng cách vi phạm giống như Adam phản ảnh của Đấng sẽ đến. Nhưng không phải sa
ngã sao ơn huệ cũng vậy. Vì nếu bởi sự sa ngã của một người, nhiều người đã
chết, thì còn dãy tràn hơn biết bao trên nhiều người, ơn của Thiên Chúa, lộc
trong ơn của một người, Đức Giêsu Kitô”(Rm 5,12. 14-15).
Về sứ
mệnh của Đức Maria được Chúa mời gọi tham dự vào chương trình cứu độ loài
người, giáo huấn của Công Đồng Vat. II, trong Hiến Chế Hội Thánh số 56 dạy: “Vì Eva không vâng Lời Chúa, nên đã sinh ra
nhân loại phải chết; nhưng nhờ Đức Maria, Eva mới cộng tác với Adam cuối cùng,
sinh ra dòng giống nhân loại mới được sống dồi dào muôn đời hạnh phúc”, do
đó, chỉ có Đức Maria cùng với Chúa Giêsu mới làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia
nói về thời đại Thiên Chúa mời gọi dân Ngài cộng tác để thực hiện chương trình cứu
độ loài người: “Dòng giống chúng sẽ được
biết đến trong các nước, và miêu duệ chúng lừng danh giữa muôn dân; ai thấy
chúng đều nhận biết đích thị là dòng giống được Thiên Chúa chúc lành” (Is
61,9: Bài đọc). Nên khi Đức Maria vừa nghe bà Elyzabeth người chị họ chúc tụng:
“Trong nữ giới có người là diễm phúc! Vì
đáng chúc tụng thay quả lòng Bà! Và bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa đến với
tôi” (Lc 1,42-43). Vừa nghe lời chúc tụng ấy, Đức Maria cất tiếng ca ngợi Chúa:
“Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng
cứu độ tôi” (Lc 1,47: Đáp ca). Tâm tình ca tụng Chúa của Đức Maria đã nối
dài lời chúc tụng của bà Anna, dù hiếm hoi trong tuổi già, lại được Chúa cho
sinh cậu Samuel, là đại ngôn sứ của Thiên Chúa,Chúa đã dùng ông đặt vua cho
Israel: “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa, nhờ
Chúa con ngẩng đầu hiên ngang, con mở miệng nhạo báng quân thù. Vâng con vui
sướng vì được Ngài cứu độ” (1Sm 2,1).
Lời tạ ơn
của Đức Maria lại còn làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói về thời Thiên Chúa
ra tay cứu Israel thoát nô lệ Babylon, là dấu chỉ Chúa cứu cả loài người thoát
nô lệ Satan, vì đã phạm tội: “Tôi mừng rỡ
muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người
mặc cho tôi hồng ân cứu độ,choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể
chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10: Bài đọc). Và
như thế Đức Maria nhận biết mình là Cô Dâu, được Chúa điểm trang phục sức đứng
kề bên Adam cuối cùng chỉnh tề đai mão, vì Ngài là Vua.
Ơn huệ
quý báu này Chúa không chỉ muốn ban riêng cho Đức Maria, mà Chúa Giêsu còn muốn
ban cho hết thảy những ai noi gương Mẹ của Ngài nghe và thực hành Lời Chúa (x
Lc 8,21). Mà hết thảy những ai muốn nghe và thực hành Lời Chúa, tất yếu phải
năng tham dự Thánh Lễ, vì cả đến Đức Maria cũng phải đến Nhà Thờ mới được nghe
Đức Giêsu đang giảng dạy cho các thầy tấn sĩ. Lúc đó, Đức Maria mới tìm lại
được “Con Đấng Tối Cao” (x Lc 1,32) là Con của mình, để được bình an. Vì thế mà
Đức Giêsu hữu ý trốn cha mẹ ở lại Nhà Thờ, để từ đó Con Thiên Chúa đồng hành
với cha mẹ trở về quê Nazareth (x Lc 2, 41-51: Tin Mừng), hầu làm ứng nghiệm
lời các ngôn sứ đã nói: “Ngài sẽ được gọi
là Nazarêô” (Mt 2,23: Bản dịch NTT).
Trong thực
tế, thì không có ngôn sứ nào nói như trên, nhưng có lẽ ông Matthêu “trích ý chung của nhiều sách Cựu Ước về một
đặc điểm của Đấng Mêsia, đồng thời cũng muốn đưa về tên Nazareth. Cũng có tác
giả liên tưởng tới ngôn sứ Isaia nói về Thiên Chúa sẽ cho Đấng Emmanuel thuộc
dòng vua Đavid, con của Giêsê: “Từ gốc Giêsê nảy lên một chồi” (Is 11,1). Đấng
Emmanuel ấy chính là Chúa Giêsu, Con của Đức Maria, mới thực sự ở giữa loài
người, để giải cứu muôn dân thoát án tử. Cũng có thể thánh Matthêu nghĩ đến một
người có lời khấn Nadia, người được thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa”
(theo chú giải của TOB – Bản dịch CGKPV).
Sau này
từ Nazareth,
Đức Giêsu bắt đầu công khai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ muôn dân (x Lc 4,14t).
Vậy ta
hãy bắt chước “Đức Trinh Nữ Maria ghi nhớ
Lời Chúa và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19: Tung Hô Tin Mừng), để qua Phụng
Vụ Thánh Lễ Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Maria, Hội Thánh muốn nhắc nhở con cái
mình: Người Công Giáo đã được trở nên con cái Mẹ, thì phải nên giống Mẹ năng
đến Nhà Thờ gặp Chúa, vì mỗi khi phạm tội là ta lạc mất Chúa, hãy trở lại Đền
Thờ để tham dự Thánh Lễ, nhờ đó ta được Chúa thanh tẩy, cho ta tham dự vào ơn
Vô Nhiễm của Mẹ. Như thánh Gioan nói: “Mầm
giống của Đức Kitô lưu lại trong kẻ ấy, và kẻ ấy không thể phạm tội, vì chưng
đã được sinh bởi Thiên Chúa” (1Ga 3,9). Đó là hiệu quả chính của Bí tích
Thánh Thể mà sách Giáo Lý Roma đã xác quyết:
-
Việc rước Lễ giúp ta xa lánh tội lỗi, khi chúng ta rước Mình
Chúa Kitô “đã phó nộp vì ta” và Máu “đã đổ ra cho mọi người được tha tội”. Vì
thế Bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Chúa Kitô, nếu Chúa Kitô
không thanh tẩy chúng ta khỏi tội đã phạm và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi (số
1393).
-
Nhờ tình yêu mà Bí tích Thánh Thể khơi dậy trong tâm hồn, chúng
ta được gìn giữ khỏi phạm tội trọng, càng tham dự vào sự sống Chúa Kitô, chúng
ta càng sống mật thiết với Người; nhờ đó giảm bớt nguy cơ phạm tội trọng lìa xa
Chúa (số 1395).
-
Nhờ tham dự Thánh Thể, ta được gắn bó với Chúa Giêsu Phục Sinh
chặt chẽ hơn, vì Ngài đã tha các tội nhẹ của ta, và bảo vệ ta khỏi phạm tội
trọng (số 1416).
THUỘC LÒNG
Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để
tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2Cr 11,2).
Lm GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH