Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
32. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
33. Chỉ cần tin
thôi Catholic.org.tw
34. Chúa là chủ
tể sự sống Lm.
Carolo Hồ Bạc Xái
35. Đức Kitô là
nguồn sống Lm
Giuse Đinh lập Liễm
36. Hãy vững tin
đừng sợ Lm.
Phêrô Lê văn Chính
37. "Hỡi em
bé, Ta bảo em... Suy niệm của Nha Trang
38. Chữa lành
một phụ nữ.... Học Viện Đà Lạt
39. "Chỗi
dậy, thức dậy" Noel Quesson
40. Trong giờ
càn kíp William Barclay
41. Con gái ông
Giairô và người... Jacques Hervieux
42. Giữa lòng
dân Chúa Sưu tầm
43. Thầy thuốc
tối cao Sưu tầm
44. Đức tin
Sưu tầm
45. Chữa lành
Sưu tầm
46. Sống đạo
Sưu tầm
47. Ơn Chúa
Sưu tầm
1. Đức tin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng
chung một khung cảnh, đó là bên bờ hồ với đông đảo dân chúng. Màn thứ
nhất đó là ông chủ hội đường đến, phủ phục dưới chân Chúa mà van xin:
Lạy Thầy, con bé nhà tôi gần chết xin Ngài đến đặt tay lên cháu để cháu được
qua khỏi và được sống. Trước một nguy cơ đang đe doạ nghiêm trọng sự sống của
con gái ông, ông đã khước từ hy vọng vào loài người để chỉ trọn vẹn tin vào Đức
Kitô. Thế nhưng, cái tin đau đớn về cái chết của cô bé ập xuống trên đầu ông.
Tức khắc Chúa Giêsu an ủi ông: Đừng sợ, chỉ cần tin mà thôi. Điều ông xin lúc
mới gặp Chúa Giêsu thì bây giờ đã bị vượt qua. Có lẽ nhờ đó mà ông có được một
niềm tin lớn hơn, đúng như Chúa Giêsu đã mời ông thực hiện. Ngài đem ba môn đệ
thân tình nhất cùng với cha mẹ cô bé ra riêng mà nói với họ: Con bé không chết
đâu, nó ngủ đấy, trong khi đó đám đông cười nhạo Ngài. Là người Kitô hữu hôm
nay chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Khi Chúa Giêsu đến thì
cái chết không còn là cái chết, mà đó chỉ là giấc ngủ. Xuyên qua niềm tin của
Giairô, chúng ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đấng sẽ làm cho kẻ chết
sống lại.
Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà đến từ
phía sau và lén động tới gấu áo của Ngài. Lén, là bởi vì bà ta đang trong tình
trạng ô uế, vì bị băng huyết. Ở đây, chúng ta thấy nổi bật lên hai nét: Một thứ
tín ngưỡng tin vào sức mạnh thể lý nào đó của người làm phép lạ và quyền năng
của Đức Kitô trước thất bại của các lương y khác. Hai ghi nhận đó được diễn tả
trong câu: Tức khắc máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Đó
là niềm tin dưới dạng thức sơ khai của người đàn bà được một thứ tính toán vụ
lợi hướng dẫn, nhưng cuối cùng đã được toại nguyện, với cái giá phải trả là
chạm mặt với Đức Kitô. Nhưng đó mới là màn một, còn màn hai thì như thế nào.
Màn hai này mang lại cho câu chuyện một tầm vóc khác
xa những gì đã diễn ra trước đó. Bởi vì Đức Kitô muốn con người đã lén động đến
Ngài vượt ra khỏi cảnh vô danh. Ngài bắt bà ta phải tự giới thiệu công khai và
cùng bà ta đi vào một quan hệ cá nhân, một cuộc trực diện có thể soi sang chúng
ta. Khi đó, bà ấy đã trình bày sự thật và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà,
Chúa Giêsu cho bà ta lui về bình an: Này con, đức tin của con đã chữa con, con
hãy đi bình an và khỏi bệnh. Từ một niềm tin sơ khai, người đàn bà đã bước sang
một niềm tin trọn vẹn, mang sâu đậm một mối quan hệ của bà với Chúa Giêsu, Đấng
Cứu Thế. Và ông Giairô đã trông thấy điều đó khi ông đứng cạnh Chúa Giêsu, cho
nên chúng ta dễ hiểu tại sao chính ông cũng đã đạt được đức tin trọn vẹn như
chúng ta vừa mới chứng kiến ở trên.
Hãy tự hỏi xem coi long chai đá của chúng ta có thể đi từ sợ sệt
đến đức tin, có thể vượt qua mọi e dè để từ từ khai mở cho một đức tin đầy tin
tưởng hay không?
2. Đừng sợ.
Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như
hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy: Trong khi các môn đệ và
Chúa Giêsu vượt biển, thì bỗng dưng cuồng phong nổi lên, sóng gió ập vào đến
nỗi thuyền đầy nước và sắp chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống và tát nước, còn
Chúa Giêsu vẫn đang ngủ say. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài dậy. Chỉ với một lời
đầy quyền năng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Lập tức sóng liền yên, biển liền lặng
và các ông đem thuyền vào bến bình an.
Với chúng ta cũng vậy, cuộc đời người Kitô hữu nói riêng, hay
Giáo Hội nói chung, vẫn không thiếu những sóng to và gió lớn. Nó làm cho con
thuyền cuộc đời chúng ta bị chao đảo và dường như muốn chìm xuống đáy nước.
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Đừng
sợ.
Đây cũng là lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đấng kế vị thánh
Phêrô, đã lặp lại để động viên chúng ta, ngay từ những ngày đầu lãnh nhận sứ vụ
thay mặt Chúa ở trần gian. Và từ đó, Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi lặp lại lời
này. Nó có giá trị trấn an thế giới đang sẵn sàng bước vào ngàn năm thứ ba.
Tại sao lại đừng sợ? Vì bên trên chiến tranh, tàn khốc, bên trên
những xung khắc kinh tế và xã hội, bên trên tính bất khoan dung và sự nghèo đói
mà nhân loại đang phải gánh chịu, còn có Tin Mừng mang lại sự sống và sự bình
an. Đó chính là nguồn hy vọng cho thế giới ngày mai. Tuy nhiên bản thân chúng
ta cần phải làm gì để không còn sợ hãi?
Trước hết chúng ta phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Thực
vậy, cây cỏ tuỳ vào thời tiết để sinh trưởng, nhưng chúng ta thì khác, chúng ta
phải tạo ra thời tiết chung quanh chúng ta. Trong giao tiếp hằng ngày, nếu
chúng ta chỉ đem đến mưa bão, gió lạnh và bóng tối, thì những người chung quanh
chúng ta cũng sẽ đáp trả lại bằng những mưa bão, gió lạnh và bóng tối. Trái
lại, nếu chúng ta đem đến cho họ niềm vui, tiếng cười, lòng hăng say và ánh
nắng rực rỡ, thì sọ sẽ phản ứng với niềm vui mừng và hy vọng chan chứa. Cái
thời tiết chúng ta đã tạo ra sẽ mang đến cho chúng ta một mùa gặt sung mãn.
Gieo gì thì gặt nấy. Nếu chúng ta gieo rắc sự bình an, thì chúng ta cũng sẽ gặt
lấy được sự bình an và chúng ta sẽ không còn phải sợ hãi.
Tiếp đến, chúng ta phải xây dựng cuộc đời chúng ta trên
nền tảng đức tin. Bởi vì đức tin luôn chiến thắng sợ hãi, đức tin là
một sức mạnh mà nỗi sợ hãi không thể nào chống đỡ được. Nếu cõi lòng chúng ta
chất đầy niềm tin, thì chắc chắn sẽ không còn chỗ cho sợ hãi nữa. Và như thế,
chúng ta chỉ còn một nỗi lo sợ duy nhất đó là lo sợ không mến Chúa và yêu người
cho đủ mà thôi.
3. Đụng đến áo.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người
đụng vào áo Ngài. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả
tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được
khỏi." Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Đụng bằng tay, bằng miệng,
bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm
vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống. Nhưng cũng có lần,
như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi. Hay nói
đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài. Đụng vào Đấng
Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần
được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm
tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm
tay và bảo: "Hãy chỗi dậy."
Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết. Chỗi dậy và đi lại, ăn uống
như người bình thường. Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
"Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con" (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: "Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi" (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận
ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời
gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi
chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn
đổi mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu
nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn
thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và
bạn đụng vào Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ
thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh
mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để
chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình
thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
4. Lời kêu xin.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở
vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:
- Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:
- Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì
không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản
tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé,
như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có
thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời
van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những
người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới
Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có
bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả
đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp
nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái
ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình.
Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của
mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương
hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát
khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình
Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng
như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã
xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
- Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để
kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như
thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự
trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra
khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm
mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu
Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy
nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt
ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay
không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối.
Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi
mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén
lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến
chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của
chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa
đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc
với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ.
Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội.
Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử
thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt
hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn
chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã
biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị
thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như
kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ
một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị
sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời
nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu.
Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh
mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật
như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật
là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé.
Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời
nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và
rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ
biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm
nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có
những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông
trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do
Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người.
Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của
ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn
người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh
liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin
của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng
công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự
khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn,
bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức
Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng
đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm
nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm
đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa
khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí
tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em
bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để
lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp
đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo
thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm
nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết,
đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với
đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm
được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những
lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp
tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm
nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có
câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn
thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và
bạn đụng vào Chúa?
3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn
chưa?
6. Nhận ra phép lạ mỗi ngày – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Đavít Hamacon, Tổng thư ký Liên
hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không
chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là
một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu
Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu
nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng
như sau: "Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần
linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta
không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý
trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Đavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của
tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình
để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của
lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới
của những câu hỏi "tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải
được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo
của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả
hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã
biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay
trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức
mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được
tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo.
Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như
Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: "Lòng tin của con đã cứu chữa
con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra
trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở
niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh
thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có
tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung
mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn
mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí
không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép
lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội
tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống
dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập
bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
7. Bí quyết thần diệu để đạt được điều mong ước
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua
có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố
với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của
vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được
kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi
người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai
đem ra sử dụng.
Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó
là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.
Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là
vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin.
Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những
gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.
Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay
minh chứng cho chân lý nầy:
- Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết
Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm
thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giêsu,
bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.
Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với
người khác (Lv 15,25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giêsu, chỉ len lén
tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: "mình chỉ cần sờ được vào
áo Người thôi là sẽ được cứu". Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng
vào áo Chúa Giêsu thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.
Chúa Giêsu biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại
tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giêsu bảo:
"Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh."
Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra
cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng
bệnh nan y.
- Trường hợp ông trưởng hội đường
Đang cùng Chúa Giêsu tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa
con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho
ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.
Nghe vậy, Chúa Giêsu động viên ông ta: "ông đừng sợ, chỉ
cần tin thôi". Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu
sống.
Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá
đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!
Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho
thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì
chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin,
người ta làm được tất cả như lời Chúa Giêsu dạy: "Nếu anh em có lòng tin
lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: "rời khỏi đây, qua
bên kia!" nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm
được" (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22)
Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao
trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh
tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.
Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và
cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch
được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của
Chúa.
8. Cộng tác với ơn Chúa – Thiên Phúc
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chin ngày
để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến
thăm. Bà liền hỏi:
- Xin cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách
bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói
là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta
đã gởi đến cho bà vị linh mục này. Thế mà!
***
Nếu bà già trong câu chuyện suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, chắc
bà sẽ không làm cho thánh Antôn phải thất vọng. Người phụ nữ xuất huyết trong
bài Tin Mừng và bà già đau răng trong câu chuyện trên, cả hai đều tin tưởng vào
Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết
nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ
không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà
không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông
làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã
xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không
thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện
bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de
Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy
thuộc chúng ta, và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc
Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều
ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thể thúc
ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối
xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những
cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
- Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã
“múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7).
- Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi
“có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
- Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn
phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và
Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Hãy tự giúp mình
trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
***
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha
người mẹ, Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho
chúng con luôn biết sống ngoan ngùy, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng
con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn
gian nan khốn khó. Amen.
9. Chỗi dậy nhờ Đức Giêsu – Lm. An Phong.
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con
gái của ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc
người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến áo
Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp gỡ, tương
giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
* Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35).
Nhưng đối với Đức Giêsu, “đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39)
(Thực ra, đứa bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa
làm, đó là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục
con người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui và
hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn “đã chết”.
* Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy
một quan niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội
lực”. Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được
khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự
mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi
bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã cứu bà, cho bà
thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với Thiên Chúa, và đời
sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu
vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng
chiến thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị
bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi phục. Đồng
thời cũng cho thấy: nhờ đức tin, con người được cứu độ. Sau khi mọi hy vọng,
biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin
mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang
hấp hối, còn người đàn ba, sau 12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt
vọng. Hẳn là vào thời điểm gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn
niềm hy vọng duy nhất vào Chúa Giêsu? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã
thay đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem lại niềm vui và bình an
cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta: “Nếu bạn có đức tin
bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’,
nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc nhiên. Thực
vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh
qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã
làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến
những giải thưởng cuộc đời ban tặng Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ
đức tin?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này
không? Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi
những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp khó khăn
và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa hành động. Hãy tin,
dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành động “ đúng lúc, kịp thời”,
nhưng với đức tin.
Lạy Chúa,
Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
Để đức tin có thể triển nở,
xin cho chúng con biết cầu nguyện.
Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông,
ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
Lạy Thiên Chúa là Cha,
xin dạy cho chúng con biết
sống là sống trong niềm tin,
niềm cậy trông và tình yêu.
10. Lòng tin của con đã cứu con
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Thân phận con người
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ
làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống
con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng
ta nữa.
- Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của
em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của
thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc
người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên
đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố
và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
- Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo
trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ
bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về
thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái
chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự
liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn
đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.
Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa,
ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận
con người như thế nào.
2. Lòng tin
a. Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà
thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng
được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta
vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta
được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu
chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa
giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời
sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho
cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật
nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây
vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
b. Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của
người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó
sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp
nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho
nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta
thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm
đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra
ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó
đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình
cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ
và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào
niềm Hy vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hy
vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
3. Niềm hy vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà
cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi:
“Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa
ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta
không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người.
Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng
sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ
làm cho chúng ta hướng tới và đặt hy vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ
sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa
ban cho chúng ta.
Chính niềm hy vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho
chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận
của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong
Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.
11. Niềm tin thắp sáng hy vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng
Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình
tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến
cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo,
tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai
vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung
quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố
ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, bất
chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai
năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được
đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ thận
trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một
lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ "Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được
khỏi.". Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái
đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa
lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình
yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin
cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ
mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và "phủ phục dưới chân
Đức Giêsu và năn nỉ". Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang
trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu
chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông "Đừng sợ, cứ tin". Khi đến nhà,
thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như
vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức
Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có
quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và
nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” Đức
Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé
ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn
huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu
liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức
Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông
Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm
cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin
vững vàng của người phụ nữ: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa
con". Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: "Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi".
Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi
thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin
là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn
vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững
vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó
khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin
vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được
mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh
Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng,
Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn
tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
- Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin
vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên
bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta
luôn có được sự sống dồi dào.
2. Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày
để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn "chuyên trách" về
bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến
thăm. Bà liền hỏi:
- Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách
bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
- Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói
là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
- Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
- Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta
đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào
Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết
nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ
không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà
không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông
đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông
đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không
thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện
bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de
Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: "Hãy làm như thể mọi việc
tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên
Chúa". Mc.Kenzie nói: "Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa
sẽ làm những điều ta không thể".
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép,
nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử
với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng
tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con
người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã "múc
nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi
"có 5 chiếc bánh và 2 con cá" (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn
phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và
Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con
đường của hy vọng.
3. Niềm tin thắp sáng hy vọng
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền
năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu
lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ
nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội
đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức
tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi
mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì
chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và
bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã
nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy
di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một
lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh.
Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa
phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông: Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp: Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần
ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có
thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm
nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.
12. Tin và sờ – Guy Morin.
“Đừng sờ!” đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của
chúng ta. Những món đồ chưng bày mảnh mai, những đồ vật nguy hiểm bị cấm đụng
tới, và người lớn đàn áp chúng ta, không muốn chúng ta tiếp xúc với chúng. Trái
lại họ tìm cách dụ dỗ chúng ta khi bắt chúng ta sờ con chó khiến chúng ta sợ
hãi. Trong cuộc sống, chúng ta có kinh nghiệm là xúc giác hủy bỏ khoảng cách
giữa những con người. Người ta có thể nhìn và nghe thấy từ xa nhưng người ta
chỉ sờ khi ở gần mà thôi, sờ tức là gần ai đó, thân mật với họ.
Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, rất thường dùng đến việc tiếp xúc
thể lý. Ngài dùng tay sờ mắt, lưỡi, lỗ tai, da thịt bệnh nhân. Ngài ôm hôn trẻ
con. Hơn nữa Ngài để cho những người bệnh đụng tới mình và bảo thánh Tôma thọc
bàn tay vào cạnh sườn Ngài. Để diễn tả sự thật không chối cãi được của nhân
tính Ngài, thánh Gioan viết: “Những gì tay chúng tôi đã sờ nơi Ngôi Lời sự
sống… chúng tôi đã loan báo cho anh em” (Ga 1,1). Trong Tin Mừng hôm nay, có
hai trường hợp sờ: Một phụ nữ sờ gấu áo Chúa Giêsu; Ngài nắm tay một cô bé đã
chết để làm cho cô được sống lại. Lúc ban đầu, người phụ nữ này cũng như ông
Giairô không muốn trở nên thân thiện với Chúa Giêsu; họ chỉ muốn được Ngài chữa
lành thôi. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu những việc tiếp xúc này không chỉ là
hành động thể lý mà thôi; chúng phải dẫn đến một mối tương quan cá vị, mối
tương quan của đức tin.
Từ tiếp xúc đến đức tin.
Trong đám đông có một phụ nữ băng huyết. Thất vọng về các y sĩ,
bà đã nghe nói về Chúa Giêsu và thấy Ngài là cơ hội cuối cùng để bà được chữa
lành. Bà táo bạo vì bệnh của bà hay lây và làm cho bà trở nên ô uế (Lv 15,25).
Không sao! Bà vẫn len lỏi tới, sờ vào gấu áo Chúa Giêsu và bà được chữa lành.
Chúa Giêsu là ai đối với bà? Bà xem Ngài như thế nào? Bà không nghĩ đến việc
này nhưng cử chỉ của bà cho thấy Ngài là ai. Ngài là người chữa lành; còn bà là
bệnh nhân. Ngài có thể thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe của bà; nơi Ngài có những
năng lực chữa lành. Bà muốn được đón nhận năng lực này. Hoàn toàn chỉ quan tâm
đến bệnh tật của mình, bà không tìm kiếm tương quan cá vị với Chúa Giêsu. Sờ
được vào gấu áo của Ngài là đủ cho bà rồi. Đối với bà, Chúa Giêsu trước hết là
một phương tiện để được chữa lành.
Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa bà đến một mối tương quan cá vị. Bà muốn lẩn
trốn; Ngài kéo bà ra khỏi sự vô danh của bà khi đưa mắt tìm bà. Và này đây bà
run rẩy sụp lạy dưới chân Ngài. Lúc này, Ngài chữa lành bệnh cho bà, bây giờ,
là Ngài làm cho bà run sợ. Chúa Giêsu không để bà phải sợ hãi, Ngài bảo: “Hãy
đi về bằng an. Đức tin của bà đã cứu bà”. Ngài trả lại sức khỏe cho bà nhân
danh đức tin của bà. Bà được chữa lành không vì đã đụng tới áo Chúa Giêsu như
bà tưởng, nhưng vì bà đã tin nơi Ngài. Từ nay, bà biết rằng chính đức tin đã
cứu thoát bà. Chúa Giêsu đã dẫn đưa bà từ một tin tưởng ma thuật đến đức tin
vào bản thân Ngài.
Trường hợp ông Giairô lại khác hẳn. Với niềm tin tưởng, ông xin
Chúa Giêsu đến đặt tay lên con gái ông đang hấp hối để nó được sống. Dọc đường
có người đến báo cho ông hay rằng cô bé đã chết và khuyên ông đừng làm phiền
Chúa nữa: “…Phiền Thầy làm gì nữa?”. Tức khắc Chúa Giêsu đã hỗ trợ đức tin của
ông Giairô, duy trì mối liên hệ của ông với Ngài và đồng hành với ông, giúp ông
vượt qua nỗi sợ hãi: “Đừng sợ chỉ cần tin mà thôi”. Cứ tiếp tục tin, dù sao cũng
cứ tin! Khi đến nhà ông, Chúa Giêsu nắm tay cô bé đã chết và cho cô sống lại
như Ngài đã làm sống lại đức tin đang tàn lụi của ông Giairô để giúp ông niềm
tin vào quyền năng của Ngài, quyền năng làm cho kẻ chết sống lại.
Tin, tức là gặp gỡ.
Người phụ nữ bênh hoạn và ông Giairô đã tin vì họ đã gặp Chúa
Giêsu. Từ đó họ có những lý do riêng biệt để tin: Người phụ nữ tin vì bà được
chữa lành, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để làm cho đức tin của
bà biến chuyển: Ông Giairô tin, vì việc con gái ông được sống lại, nhưng nhất
là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để nâng đỡ niềm tin của ông và giúp ông thắng
vượt nỗi sợ hãi.
Bài tường thuật của thánh Marcô hôm nay cũng có liên quan đến
Kitô hữu chúng ta: Đức tin của chúng ta có được nuôi dưỡng bằng việc gặp gỡ
Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Đó là luật của Tin Mừng:
Chúng ta tin tùy theo mức độ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ta hãy nghiêm túc
tự đặt câu hỏi này: Tôi đã gặp Chúa Giêsu khi nào? Tin Mừng sẽ chúng ta trả
lời. Mỗi lần chúng ta xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Độ chứ không phải như kẻ chữa
lành hoặc giúp đỡ điều nọ điều kia, mỗi khi lâm cảnh đau buồn hoặc nguy nan,
chúng ta vẫn tiếp tục tin, đó là những khi chúng ta gặp gỡ Ngài.
13. Đức tin khai mở quyền năng Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ
ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với
nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục
sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần
dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng
trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các
thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa
lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh
con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu
lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có
để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.
Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành.
Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức
tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả
năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà
bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho
thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan
y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự
sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền
để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng
phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất
trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn
bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng
diệu kỳ thay đức tin của con người.
Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái
ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ
diệu của đức tin.
Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của
ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không
còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa
Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ
khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x.
Mc 5,35).
Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã
chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn
và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để
có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của
ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới
đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng
và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây
ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng
đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác,
chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã
từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt
21,21-22).
Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện
các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm
ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng
Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ
Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân
dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ
theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức
tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của
ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.
Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh
luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững
hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có
thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.
14. Hãy chỗi dậy – Lm. Giuse Trần
Việt Hùng
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi
thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn
liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng
sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết
rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong
(Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ
tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử.
Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc
sinh lúc tử.
Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền
sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn
được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm
dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa
Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta
thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời
này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.
Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được
mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa
sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có
những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày
tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so
sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng
sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá
nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được
mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây
phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa
và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh
viễn:Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).
Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai
mà muôn vật được tạo thành.Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có
Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự
sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm
chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời,
vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và
vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng
minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước
thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại
bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.
Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có
lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc
bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau
yếu bệnh họan và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van
xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó
được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất
huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm
tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong
thân thể bà.
Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con
người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi
tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là
ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự
chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa:Người bước
vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết
đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5, 39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã
tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha
kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!(Mc 5, 41).
Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa
Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã
chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của
con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi
sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở qúa yếu và các cơ
quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng đọng. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện
diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng
kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở
hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con
người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.
Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta
được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người
và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau.
Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho
đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng:
Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích
lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự
nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây
trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống
con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để
da, người chết để tiếng.
Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu
hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa
qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta
mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút
sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy
hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc
nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa
hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví
như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú
trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan
cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã
không dám buông bỏ.
Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con
biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có.
Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu.
15. Hai phép lạ về sự sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Nhờ tin, mọi sự đều có thể
Một đám người rất đông vây quanh Đức Giêsu, chờ đợi một lời nói
hay một cử chỉ lạ thường. Bỗng nhiên, có một người, dáng vẻ vội vã, đẩy mọi
người ra và tiến đến trước mặt Đức Giêsu. Ông có điều gì muốn thưa với Người.
Ông tên là Gia-ia, trưởng hội đường.
Thoạt tiên, người đàn ông này biết rằng mình có thể tín nhiệm
vào Đức Giêsu. Ông "phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ" Người đến
chữa con gái ông vừa mới tắt thở. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã
làm cho ông can đảm: ông sẵn sàng tin cậy vào một người qua đường, ông tín
nhiệm vào một người từ nơi khác đến, mà cho đến lúc này, ông chỉ mới nghe đồn.
Sự sống của đứa con gái ông vẫn hằng bao bọc, nuôi dưỡng, nay không còn nữa, và
ông đến xin lại từ một người khác, một người xa lạ.
Đức Giêsu yên lặng đi theo ông trưởng hội đường. Đám đông vẫn
tiếp tục vây lấy Người. Họ chen lấn, xô đẩy như muốn đè bẹp Người. Trong đám
đông hỗn độn ấy, có một người phụ nữ khốn khổ rất mong được đến gần Đức Giêsu,
chạm vào Người, dù chỉ là gấu áo thôi cũng được. Bà tự nhủ: "Tôi mà sờ
được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu."
Bà biết là mình ô uế, bởi vì theo não trạng người Do-thái lúc
bấy giờ, một người phụ nữ trong tình trạng như bà bị coi là "không được
chạm đến". Không ai được chạm đến bà, và ngược lại bà cũng không được chạm
đến ai. Bà là người ô uế và ai đến gần bà cũng bị ô uế.
Bà mong được đến gần, được chạm đến Đức Giêsu, để chấm dứt tình
trạng ô uế của mình. Bà tin rằng Đức Giêsu là một con người nhưng không giống
những người khác. Bà cảm thấy rằng từ con người này, bà có thể nhận được tất
cả: nhận lại chính mình, được trả lại chính mình.
Bà biết rằng bà đang làm một việc liều lĩnh, bởi vì đó là một
điều cấm kỵ. Nhưng chính sự đau khổ đã thúc đẩy bà, và bà đã đến với Đức Giêsu.
Phần mình, Đức Giêsu không sợ những điều cấm kỵ, không coi thường những nỗi khổ
sâu kín nhất, đáng xấu hổ nhất. Người là Đấng cứu độ đến trần gian để giải
thoát mỗi người khỏi nỗi cô đơn và sự sợ hãi.
Ngay tức khắc "bà cảm thấy trong mình đã được khỏi
bệnh" ; và cũng ngay lúc ấy, Đức Giêsu "thấy có một năng lực từ nơi
mình phát ra". Một cảm nghiệm sâu xa nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị giữa
người tin và Thiên Chúa của mình.
Đức Giêsu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh. Bấy giờ người phụ nữ có
thể bày tỏ chính mình. Bà phủ phục dưới chân Đức Giêsu và bày tỏ hết sự thật:
một thái độ phó thác, tin cậy, hy vọng. Thái độ này chứng tỏ rằng, khi người ta
được đón nhận cách trọn vẹn, người ta khám phá ra mình dễ thương, mình xứng
đáng được yêu thương và có khả năng yêu thương.
Cũng như hai tác giả Mátthêu và Luca, thánh Máccô nối kết phép
lạ này với câu chuyện chữa lành con gái ông Gia-ia.
Khi Đức Giêsu đang trên đường đến nhà ông Gia-ia, có người đến
nói với ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?" Đối với
người không tin, như thế là trễ rồi, không còn cứu vớt được nữa. Một khi không
có lòng tin tưởng, cậy trông, thì lúc nào cũng trễ. Đức Giêsu nghe được những
lời xầm xì, Người nói với ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin
thôi!"
Và sau đó, Đức Giêsu đã gọi cô bé dậy. Người nói: "Này bé,
chỗi dậy đi!" Cô bé liền chỗi dậy, vì có ai đó đã gọi cô, chính tên cô.
Những chi tiết về vượt qua
Trong bản văn dài này, người ta có thể rút ra được những chi
tiết diễn tả một bước vượt qua, từ sự chết sang sự sống.
* Từ bờ bên này sang bờ bên kia.
Đức Giêsu sang bờ bên kia, và ông Gia-ia chen qua đám đông để
đến gặp Đức Giêsu. Sau đó cả hai cùng vượt qua biển người. Cả một đám đông như
sóng dậy vây lấy cả hai, dường như muốn nuốt chửng.
* Từ ngôi mộ động đậy đến Nhà sự sống
Căn nhà của ông Gia-ia giống như một ngôi mộ. Một đám đông vây
quanh cô bé mới chết. Họ khóc lóc, vật vã, kêu gào. Đức Giêsu đuổi mọi người ra
khỏi nhà tựa như làm cho ngôi mộ ra trống không. Người gọi cô bé đang thiếp ngủ
dậy, và trong căn nhà nơi sự sống thiếp ngủ, không cần phải có tiếng khóc than.
* Tuổi của sự sống
Con gái ông Gia-ia được mười hai tuổi: tuổi dậy thì, tuổi có thể
bắt đầu đem lại sự sống. Trong khi đó, người phụ nữ mắc bệnh đã mười hai năm,
và bà trở thành người vô sinh: bà bị coi như đã chết. Cả cô bé lẫn người phụ nữ
mắc bệnh đều từ cõi chết bước vào sự sống, nhờ năng lực từ nơi Đức Giêsu phát
ra. Chính Người là sự sống.
* Từ đặt tay đến lời
Ông Gia-ia xin Đức Giêsu đến đặt tay trên con gái ông. Nhưng Đức
Giêsu không làm đúng như ông yêu cầu. Người nói với cô bé: "Chỗi dậy
đi" ; trước đó Người cũng nói với người phụ nữ một lời tương tự. Nhờ lời
Đức Giêsu, sự sống đã chỗii dậy, như một hạt giống, một mầm non.
* Phục sinh cho tương lai
Người đàn bà được chữa khỏi bệnh, cô bé được chỗi dậy từ cõi
chết: cả hai vẫn chưa đạt được mục tiêu. Cuộc sống vẫn còn ở phía trước. Cô bé
“sống lại" ; còn người phụ nữ nghe Đức Giêsu nói: "Con hãy
về."
Phục sinh là một cuộc sinh ra, nhưng mới chỉ là điểm khởi hành.
Đức Giêsu bảo những người đang đứng đó cho cô bé ăn. Của ăn và sự sống đi liền
với nhau.
Đánh thức niềm hy vọng
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi suy niệm về sự
sống và về niềm hy vọng một cuộc sống không hư hoại. Sự sống là một thực tại,
và có lẽ chúng ta càng cảm nhận cách rõ rệt hơn, khi mắc bệnh hay đối diện với
cái chết. Bất chấp mọi sự xảy ra như thế nào, chúng ta có dám tin và hy vọng?
Lòng tin tưởng chân thành và đơn sơ của ông Gia-ia cũng như của
người phụ nữ chính là gương mẫu cho chúng ta.
Người phụ nữ có vẻ như mê tín, chỉ mong sờ đến áo Đức Giêsu là
được khỏi bệnh. Đức Giêsu không khinh thường bà, trái lại, Người tạo cơ hội gặp
gỡ, giúp bà thoát khỏi tình trạng bệnh tật và ban cho bà bình an.
Lòng tin của ông Gia-ia mãnh liệt hơn. Ông vẫn tin vào Đức
Giêsu, trong khi đám đông dân chúng nghĩ rằng không ai có thể chống lại cái
chết. Đối với Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ. Nhờ lòng tin, giấc ngủ
này sẽ mở ra một buổi sáng phục sinh.
Những từ ngữ được sử dụng làm cho người ta nhớ đến phép rửa, tức
là tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Ki-tô.
“Tỉnh giấc đi nào, hỡi người còn đang ngủ!
Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào!
Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi." (Ep
5,14).
Trong mỗi chúng ta đều có một niềm hy vọng, nhưng nó đang ngủ
như cô bé của bài Tin Mừng. Cần đánh thức nó dậy, và thúc đẩy nó tiến tới. Điều
kỳ diệu chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng
có thể mở ra một buổi sáng phục sinh, từ những đêm tối của riêng chúng ta,
những đêm tối nhất.
***
"Đức Giêsu nói với ông Gia-ia:
"Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi!"
Nhưng tin là gì?
Là đưa cánh tay ra,
vượt ra khỏi những xôn xao và sợ hãi,
để nắm lấy Bàn Tay của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng, Bàn Tay ấy vẫn luôn giơ ra."
(theo A.M.Besnard)
16. Đức tin cứu sống.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn hào Tu-ghê-nít của Nga có kể lại một giai thoại sau:
Thời chiến tranh ông bị cảm nặng. Người ta mang ông vào một quân
y viện để chữa trị. Khi tỉnh dậy, ông thấy nhà thương đầy người, không có một
chiếc giường trống nào, mà bệnh nhân mỗi ngày một thêm đông. Bác sĩ trực phòng
của ông đi một vòng đến các giường. Đến bên cạnh ông, bác sĩ dừng lại và hỏi
người y tế:
- Hắn vẫn còn sống ư?
Người y tế trả lời:
- Tôi chưa kiểm lại. Nhưng sáng nay thì hắn vẫn còn sống.
Bác sĩ cúi xuống và đặt ống nghe trên ngực ông. Nghe biết tất cả
mọi sự, cho nên ông cố gắng thở thật mạnh. Sau khi nhấc ống nghe lên, bác sĩ
thở dài và nói:
- Thiên nhiên thật ngu đần, lẽ ra người này phải chết, nhưng
không hiểu sao hắn vẫn còn thở và như vậy là hắn chiếm mất chỗ của người khác
Tu-ghê-nít lắng nghe được tất cả những lời ấy. Ông tưởng số phận
của ông đã được quyết định, nhưng không ngờ sau đó ông đã được khỏi bệnh một
cách lạ lùng trước sự ngạc nhiên của viên bác sĩ trực và nhiều y tá khác trong
quân y viện.
Những bệnh nhân biết được những gì người ta làm cho mình và còn
sống sót để kể lại kinh nghiệm của mình như văn hào Nga trên đây không phải là
hiếm. Một viên thuốc ngủ, một mũi thuốc mê cực mạnh, nhiều người đã bị cướp mất
mạng sống dễ dàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu goị con người ngày nay
hãy xây dựng một nền văn minh của sự sống chứ không phải của sự chết. Tin Mừng
hôm nay có thể được coi như một câu trả lời của lòng tin cho một vấn đề từng
gây thắc mắc nơi con người thuộc mọi thời đại: vấn đề sự sống. Hai phép lạ:
chữa lành bệnh người phụ nữ băng huyết và cho một bé gái 12 tuổi sống lại, đều
minh chứng Đức Giêsu là chủ sự sống, là nguồn cội sự sống, vì Ngài là Đấng đã
làm cho kẻ chết sống lại.
Theo quan niệm của người Do Thái xưa, thì máu huyết tượng trưng
cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi,
tiêu hao đi, nên coi như chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của chị,
đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang, mà còn khổ về mặt tinh
thần, vì tập quán tôn giáo xã hội coi những người mắc chứng bệnh này, cũng như
bệnh cùi, bệnh hủi, khinh khi. Phải nói là người phụ nữ bị băng huyết này coi
như đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần.
Phép lạ Chúa Giêsu làm đã cứu thoát chị, đã đem lại cho chị một cuộc sống dồi
dào, cả trong ý nghĩa được sát nhập lại vào trong lòng cộng đồng tôn giáo.
Còn trong phép lạ Chúa Giêsu làm cho em bé sống lại, thì chúng
ta thấy hành động của Chúa Giêsu vượt xa điều mà gia đình ông Giairô, trưởng
hội đường, mong đợi: khi con gái duy nhất của ông hấp hối, ông đã chạy đi cầu
cứu với Chúa Giêsu, vì ông tin rằng Ngài có thể cứu con ông khỏi cái chết.
Nhưng khi hay tin con đã chết rồi, thì ông không còn hy vọng nào nữa, không còn
muốn làm phiền Chúa Giêsu đến nhà làm gì nữa. Chúa Giêsu phải nâng đỡ tinh thần
và niềm tin của ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Và phép lạ đã được thực
hiện, trước nỗi kinh ngạc và hạnh phúc của gia đình ông. Trưởng hội đường, kinh
ngạc và sung sướng đến nỗi ông và gia đình quên cả việc chăm sóc đến con gái
của mình, khiến Chúa Giêsu phải nhắc khéo: “Hãy lo cho cô bé ăn đi!”.
Trong tất cả hai phép lạ, chúng ta đều thây nổi bật lên một yếu
tố nối liền giữa Chúa Giêsu và người được phép lạ: đó là lòng tin. Người
phụ nữ bị băng huyết, sau khi chạy thầy chạy thuốc không khỏi, mà lại nghe nói
về quyền phép của Chúa Giêsu, thì dần dần trong lòng chị hình thành một niềm
tin mạnh mẽ: “Tôi mà sờ được áo Ngài thôi, là sẽ được khỏi bệnh”. Chính lòng
tin mạnh mẽ đó đã giúp chị vượt qua moị tập quán, mọi nếp suy nghĩ và quan niệm
tôn giáo có tính trói buộc và cản trở con người, để mạnh dạn đến gần Chúa
Giêsu. Chinh lòng tin mạnh mẽ đó đã như khiến quyền năng của Chúa Giêsu không
thể từ chối được: “Chúa Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”.
Lòng tin của ông Giairô cũng là yếu tố quan trong để Chúa Giêsu
là cho con ông sống lại. Chắc chắn lòng tin của ông đã được hỗ trợ bằng chính
câu chuyện người phụ nữ lành bệnh, cũng như đã được nâng đỡ bởi lời khuyên chủ
của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, ông ạ, cứ vững tin đi!”.
Qua hai phép lạ trên, Chúa Giêsu còn bộc lộ cho thấy thế nào là
Thiên Chúa, thế nào là Đấng Kitô của Thiên Chúa và loan báo một thời đại
mới, thời đại cứu độ mà các Ngôn Sứ đã loan báo. Trước hết, Thiên Chúa là
chủ sự sống, ban phát sự sống cho con người và muôn loài vật. Riêng đối với con
người, thì không chỉ là đời sống vật chất, tinh thần mà còn cả đời sống ân
sủng, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình sáng tạo và
cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người Con yêu dấu,
Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu có sứ mạng bộc lộ về Thiên Chúa, thực hiện chương
trình của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa những gì đã hư mất, là tìm đến
với người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm đến mọi nhu cầu cụ thể của
con người. Ngài cúi mình ghé mắt nhì xem nhu cầu cụ thể của con người Ngài gặp:
anh què, anh mù, chị phụ nữ bị băng huyết cũng như chị phụ nữ ngoại tình, người
bị quỷ ám, con trai bà goá thành Naim, cũng như con gái ông Giairô. Tất cả
những khổ đau, tật nguyền đều có âm hưởng mạnh mẽ trong tâm hồn Chúa Giêsu
Kitô. Chính vì mang trong mình trái tim của Thiên Chúa, nguồn sống của Thiên
Chúa, nên Chúa Giêsu đã cứu chữa người này, bình phục người kia, hồi sinh người
khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ, coi rẻ.
Đối với Chúa Giêsu, không hề có một tiêu chuẩn nào để lại bỏ, vì tất cả thuộc
về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất ngài đòi hỏi là lòng tin của chúng ta nơi
quyền năng và lòng thương của Ngài.
Lòng tin của chúng ta đối với Thiên Chúa là nguồn gốc, là chủ sự
sống sẽ dẫn chúng ta đến một thái độ tất yếu này là: chúng ta phải biết tôn
trọng sự sống, bảo vệ và phát triển sự sống. Không phải chỉ sự sống thể xác mà
cả sự sống tinh thần và sự sống tâm linh nữa. Không chỉ sự sống nơi mình, mà
còn sự sống nơi người khác, nơi dân tộc khác nữa.
Thế nhưng, chung quanh chúng ta không biết bao nhiêu sự sống con
người đang bị xâm phạm, chà đạp, cách này hay cách khác. Bao nhiêu trẻ em không
được quyền sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu nhất về vật chất,
tinh thần, để sống một cuộc sống cho ra người.
Chúa Giêsu đã sinh ra làm người là để cho con người được sống và
sống một cách dồi dào. Nhưng sự sống của chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không
trọn vẹn, nếu chúng ta chưa thực sự chia sẻ sự sống ấy cho những người chung
quanh. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng với
phẩm giá con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như những con người vẫn
còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta, thì có lẽ chính
chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu
mang lại cho chúng ta.
17. Lòng tin của con đã cứu con.
Có chuyện kể rằng Đức Giêsu và một thanh niên đồng hành trên bãi
biển. Bốn dấu chân in hằn trên cát. Nhưng lúc gặp chuyện khó khăn, chàng thanh
niên nhìn xuống chỉ còn thấy có hai dấu chân thôi. Anh kinh ngạc kêu lên:
- Thưa Thầy, nãy giờ Thầy đi đâu mà để con bước một mình? Đức
Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh:
- Con nhìn kỹ xem đó là dấu chân của ai nào?
Nhìn kỹ lại, chàng thanh niên mới thấy đó là dấu chân của Chúa.
Anh la lên:
- Vậy thưa thầy, nãy giờ con ở đâu?
Đức Giêsu trả lời:
- Này con, những lúc gặp khó khăn, Thầy biết con không đủ sức
chịu đựng, vì thế Thầy đã vác con trên vai đó.
Thực sự, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ tin cậy Người, nhất
là khi thấy niềm tin của ta bị thử thách quá sức, Chúa liền tạo điều kiện để
chúng ta vượt qua. Người vác ta trên vai, có nghĩa là triệt để nâng đỡ ta,
ngoài sức tưởng tượng của ta.
Người phụ nữ bị hoại huyết trong Tin Mừng hôm nay được chữa lành
hoàn toàn do lòng thương của Chúa. Dĩ nhiên, muốn được chữa lành, người ta phải
biểu lộ lòng tin. Mà bệnh nhân này theo luật Môisê, là một người ô uế, không
được ra trước công chúng, làm sao dám đến xin Chúa chữa bệnh cho mình. Chúa đã
soi sáng cho bà, và bà hiểu chỉ cần biểu lộ lòng tin một cách nào đó, cũng hy
vọng được ơn lạ. Nghĩ thế, bà đã len lỏi phía sau Chúa, lén chạm vào áo Chúa,
và sự lạ đã xảy ra: bà được khỏi bệnh.
Người bệnh chạm vào Chúa là đã vi phạm luật cấm. Nhưng bà nghĩ
rằng giữa đám đông chen lấn như thế ai mà biết được. Chính các môn đệ cũng ngạc
nhiên khi nghe Chúa hỏi xem đã có ai đụng chạm vào Ngài. Còn Chúa, Ngài biết rõ
mọi chuyện. Thay vì lặng thinh để khỏi bị tai tiếng vì đã chạm tới một phụ nữ ô
uế, Chúa lại muốn đưa sự thật ra ánh sáng, để mọi người thấy lòng tin của bệnh
nhân và thấy rằng Chúa hài lòng với một lòng tin như thế. Nhờ lòng tin, người
bệnh chẳng những được chữa lành, lại còn được ơn cứu độ, đó là ơn cao quí hơn
được lành bệnh thể lý, và đó là điều Chúa quan tâm hàng đầu. Nhân dịp này, Chúa
đã dạy các môn đệ một bài học mà sau này Thánh Phaolô đã khai thác và viết thư
khuyên dạy các Giáo đoàn: Nhờ đức tin mà có ơn cứu độ.
Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng.
Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ
lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội
tâm thầm kín.
Lạy Chúa, xin giúp con biết tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, biết
âm thầm cố gắng biểu lộ lòng tin trong cuộc sống, mặc dầu chỉ mình Chúa biết mà
thôi.
18. Cộng tác viên không phải bù nhìn – Lm. Mark Link
Một cơn lụt khủng khiếp đã tràn ngập cả một vùng rộng lớn. Một
bà bị kẹt ở trong nhà. Khi đang đứng ở cửa sổ nhà bếp trông ra ngoài, bà thấy
có một chiếc ca-nô tiến đến.
Người tài công nói với bà:
- “Bà leo lên đây và cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa,
Người sẽ cứu tôi.”
Người tài công lắc đầu bỏ đi. Ngày hôm sau, nước dâng lên đến
lầu hai. Khi đứng ở cửa sổ lầu hai nhìn ra biển nước, một chiếc tầu khác xuất
hiện. Người lái tầu bảo,
- “Bà leo lên tầu đi để cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa,
Người sẽ cứu tôi.”
Người lái tầu lắc đầu bỏ đi. Ngày sau nữa, nước đã dâng lên đến
mái nhà. Khi ngồi trên nóc nhà, bà trông thấy một chiếc trực thăng xuất hiện.
Phi công dùng máy phóng thanh nói với bà,
- “Tôi sẽ thả thang giây xuống. Bà leo lên và cứu lấy mình.”
- “Không, cám ơn ông,” bà trả lời. “Tôi tin tưởng vào Chúa,
Người sẽ cứu tôi.” Phi công lắc đầu bay đi chỗ khác.
Ngày hôm sau nước ngập cả căn nhà, và bà bị chết chìm. Khi lên
đến thiên đường, bà nói với Thánh Phêrô, “Trước khi tôi vào đây, tôi phải làm
đơn khiếu nại. Tôi tin tưởng là Chúa sẽ cứu tôi khỏi bị lụt, nhưng Người đã bỏ
tôi.”
Thánh Phêrô nhìn bà với ánh mắt khó hiểu và nói, “Tôi không biết
Chúa có thể làm gì hơn cho bà. Người đã gửi đến cho bà hai con tầu và một chiếc
trực thăng.”
Người đàn bà này chắc phải đọc bài Phúc Âm hôm nay kỹ càng hơn.
Trong bài có hai người cần sự giúp đỡ giống như bà. Và cả hai
đều tín thác vào Chúa, cũng như bà. Nhưng có sự khác biệt lớn lao giữa sự tín
thác của họ và của bà.
Hãy xem đó là gì.
- Người đầu tiên là một bà bị bệnh. Bà tin tưởng rằng Đức Giêsu
có thể chữa lành cho bà. Nhưng bà cũng biết rằng bà có thể làm một điều gì khác
hơn là chỉ tín thác nơi Đức Giêsu. Bà phải tiến thêm một bước nữa. Bà phải thi
hành phần của bà. Bà không thể chỉ ngồi đó và chờ đợi Đức Giêsu đến với bà. Bà
phải đứng lên, đi đến Đức Giêsu, và tự trình bầy với Người để được chữa lành.
- Điều này cũng đúng với câu chuyện thứ hai trong Phúc Âm hôm
nay. Ông Giairút cũng tin tưởng rằng Đức Giêsu có thể chữa con gái đang đau
nặng của ông. Nhưng ông cũng biết là phải làm điều gì đó hơn là chỉ tín thác
vào Đức Giêsu. Ông biết là phải tiến thêm một bước nữa. Ông phải thi hành phần
của ông. Ông phải cộng tác với Đức Giêsu. Vì con gái của ông quá đau yếu nên
không thể đến với Người, ông phải xin Đức Giêsu đến với đứa con của mình.
Và vì thế cả hai người trong bài Phúc Âm hôm nay đều thi hành
điều gì đó hơn là chỉ tín thác vào Đức Giêsu. Họ đã tiến thêm một bước. Họ đã
thi hành phần của mình. Họ đã tận dụng các phương tiện bình thường mà Chúa ban
để có được sự chữa lành họ cần.
Đây là điểm mà bà bị chết chìm đã sai lầm. Bà quên rằng Thiên
Chúa thường hành động trong đời sống chúng ta qua các phương tiện thông thường.
Bà quên rằng chúng ta phải thi hành phần của mình và cộng tác với Thiên Chúa
qua việc sử dụng các phương tiện thông thường mà Người đã ban cho chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi lì một chỗ và mong Chúa
làm phép lạ cho chúng ta. Trước hết chúng ta phải dùng mọi phương tiện thông
thường Chúa ban để tự giúp đỡ chúng ta.
Để tôi minh họa bằng một câu chuyện có thật.
Một thầy giáo Anh Văn lớp trung học có một học sinh trong lớp
chẳng chịu học hành gì cả. Vào ngày thi cuối năm, người học sinh này đến nói
với ông thầy là anh rất tin tưởng rằng anh sẽ được điểm cao. Anh nói, trong
tuần qua, hằng đêm anh cầu xin Chúa giúp anh làm bài thi Anh Văn.
Thiên Chúa không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế
cho việc học hành. Người không bao giờ cho rằng sự cầu nguyện có thể thay thế
cho sự chuyên cần. Nhận được sự giúp đỡ của Chúa là một con đường hai chiều. Nó
bao gồm sự cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta phải thi hành phần
của mình, và Thiên Chúa sẽ thi hành phần của Người.
Thánh Y Nhã có diễn tả sự cộng tác với Thiên Chúa như sau:
“Chúng ta phải làm việc như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào chúng ta, nhưng chúng
ta phải cầu nguyện như thể mọi thứ đều lệ thuộc vào Chúa.”
Nói cách khác, chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa và tận dụng
các phương tiện thông thường mà Người ban cho chúng ta trước khi xin Người can
thiệp trong một phương cách bất thường. Có câu châm ngôn nói rằng: “Thiên Chúa
giúp những ai tự giúp mình.”
Nhiều năm trước đây có một tiểu thuyết bán rất chạy tên là
Jonathan Livingston Seagull. Trong đó có một câu thật hay được dùng làm chủ đề
cho bài hát. Câu ấy như sau: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do.
Nếu bạn để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu
bạn để nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không
thuộc về bạn ngay tự đầu.”
Đó là phương cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta khi cần giúp đỡ
chúng ta. Người đã để chúng ta tự do. Người không ép buộc chúng ta phải nhận sự
giúp đỡ của Người. Mọi sự đều sẵn sàng cho chúng ta và Thiên Chúa để chúng ta
được tự do có muốn sử dụng điều đó hay không.
Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những tên bù nhìn.
Người đối xử với chúng ta như những cộng sự viên. Nói cách khác, Thiên Chúa ban
cho chúng ta mọi tài nguyên cần cho đời sống thường ngày của chúng ta.
Chỉ khi các tài nguyên này bị hao hụt trong những hoàn cảnh khẩn
cấp chúng ta thường sẽ nghĩ đến việc quay về với Chúa để được trợ giúp. Khi
chúng ta quay về với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh này, chúng ta có thể biết
chắc rằng Người sẽ giúp chúng ta, vì Người là Cha chúng ta và chúng ta là con
cái của Người.
Hãy chấm dứt phần suy niệm với câu trong cuốn Jonathan
Livingston Seagull: “Nếu bạn yêu mến điều gì đó, bạn phải để nó tự do. Nếu bạn
để nó tự do và nó trở về với bạn, thì bạn biết nó là của bạn. Nhưng nếu bạn để
nó tự do và nó không trở lại với bạn, lúc ấy bạn biết rằng nó đã không thuộc về
bạn ngay tự đầu.”
Lạy Chúa, trong tình phụ tử của Ngài dành cho chúng con, Ngài đã
để chúng con được tự do. Xin giúp chúng con chứng tỏ tình yêu của con cái đối
với Cha hiền bằng cách quay về với Chúa khi chúng con cần sự giúp đỡ đặc biệt
của Ngài.
19. Sống lại
Tôi trông đợi kẻ chết sống lại.
Đó là lời tuyên xưng cuối cùng của bản kinh Tin Kính, đó cũng là
điều chúng ta cùng nhau chia sẻ giờ đây.
Qua hình ảnh người đàn bà mắc bệnh loạn huyết được chữa lành và
hình ảnh đứa con gái của ông Giairô được sống lại, Giáo hội như muốn nói với
chúng ta rằng:
- Người đàn bà chỉ cần đụng tới gấu áo của Ngài là đã được Ngài
chữa lành, thì vào ngày sau hết mọi bệnh tật, mọi đau khổ của chúng ta cũng sẽ
biến mất. Hơn thế nữa Chúa chỉ cần phán một lời, đứa con gái đã chết liền sống
lại. Cũng vậy, trong ngày sau cùng, mọi kẻ chết trong mồ sẽ được chỗi dậy và
mang lấy một bộ mặt mới.
Nếu một ngày nào đó ra viếng nghĩa địa, chúng ta có thể nghĩ
rằng:
- Phải chăng cái chết chỉ là một giấc ngủ dài. Tới một lúc nào
đó họ sẽ chỗi dậy.
Thế nhưng chúng ta sẽ sống lại như thế nào? Thánh Phaolô, vị
tông đồ dân ngoại, đã hé mở cho chúng ta thấy điều ấy. Thánh nhân viết như sau:
- Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta không thuộc về thế
gian, nhưng chúng ta là những người công dân nước trời, và nước trời mới đích
thực là quê hương của chúng ta.
Mặc dầu chân chúng ta đạp đất, nhưng đầu chúng ta phải đội trời.
Hiện thời chúng ta đang mang lấy một thân xác đau thương, làm mục tiêu cho bệnh
tật, đau khổ, tội lỗi và chết chóc. Nhưng tất cả những sự ấy chẳng kéo dài được
bao lâu. Chúng ta đang trông chờ ngày Chúa trở lại để biến đổi thân xác tầm
thường của chúng ta trở nên một thân xác quang vinh, giống như thân xác Phục
sinh của Chúa, không còn đau khổ, không còn đổi thay, không còn chết chóc,
nhưng sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn. Để được như vậy, thì ngay từ bây giờ,
chúng ta phải ra sức hành động.
Người ta thường nói:
- Sống sao thì chết vậy.
Niềm vinh quang mai hậu lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của
chúng ta. Nghĩa là cái tiến trình phục sinh, cái tiến trình vinh quang hóa thân
xác phàm trần của chúng ta phải được bắt đầu ngay từ bây giờ. Như một con ngài
phải dần dần cắn chiếc kén thì mới có thể hóa kiếp thành một con bướm xinh đẹp.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn đau khổ, thì ngay từ giờ,
chúng ta phải biết làm chủ những đòi hỏi của giác quan và biết thánh hóa những
khổ đau gặp phải.
Nếu như đời sau, chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất, thì
ngay từ giờ chúng ta phải biết siêu thoát với tiền bạc, gắn bó nhiệt thành với
điều thiện.
Nếu như đời sau, chúng ta tỏa sẽ chiếu sáng bằng một vẻ đẹp tươi
trẻ và thánh thiện, thì ngay từ giờ chúng ta phải biết trang điểm cho tâm hồn
bằng những nhân đức.
Nói tóm lại, ngay từ giờ chúng ta phải biết uốn nắn sửa đổi lại
những sai lỗi khuyết điểm và tẩy trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống, đồng thời chất
đầy trên đôi tay chúng ta những công nghiệp là những hành động bác ái yêu
thương.
Một trong những phương tiện giúp chúng ta có đủ nghị lực thực
hiện những điều ấy, đó là Bí tích Thánh Thể, bởi vì khi rước lễ chúng ta không
phải chỉ đụng tới gấu áo Chúa mà còn được tiếp xúc với chính thân xác vinh
quang của Ngài.
Hơn nữa, chính Chúa cũng đã phán hứa với chúng ta:
- Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta
sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Có sống như thế và có chuẩn bị như thế, thì giờ chết mới là giờ
chúng ta được sinh ra cho hạnh phúc vĩnh cửu, mới là giờ chúng ta được Thiên
Chúa đón nhận vào quê hương nước trời trong vòng tay yêu thương của Ngài.
20. Mạnh mẽ.
Bài Tin Mừng là hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm gần nhau: phép lạ
cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội
đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương
đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin
Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành
động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chủ đề
của hai phép lạ này là ơn Chúa ban qua lòng tin.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông
Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức
và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Giữa lúc ấy các môn đệ nhận ra một
người đến quì trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một
phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân
chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền
năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là
vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại
bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các
chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng
đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh
nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn
và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch.
Vì thế, bà thẹn thùng, e lệ không dám đến trước mặt Chúa xin
Chúa chữa, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng
của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác
ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm
tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì
thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau
lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện.
Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng
công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm là nơi nhà ông trưởng hội
đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin
Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con
người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi
đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng
cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa
là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông, cử
chỉ này về sau được Giáo hội dùng vào bí tích Thêm sức. Rồi trong lời kêu xin,
chúng ta cũng thấy bộc lộ lòng tin vững chắc của ông. Ông tin chắc chắn chứ
không hồ nghi như người cha có đứa con bị quỷ ám từ lúc còn nhỏ. Người cha này
thưa với Chúa một cách ngập ngừng: “Nếu Thầy có thể làm gì được thì xin Thầy
giúp đỡ chúng tôi”. Nghe thế Chúa kêu lên: “Sao lại nói nếu có thể, tất cả mọi
sự đều có thể đối với người tin tưởng”. Còn ông Gia-ia thưa Chúa: “Thưa Thầy,
con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu
thoát và được sống”. Chúng ta thấy ông không hồ nghi gì, ông tin chắc chắn sự
việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại.
Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin
mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.
Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì
nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về tinh thần.
Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó
biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông
Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của
họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng
ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm
trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một
điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà
còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia,
hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta
cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ
trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ
khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng
đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.
21. Đau khổ.
Chứng bệnh loạn huyết mười hai năm của người đàn bà, cái chết
của đứa con gái yêu dấu, tất cả đều đem lại những khổ đau. Vậy thì khổ đau có ý
nghĩa gì.
Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là
như một cánh bèo trôi dạt trên đó. Đồng thời bốn nguyên nhân chính sinh ra khổ
đau, đó là: sinh, bệnh,lão, tử.
Trong kinh lạy Nữ Vương, chúng ta cũng thường đọc:
- Chúng con ở nơi khóc lóc than thở.
Vì thế nhiều người đã có lý khi nói:
- Đời là một thung lũng nước mắt. Bông hồng nào mà chẳng có gai,
cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cai của nó…
Hơn thế nữa, nhìn vào cách đối sử của Thiên Chúa, chúng ta thấy
có một sự khác biệt căn bản.
Đúng thế, khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng cho họ
những cánh hồng. Thiên Chúa thì trái lại, khi yêu thương ai, Ngài thường gửi
đến cho họ những gai nhọn.
Điều này đã được chứng thực nơi con người Đức Kitô. Thực vậy,
chúng ta có thể tự hỏi: Ai là người được Chúa Cha yêu dấu hơn cả nếu không phải
là Đức Kitô. Đồng thời ai là người đã phải chịu nhiều khổ đau hơn cả, nếu không
phải là Đức Kitô.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận, đó là những
người muốn bước theo Chúa, thì cũng phải vác thập giá và chấp nhận khổ đau.
Người tín hữu chấp nhận khổ đau sẽ là một hình ảnh trung thực
nhất của Đức Kitô. Trái lại, người tín hữu chối từ đau khổ, thì chỉ là một bức
vẽ tồi, làm sai lạc hình ảnh của Ngài mà thôi.
Chúng ta phải xác tín rằng:
- Chính khi đau khổ lại là lúc chúng ta được Chúa yêu thương,
lại là lúc chúng ta gần gũi Chúa hơn cả.
Trái lại, khi gặp được may mắn và hạnh phúc, lại là lúc chúng ta
phải đề cao cảnh giác, bởi vì rất có thể chúng ta đang xa lìa tình Chúa và đang
chôn vùi tình người bằng những hành động bất công và gian tham của mình.
Hơn thế nữa, những giây phút hạnh phúc còn là những giây phút
đáng sợ, còn là những giây phút ru ngủ chúng ta.
Trong đêm tối của đau khổ, chúng ta dễ dàng nhìn ra những ánh
sao. Còn trong ngày nắng chói chang, những ánh sao ấy bị lấn át và biến mất.
Thánh Gioan đã định nghĩa:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Và tình yêu dưới một góc cạnh nào đó cũng có nghĩa là đau khổ.
Vì thế, đạo của Thiên Chúa phải là đạo của tình yêu và cũng phải là đạo của đau
khổ. Người tín hữu sẽ không thể sống đạo nếu không chấp nhận thập giá.
Vậy thì những đau khổ sẽ đem lại lợi ích gì?
Tôi xin thưa lợi ích thứ nhất đó là cộng tác với Đức Kitô
trong công cuộc cứu độ.
Thực vậy, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không phải là đã chấm dứt,
trái lại nó còn đang được tiếp nối nơi những chi thể của Ngài là các tín hữu
như lời thánh Phaolô đã viết:
- Tôi hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Đức
Kitô nơi thân xác tôi.
Những khổ đau chúng ta chấp nhận sẽ trở nên là một góp phần nhỏ
bé vào thập giá Đức Kitô, để đền bù tội lỗi của bản thân cũng như của những
người chung quanh.
Lợi ích thứ hai đó là thanh luyện tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Con người là một anh học trò, còn đau khổ sẽ là một vị thầy tuyệt
vời nhất.
Thoạt nhìn qua, đau khổ là một sự dữ khiến cho chúng ta tuyệt
vọng và muốn chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, dưới con mắt đức tin, đau khổ sẽ
thanh luyện tâm hồn, củng cố các nhân đức, như tục ngữ đã bảo:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Chính nhờ những đau khổ, cuộc đời chúng ta mới sẽ đem lại những
hoa trái:
- Hạt lúa mì gieo xuống đất, phải mục nát, thì mới sinh nhiều
bông hạt.
Đau khổ là như một lưỡi kéo cắt tỉa cuộc đời, để cuộc đời được
sai trái. Đau khổ là như một nhát búa đập xuống trên con người, để con người
chúng ta trở nên một tác phẩm nghệ thuật trước mặt Thiên Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa,
đau khổ sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, kết nên cuộc đời chúng ta.
Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy ngước nhìn thập giá
Đức Kitô, vì chính tại thánh giá Đức Kitô đã đau khổ trước chúng ta và hơn
chúng ta bội phần.
22. Sống đức tin.
Khi chúng ta muốn xin ai hay thỉnh cầu ai điều gì, thì hoặc là
chúng ta ưa thích điều đó, hoặc là chúng ta cảm thấy cần thiết điều đó, và
chúng ta tin tưởng người kia sẽ đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Người
đàn bà mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã
làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Chúa cứu chữa. Chính vì có
lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao
chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua
thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.
Chúng ta thấy người đàn bà này không dám công khai trực tiếp xin
Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo
choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Thế là bất chấp tất cả những luật
lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe, bà lén lút chen tới sau lưng Chúa, để thực
hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà đã được toại nguyện. Đó, chúng ta thấy
được, biết được đức tin của bà qua việc làm đầy tin tưởng của bà. Chính Chúa
Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho lòng tin ấy: “Lòng tin của con đã cứu chữa
con”.
Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Lòng tin của
ông được biểu lộ qua tất cả con người của ông, nghĩa là qua cử chỉ, thái độ và
lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quì sụp xuống dưới chân
Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay
lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải
tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như
thế. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa Giêsu đã nhận lời đến nhà ông và
làm phép lạ cho con gái ông sống lại.
Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu.
Chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có
nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống hằng ngày. Đó là
cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã
nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt
cảm thông”.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa
phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ
Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi:
“Tôi phải làm gì để có đức tin?”. Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông
chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói:
“Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với
những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người
khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện
trong cuộc sống chúng ta”.
Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả
năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Những thực hiện trước mắt có giá trị
hơn những dự án viễn vông. Đó là cách thẩm định thông thường trong cuộc sống
của chúng ta. Những người chung quanh có lẽ cũng đánh giá niềm tin của chúng ta
khi nhìn vào cách sống đạo của chúng ta, nghĩa là niềm tin của chúng ta chỉ
đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Vì thế, chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân
Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm
yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất
cứ ai. Đức tin của chúng ta phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm, để mọi người
có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
23. Sờ vào áo.
Người đàn bà đến với Đức Giêsu đã tuyệt vọng, vì mười hai năm
nay, bà chịu đau khổ vì một chứng bệnh và những lần chữa trị đau đớn và vô hiệu
trong đôi tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng
bạc sau cùng. Bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người.
Rồi bà nghe nói về Đức Giêsu. Bà tin rằng chỉ cần sờ vào áo của
Người, bà sẽ khỏi bệnh (thời đó, người ta tin rằng chỉ cần sờ vào áo của một
người thánh thiện sẽ được chữa lành). Bà tỏ quyết tâm khi chen qua đám đông.
Tuy nhiên, bà không tìm cách gặp gỡ Đức Giêsu. Điều bà tìm là một sự “sờ lén”,
“sờ vội”.
Thường thì, chúng ta cũng chọn cách “sờ lén” cho dù chúng ta
biết rằng điều đó không làm chúng ta thỏa mãn và chúng ta bị đánh lừa. Chúng ta
đi lễ vội vàng và xưng tội vội vàng (kể tội, đọc kinh ăn năn tội, nhận ơn tha
thứ và chuồn!) Cũng thế khi đi khám bệnh – nhận toa thuốc và chuồn.
Vả lại, chúng ta không thích bị đối xử một cách hấp tấp và vô
danh. Vậy tại sao chúng ta lại chọn cách “sờ vội”? Bởi vì trong chúng ta, phần
nào có sự e thẹn muốn tránh một sự gặp gỡ riêng tư. Tại sao lại thế? Bởi vì
chúng ta biết rằng điều đó là đòi hỏi hơi nhiều. Chúng ta muốn đạt được điều đó
một cách mau lẹ và phiền toái vất vả càng ít càng tốt.
Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được
chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã
tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh
giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không.
Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức
Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để
được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.
Người khẳng định sự gặp gỡ mặt đối mặt với bà. Người không nghĩ
đến mình nhưng nghĩ đến người đàn bà. Người biết sau đó bà sẽ lành bệnh; Người
biết bà không những cần được chữa lành về thể chất và cả về mặt tâm lý và tinh
thần. Sau bấy nhiêu năm bệnh tật bà cảm thấy mình xấu xa và Thiên Chúa cũng xa
lánh bà.
Vì thế Người đã gặp bà. Trong cuộc gặp gỡ này,
chúng ta thấy sự nhạy cảm và nhã nhặn của Đức Giêsu. Một người đàn bà bị băng
huyết bị coi là ô uế về mặt nghi thức. Bà không được phép ở trong đám đông và
khi sờ vào Đức Giêsu, bà đã làm cho Người cũng trở nên ô uế về mặt nghi thức,
những người khác sẽ cho là thế. Đức Giêsu không quở trách bà về thái độ “đáng
trách” ấy. Trái lại, Người khen ngợi đức tin của bà. Và đầy lòng yêu thương
Người nói với bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình
an và khỏi hẳn bệnh”.
Nếu chỉ sờ vào Người không, chưa đủ. Những người khác cũng sờ
vào Người. Bà sờ vào Người với đức tin, đức tin làm cho một người đàn bà nghèo nàn,
nhút nhát, bệnh tật, hạ tiện có khả năng nhận ra quyền năng của Đức Giêsu, và
làm cho quyền năng ấy tỏ hiện với một cái sờ.
Đức Giêsu muốn bà hiểu rằng Người hạnh phúc cho bà. Khi nói với
bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”, Người muốn bà hiểu rằng bà có góp phần
vào việc chữa lành cho mình. Người xác nhận sự kiện bà được chữa khỏi. Điều này
đem đến cho bà sự an ủi và bảo đảm.
Điều ấy làm cho bà cảm thấy tốt đẹp biết bao. Điều ấy tốt đẹp
hơn biết bao so với sự chữa lành, vô danh, hối hả và lén lút. Đức Giêsu làm cho
bà cảm thấy như bà là người duy nhất trên thế gian này.
Trong việc trị liệu và chữa bệnh, vấn đề luôn luôn là con người
toàn diện, chứ không bao giờ chỉ là triệu chứng. Người ta phải đặt ra những câu
hỏi thách thức nhân cách toàn diện không phải chỉ có cái chân, hoặc cái tay
được điều trị mà là một con người. Đức Giêsu không bao giờ chỉ chữa lành một
bệnh, Người chữa lành một người bệnh. Lời Người chữa lành tinh thần: sự đặt tay
của Người chữa lành thân xác.
24. Quyền năng.
Ông Giaia, ông trưởng hội đường đến gặp Đức Giêsu để xin Người
chữa lành cho đứa con gái mười hai tuổi của ông. Mặc dù cô bé còn sống, nhưng
giống như người đàn bà bị băng huyết rõ ràng không một quyền lực trần gian nào
còn giúp được cô bé. Lời cầu xin của cha cô bé chứng tỏ rằng ông tin Đức Giêsu
có một quyền lực siêu nhiên, đó là quyền lực chữa lành.
Đức Giêsu lập tức khởi hành đi đến nhà ông Giaia. Nhưng khi
Người còn đi trên đường các người nhà ông trưởng hội đường đến báo tin con gái
ông đã chết, và họ gợi ý không nên làm phiền Đức Giêsu nữa. Thực ra họ muốn nói
rằng ngay cả quyền lực của Đức Giêsu không thể thắng nổi sự chết. Chúng ta thấy
cùng một thái độ tuyệt vọng ấy được diễn tả trong sự than khóc của những người
đưa đám. Nhưng Đức Giêsu không biết đến những lời của các người nhà đưa tin.
Người quở trách và sau cùng đuổi họ ra ngoài. Niềm hy vọng trong sáng của Người
tương phản rõ rệt với sự tuyệt vọng của những người ở xung quanh Người. Người
thuyết phục ông trưởng hội đường Giaia phải có đức tin để tin rằng cả cái chết
của con gái nhỏ của ông không nằm ngoài quyền lực của Người. “Ông đừng sợ, chỉ
cần tin thôi”. Đức Giêsu vào phòng của cô bé cùng với cha mẹ và ba người môn
đệ. Rồi Người cầm lấy tay em bé và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con hãy đứng
dậy”. Lập tức cô bé đứng dậy và đi lại được. Đức Giêsu bảo họ cho cô bé ăn. Có
một sự dịu dàng và cảm động trong cảnh tượng ấy. Đức Giêsu bày tỏ tình yêu
thương của Người đối với cô gái nhỏ và cha mẹ của cô bé. Chúng ta phải làm gì
từ câu chuyện này? Chúng ta phải hỏi các Kitô hữu tiên khởi đã làm gì. Họ cũng
chịu đau khổ vì bệnh tật và các thành viên trong cộng đoàn của họ đã qua đời.
Đối với Marcô và các độc giả của ông, câu chuyện là một biểu lộ
quyền năng của Chúa Phục sinh chiến thắng chính sự chết. Đức Giêsu làm cho cô
bé đã chết đứng dậy bởi vì Người là “Sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Đức
Giêsu có thể biến đổi đời sống và là chiến thắng trên cái chết. Đó là ý nghĩa
câu chuyện này đối với các Kitô hữu tiên khởi.
Đối với những người tin Đức Giêsu, cái chết chỉ là một giấc ngủ
mà Người có thể và sẽ đánh thức họ dậy. Trong trường hợp của hầu hết các Kitô
hữu, sự đánh thức này sẽ không xảy ra trong đời này, nhưng trong thế giới sẽ
đến. Vì thế các Kitô hữu tiên khởi đã mô tả người chết “đang ngủ” bởi vì họ tin
rằng một ngày kia họ sẽ được đánh thức dậy, cũng như người đang ngủ được đánh
thức. Các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ koimeterion để chỉ nơi an táng và có
nghĩa là “nơi nằm ngủ”. Từ chữ koimeterion về sau xuất hiện chữ “cemetery”
trong tiếng Anh. Cả hai câu chuyện Tin Mừng cho thấy khi không còn hy vọng, xét
về mặt nhân tính thì quyền năng của Thiên Chúa có thể chiến thắng bệnh tật và
cả sự chết, Marcô nói với chúng ta rằng quyền năng ấy hiện diện trong Đức
Giêsu.
25. Đức tin.
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua
cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ
rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào? Chắc là muốn quay trở về đoạn
đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và ông Giairô cũng lâm vào một
tình cảnh khó xử như vậy:
. Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ
thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có
luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai
thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng
không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi
mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là
có tội: thật là khó xử.
- Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang
bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà
ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa!
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì
chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố
gắng tiến bước:
. Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái
tua áo của Ngài vậy.
. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an
ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, con gái ông Giairô sống
lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là hai trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của
đức tin và sức mạnh của đức tin.
. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi
thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
. Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào
những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc
cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước
một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì
không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa
thì có thể là được hết mọi sự.
- Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng
vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng
Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn
tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. - Như Phêrô dám
bước đi trên mặt nước biển, và ông đã đi được bao lâu ông còn tin vào Chúa.
Nhưng khi ông bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Chúng ta là những tín hữu, nghĩa là những kẻ tin Chúa. Bấy lâu
nay chúng ta vẫn tin Chúa. Nhưng có lẽ bấy lâu nay tin Chúa là điều dễ dàng đối
với ta, tin Chúa ta được bình an, tin Chúa đời ta thoải mái, gia đình ta yên
vui, việc làm của ta xuôi chảy. - Có một người mẹ kia có một đứa con nhỏ rất
dễ thương, vừa biết nói chuyện đã học đọc kinh, hát thánh ca. Rồi nó lâm bệnh,
người mẹ cầu nguyện hết sức, nhưng nó vẫn chết. Từ đó người mẹ không còn cầu
nguyện nữa, hình như chị đã hết tin.
Chúng ta cũng đã từng dự những đám táng: khi chiếc quan tài được
hạ huyệt, người ta khởi sự lấp đất lại và trong lúc đó cũng khởi sự đọc kinh
Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Biết bao người đã vừa đọc
câu đó mà nước mắt ròng ròng.
- Cũng có một ông kia từ ngày gia đình làm ăn sa sút đã đem
tượng Chúa quăng ra ngoài sân và từ đó không còn giữ đạo.
- Và biết bao người đã thành thật thú nhận cùng cha giải tội:
“Con đã ngã lòng rồi!” Cũng như có biết bao người những khi buồn khổ đời không
cầu nguyện.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa thật nhiều cho những người đáng thương
kể trên. Và cầu xin cho chính chúng ta được một đức tin vững chắc để không phải
chỉ tin Chúa ngày hôm nay khi đời ta còn bình an, vui vẻ. Nhưng vẫn còn đủ sức
để tin nếu mai ngày chúng ta rơi vào một hoàn cảnh khó khăn thử thách. Xin Chúa
giúp chúng con vẫn cứ tin luôn, tin rằng Chúa luôn thương yêu chúng con. Xin
Chúa giúp chúng con vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.
26. Lề luật
- Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai việc làm của Đức Giêsu.
Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự
chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những
luật khắt khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
- Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn
huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt
vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào đền thờ, không được tham dự các
lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế
đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng
hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng
táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc
đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây
nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn
biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến Ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm
của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở
trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con
hãy đi bình an”.
- Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là trưởng hội đường, nghĩa
là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó
ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang
khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc
bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo
luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì
cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ
gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là trưởng hội đường, nếu ông
không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất
chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa: Người nhà ông chạy
đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước
những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà
mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Đừng sợ gì cả (nghĩa là: ông đừng sợ làm
phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin
Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa
bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý: Theo luật
thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế.
Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
- Sau khi nghe giải thích hai việc làm táo bạo của Đức Giêsu,
chúng ta nghĩ sao về Chúa? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật
không? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ: “Các ngươi tưởng là
Ta đến để hủy bỏ lề luật ư? Không, Ta không phá bỏ mà Ta làm cho trọn lề luật.
Ta nói thật: cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của
lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là
của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm
cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức,
Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái
cốt tủy của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng
với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề
luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng: “Các ngươi chỉ là
những cái mồ mả. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn
những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định
rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài.
Ngài nói: “Cái gì làm cho người ta ra ô uế? Không phải những cái từ bên ngoài
vào (như đồ ăn, thức uống), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
Như vậy, lập trường của Chúa Giêsu rất rõ ràng: điều quan trọng
cốt lõi của lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo giữ cái
hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lõi của lề luật thì cũng như mồ mả
tô vôi, bề ngoài thì đẹp, nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
27. Gặp Gỡ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Nguời thì tôi sẽ được khỏi bệnh”
(Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi
bệnh băng huyết. Sức khoẻ của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và
nói: Talithakum… lập tức em bé đứng dậy và đi lại được”(Mc 5,41-42). Cái
cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm
tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp. “Thầy coi, đám đông
chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật,
trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha
nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hoá thành sự gặp
gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc
trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người
đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên cũng
không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn chẳng
hạn như một số các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định cái yếu tố khiến cho
những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, đó là ý hướng,
thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi
hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa
Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường khiến ta
liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng ta phải chân nhận rằng chính do
bởi lòng tin của người ta mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật,
xua trừ ma quỷ hay phục sinh kẻ chết... Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu
dương uy quyền để củng cố đức tin người ta như phép lạ hoá nước thành rượu tại
Cana. Tuy nhiên xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ
Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ
vẫn biểu gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin
làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường. Niềm tin giúp ta vượt qua nhiều
trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống.
Quả thật nếu không có lòng tin ở nhau thì ta thật khó mà tồn tại và phát triển.
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì
các con có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu
đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn cho ta hay rằng có không ít Thượng tế, luật sĩ và
biệt phái không tin vào Chúa Giêsu. Một trong những nguyên cớ khiến họ không
tin vào Chúa Giêsu đó là lòng ganh tương đố kỵ. Bài đọc thứ nhất, sách Khôn
ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những
ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà
nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì
cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ganh tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai
đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi,
nỗ lực rèn luyện…để vươn lên cho hơn người thì kẻ ganh tị chỉ loay hoay tìm
cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình. Dĩ nhiên, kẻ ganh tị sẽ không
trừ một thủ đoạn nào. Đặc biệt khi kẻ ganh tị lại lợi thế hơn nhờ chức quyền,
địa vị thì thủ đoạn sẽ tinh vi và nhiều khi đi đến chỗ bất nhân cách trắng trợn
nếu không muốn gọi là vô liêm sỉ. Như lời tác giả sách Khôn ngoan thì đằng sau
kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ và hậu quả là “sự chết” cho cả người
bị ganh tị lẫn kẻ ganh tương đố kỵ.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công Đồng Vaticanô II luôn cổ võ
con cái mình tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và
với cả anh em vô thần. (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại
giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công Đồng dạy ta cần phải khiêm tốn
lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của
tha nhân. Để có được thái độ này tiên vàn ta phải có lòng tin vào tha nhân. Tin
vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiên đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối
thoại.
Chúa Giêsu đã làm guơng cho ta về thái độ này. Ngoại trừ một số
người mà Chúa Giêsu đã biết rõ lòng dạ chai đá của họ, thì để khơi gợi lòng tin
nơi những người mà Người gặp gỡ, Người thường đi bước trước bằng cách tin vào
họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ
giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt
nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa
Giêsu cũng như những bài diễn từ khá dài của Người thường xoay quanh chủ đề
lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái thế mà Chúa
Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng cũng đủ cho ta
thấy Chúa luôn hy vọng, tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở chúng ta.
Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức có quyền thời bấy giờ vì
Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa Hội Thánh và Chính Quyền các cấp, giữa ta và anh chị em
lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo,
điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, có sự đối thoại chứ
không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực, thiết nghĩ cần phải có lòng
tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu, họ thiếu
lòng tin thường là do bởi lòng ganh tị. Họ ganh tị vì không muốn cái anh thợ
mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho
ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải
vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta
hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu
yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các
ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao
hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).
Nếu như Chính Quyền không sợ Hội Thánh gây ảnh hưởng hay ngược
lại, nếu như các tôn giáo không sợ nhau chiêu mộ tín đồ, nếu như bề trên không
sợ bề dưới tài giỏi hơn mình và nếu… thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ
hiện thực. Khi đã có lòng tin ở thiện ý và thiện chí của nhau thì sự gặp gỡ sẽ
ở trong tầm tay chúng ta và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt
chúng ta.
28. Sự chết.
Hai phép lạ được kể lại trong đoạn Tin mừng sáng hôm nay muốn
chứng tỏ rằng: Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Thực vậy, trước hết là phép lạ chữa người đàn bà mắc bệnh xuất
huyết. Bà là một người đau khổ, không phải chỉ vì bệnh tật kéo dài, tiền hết mà
tật thì vẫn mang, mà còn đau khổ về mặt tinh thần. Kẻ mắc bệnh như ở trong một
tình trạng bị rút phép thông công, vì luật Do Thái buộc họ phải ở nhà, vì hễ
đụng đến ai hay đến vật gì, thì làm cho vật ấy và người ấy ra ô uế. Mặc dù quan
niệm của bà, phần nào có vẻ mê tín nhưng lại biểu lộ một lòng tin chân thành
nơi Chúa…
Ngài có thể là Đấng sẽ cứu chữa cho mình. Nhưng hành động của bà
thì lại có tính cách liều lĩnh, bà đã dám xuất hiện giữa đám đông và đụng đến
người chung quanh khiến họ phải ra ô uế theo như luật dạy. Bà đã vi phạm lề
luật, mà lại vi phạm trước mặt viên trưởng hội đường, có thể là một luật sĩ hay
một người Biệt phái. Bà đã hoảng sợ khi thấy Chúa Giêsu hỏi đến việc bà làm. Cử
chỉ sụp lạy của bà phải chăng là một cử chỉ thất vọng. Bà đành phải thú nhận
tất cả, mặc dù bà muốn mọi sự được diễn ra một cách thầm kín, chỉ mình bà biết
mà thôi.
Nhưng Chúa Giêsu đã hỏi đến bà không phải để hạch sách hay lên
án, mà trái lại là để cứu vớt bà. Ngài đã muốn đưa người mắc bệnh ra khỏi đám
đông để trực diện với Ngài, đi vào cuộc đối thoại với Ngài, đặt mình trong mối
quan hệ với Đấng có thể cứu chữa mình. Và trong bối cảnh này, phép lạ không còn
mang tính cách mê tín… Bà đã được cứu khỏi bởi lòng tin, bởi sự gặp gỡ đích
thân với Đấng cứu mình chứ không phải chỉ tiếp xúc với một sức thiêng vô hình.
Lời Chúa phán: Con hãy về bình an và được khỏi bệnh đã trở
nên một lời tha thứ và chúc phúc.
Điều Chúa làm cho người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã đặt ông
Giairô, một vị trưởng hội đường trước một sự lựa chọn. Ông là một người có thế
giá vì ông nắm trong tay quyền điều khiển hội đường. Có thể ông thuộc nhóm Biệt
phái. Ông đang ở trong một cái thế rất bí, không phải chỉ vì con ông đang hấp
hối. Nếu con ông chết thì sự nghiệp của ông cũng khó đứng vững, vì chiếu theo
quan niệm về thưởng phạt thông thường trong dân Do Thái: con cái chết là hình
phạt, là bản án trên đầu cha mẹ vì một tội nào đó. Và một kẻ bị coi là có tội,
thì làm sao có thể còn được giữ chức trưởng hội đường nữa.
Nhưng cái thử thách lớn đối với ông từ lúc xảy ra phép lạ chữa
lành người mắc bệnh loạn huyết. Ông đã thấy được Chúa Giêsu là Đấng cứu chữa,
gỡ nạn và tuyên bố ơn cứu giúp là do lòng tin. Nhưng ông cũng lại thấy Chúa
Giêsu là một người tự do đối với lề luật Do Thái. Ông không thể không thắc mắc:
Một trưởng hội đường như ông, có phận sự bảo vệ lề luật, có thể ngang nhiên dẫn
Chúa Giêsu bị uế tạp vào nhà mình hay không. Nếu dẫn Chúa vào thì lại chẳng hóa
ra ông cũng tán thành và trở nên tự do đối với lề luật?
Thế nhưng, thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà được chữa
lành đã trở thành một lời kêu gọi ông hãy dẹp bỏ sự lo âu áy náy về một điều
khoản của lề luật, để được đứng hẳn trong lòng tin. Ông đừng sợ, hãy cứ tin.
Cuối cùng ông phải tin vì có người đến báo con ông đã chết. Ông còn biết tìm hy
vọng ở đâu nữa. Phép lạ diễn ra. Cháu bé sống lại, và từ đó chúng ta đi tới kết
luận:
Sự chết không còn là cái bế tắc vô phương cứu chữa, không còn là
cái kết cục tuyệt đối của số mạng con người, bởi vì Đức Kitô đã đem đến cho
chúng ta niềm hy vọng phục sinh, niềm hy vọng sống lại.
29. Trỗi dậy đi! – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Ở Việt nam hiện nay rất nhiều bạn trẻ đang vật lộn với với nghèo
đói, bệnh tật, ngu dốt. Nhưng trầm trọng nhất vẫn là những bệnh xã hội và khủng
hoảng tinh thần. Bao nhiêu thế hệ đang bị nhận chìm trong bóng tối tử thần.
Ai sẽ làm cho các bạn trẻ trỗi dậy?
Thực tế, bên cạnh những tâm hồn sa đọa, vẫn có những bạn trẻ
khác quan tâm và nỗ lực cứu vớt những anh em đang sống bên bờ vực thẳm. Có
những bạn sẵn sàng đi xin từng đồng, mua từng viên thuốc cho các bạn trẻ đang
đối diện với những bệnh thời đại. Họ không phí thời giờ bàn những chuyện xưng
hô “cha con” hay vấn đề đối kháng giữa giáo sỹ và giáo dân v.v. Họ chẳng cần ai
chú ý hay ghi ơn. Cũng chẳng cần giai cấp, địa vị. Chỉ cần vực anh chị em mình
trỗi dậy khỏi cơn nguy khốn hiện tại mà thôi. Họ là những người theo Chúa Giêsu
đi tìm cứu những người đau khổ, bệnh tật. Tuy không có quyền năng làm phép lạ
như Chúa, nhưng dõi theo bước chân Chúa, họ có thể tạo thành những kết quả
tương tự.
Dĩ nhiên, đứng trước cái chết, mọi người phải bó tay. Các phương
pháp y khoa hiện đại nhất cũng không thể vượt qua những giới hạn tử thần. Dù có
thiện chí và giàu có tới đâu, con người cũng phải đầu hàng. Phải toàn năng mới
có thể khiến con gái ông trưởng hội đường sống lại từ cõi chết (x. Mc 5,35-42).
Nói khác, chỉ cần nói với cô gái: “Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41) Chúa Giêsu đã chứng
minh Người là Thiên Chúa toàn năng, vượt trên mọi sức mạnh khoa học tiến bộ
nhất.
Chúa không đòi người môn đệ phải toàn năng như Chúa mới cứu được
đồng loại. Chúa muốn họ vận dụng sức mạnh tình yêu và hồng ân sẵn có để chặn
đứng bước chân tử thần. Thực tế, nhiều người không những không ngăn cản bước
chân tử thần, mà còn manh tâm xô đẩy anh em mình vào chỗ chết. Phong trào phá
thai chẳng hạn. Có khi họ “án binh bất động” trước sức tấn công vũ bão của tử
thần để cầu an hay hèn nhát. Bởi vậy, nhiều người trở thành mồi ngon cho tử
thần chỉ vì đồng loại mần thinh trước tiếng thét gào của các nạn nhân.
Không bao giờ Chúa “lạnh lùng” như thế trước nỗi thống khổ của
con người. Người phụ nữ băng huyết là một điển hình. Tuy chưa chết, nhưng bà đã
đứng trên bờ vực tử thần. Thấy thế, Chúa không xô bà xuống đáy. Sau mười hai năm
đau khổ, bà cảm thấy hoàn toàn bất lực và đau lòng vì “tiền mất tật mang.” Cuối
cùng, bà đã tìm được sức mạnh tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Tình yêu là
sức mạnh giải thoát. Nhờ lòng tin mãnh liệt, bà đã được cứu và bình an hoàn
toàn (x. Mc 5:34).
Đức tin đã toàn thắng. ĐGH Bênêđictô XVI nhận định: “Cuộc chiến
thắng này chỉ xảy ra vì có quyền năng sáng tạo của Lời Chúa và Tình yêu. Chỉ có
Lời Chúa và Tình yêu mới đủ sức mạnh biến cải cơ cấu vật chất một cách tuyệt
đối đến nỗi có thể vượt qua những chướng ngại của tử thần.” (www.archspm.org:
30.06.2006) Không có Lời Chúa và Tình yêu, chắc chắn họ đã không thoát khỏi
nanh vuốt tử thần.
Không những thoát chết, hai người phụ nữ còn được Chúa phục hồi
nhân phẩm và sứ mệnh cao cả. Trong cả hai phép lạ Chúa làm hôm nay, John R.
Donahue (www.Americamagazin.org: 30.06.2006) nhận thấy một vài điểm thú vị.
Trước hết, cả hai người lãnh ơn đều thuộc giới phụ nữ. Cô gái được phục sinh ở
lứa tuổi mười hai, tuổi đã có thể thành hôn theo phong tục thời bấy giờ. Như thế,
“cô bé” đã chết trước khi có thể trở thành vợ và mẹ. Người đàn bà băng huyết
cũng mười hai năm. Bà không thể có con. Như thế, không những Chúa cứu cả hai
khỏi chết, nhưng còn trả lại cho họ khả năng sinh sản, một vinh dự lớn lao vì
được tham gia quyền sáng tạo của Thiên Chúa. Vinh dự đó góp phần làm chứng cho
mọi người thấy, “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất
diệt.” (Kn 2:23)
Trước tình trạng phụ nữ bị buôn bán và khinh miệt hôm nay, Giáo
hội đang làm gì? Có động lòng trắc ẩn thực sự không? Có dám vượt qua những cấm
kỵ và thành kiến để đem ơn giải thoát đến cho phụ nữ không?
Nhờ hồng ân Thiên Chúa, biết bao phụ nữ đang chứng tỏ một đức
tin kiên cường và dũng cảm. Trong gia đình hay ngoài xã hội họ luôn sống với
Chúa. Nhờ đó, chính họ có thể thoát hiểm và cứu vãn tương lai nhân loại. Hôm
nay Giáo hội đang cần đến sức mạnh niềm tin nơi phụ nữ rất nhiều. Chính đức tin
đã giúp họ chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Họ còn muốn dấn thân
làm chứng cho Chúa hơn nữa trong nhiều môi trường xã hội hôm nay. Nhưng Giáo
hội có nhận ra đức tin kiên cường của phụ nữ trên toàn cầu để mời gọi họ hay
không?
Lạy Chúa, xin thương giải thoát phụ nữ và cho mọi người biết tôn
trọng phẩm giá và sứ mệnh cao cả của họ. Xin Chúa mở ra nhiều con đường và cơ
hội cho phụ nữ được tham gia hơn nữa vào sứ mệnh làm chứng của Giáo hội giữa
lòng đời hôm nay! Amen.
30. Chú giải và suy niệm của Lm. FX.
Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH BÀ BỊ BĂNG HUYẾT
VÀ CHO CON GÁI ÔNG GIA-IA SỐNG LẠI
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này tổng hợp hai truyện về chữa lành (con gái ông
Gia-ia [Mc 5,21-24.35-43] và bà băng huyết [Mc 5,25-43]). Đây là một ví dụ nữa
về cấu trúc “tháp ghép [sandwich construction]” của tác giả (x. 1,21-28;
2,1-12; 3,21-35; 6,7-33; 11,11-21; 14,1-11). Hai truyện này có nhiều điểm
chung: những người đau khổ là những người nữ; con số 12 (5,25.42); và từ vựng
(“lòng tin”, “sự sợ hãi”, “khỏi/lành mạnh”, “con [gái]…”). Tuy nhiên, giọng văn
của hai truyện này không giống nhau, khiến phải cho rằng đây là hai truyện lúc
đầu độc lập với nhau: Truyện con gái ông Gia-ia được kể bằng những câu ngắn,
với ít phân từ (participles) và các động từ ở thì hiện tại lịch sử (historic
present); còn truyện bà băng huyết được kể bằng những câu dài, dùng nhiều phân
từ và ở thì quá khứ aorist và vị hoàn (imperfect).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Mở: Khung cảnh, các nhân vật (5,21);
2) Hai truyện về chữa lành (5,22-42a):
a- Chữa con gái ông Gia-ia (cc. 22-24.35-42a),
b- Chữa bà băng huyết (cc. 25-34);
3) Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (5,42b-43).
3.- Vài điểm chú giải
- lại trở sang bờ bên kia (21): Đức Giêsu trở lại
bờ biển phía tây (x. 4,35).
- một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia (22): Ít
ra ta biết Gia-ia là một thành viên vị vọng của hội đường Do Thái, thuộc hàng
kỳ mục có nhiệm vụ quan tâm đến những vấn đề tôn giáo và xã hội của cộng đồng.
Tên Híp-ri Ya’ir (x. Ds 32,41; Tl 10,3-5; HL. IaĐros) có nghĩa là “ước gì Ngài
(= Thiên Chúa) soi sáng”.
- sụp xuống… khẩn khoản nài xin (22-23): “Sụp
xuống” (HL. piptei, x. 3,11; 5,33; 7,25) tương tự động từ proskyneô (“quỳ
xuống”; x. 5,6; 15,19), là thái độ vâng phục bày tỏ với một người trên, và
trong ngữ cảnh khác, là sự tôn kính bày tỏ ra với Thiên Chúa. Tác giả dùng hai
động từ trên để giới thiệu Gia-ia như là một người cầu xin: vì ở trong một hoàn
cảnh bế tắc, một bậc vị vọng Do Thái đã xin Đức Giêsu giúp đỡ.
- con bé: “con gái nhỏ” (HL. thygatrion, từ giảm
nhẹ của thygater, “con gái”). Từ giảm nhẹ này nói lên tình âu yếm của người cha
đối với con mình.
- gần chết rồi: Mt nói “vừa mới chết” (Mt 9,18),
còn Lc thì nói “đã gần chết (đang hấp hối)” (NTT; Lc 8,42). Mc thì viết “đã gần
lâm chung” (NTT) (HL. eschatôs echei).
- bà băng huyết (25): Chứng bệnh này làm cho người
phụ nữ bị ô uế về phương diện tế tự (x. Lv 15,19.25), và do đó, tất cả những gì
bà động chạm đến cũng trở nên ô uế.
- khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc (26): Lời kết án
các thầy thuốc đây thuộc nguồn riêng của Mc. Tác giả Lc sẽ nói nhẹ nhàng hơn
(x. Lc 8,43).
- sợ phát run lên (33): Bà sợ có lẽ vì thấy mình
đã làm cho Đức Giêsu bị luỵ vào tình trạng ô uế theo luật. Nhưng cũng có thể bà
sợ vì thấy điều vừa xảy ra cho mình. Sợ và run cũng là một phản ứng của con
người khi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 15,16; Đnl 2,25; 11,25; Gđt 15,2).
- lòng tin (34): Đây không phải chỉ là một cuộc
chữa lành thể lý nhờ tiếp xúc bên ngoài với bản thân Đức Giêsu, nhưng là ơn cứu
độ mà lời Người loan báo và ban cho tất cả những ai tin tưởng đến với Người. Vì
thế động từ sesôken có thể dịch là “đã chữa con lành” hoặc “đã cứu con”.
- đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống:
Việc đặt tay trên người đau ốm là một cử chỉ thường có trong các nghi thức chữa
bệnh ngày xưa, dựa trên ý tưởng người chữa bệnh là một người đầy quyền lực (x.
5,27-30: một kiểu tiến hành ngược lại). Những từ ông Gia-ia nói ra (“được cứu
thoát”, “được sống”) là những từ chuyên môn được các nhóm Kitô hữu tiên khởi sử
dụng để nói về sự cứu độ và sự sống được phục hồi (sống lại). Như vậy, rất có thể
các Kitô hữu tiên khởi đã coi câu truyện phục hồi sự sống cho con gái Gia-ia là
một lời tiên báo hoặc một sự tiền dự vào sự sống lại của Đức Giêsu và của những
ai tin vào Người.
- con gái ông chết rồi (35): Gia-ia chìm đi một
lúc trong đám đông đang đi theo Đức Giêsu. Trong khoảng thời gian này, bà băng
huyết được chữa lành. Đến lúc ấy, Gia-ia nhận được tin chẳng lành: con gái ông
đã chết! Vậy thì “làm phiền Thầy chi nữa?”. Dưới mắt những người đưa tin, người
cha đã đến gặp Đức Giêsu quá muộn. Chính họ vừa mới nói ra sự không tin của họ;
chính thái độ này vừa như muốn giới hạn quyền năng Đức Giêsu lại vừa muốn lung
lạc lòng tin của Gia-ia.
- Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi (36): Đức Giêsu đã
trấn an ông, bởi vì ông cần phải thắng vượt được nỗi sợ hãi của ông, để sẵn
sàng chứng kiến quyền lực thần linh của Đức Giêsu hiển lộ ra. Công thức “Đừng
sợ” ở những chỗ khác thường được dành cho các hoạt cảnh mạc khải (x. 6,50; Mt
28,5; Lc 1,13.30); ở đây công thức này cũng đang chuẩn bị một cảnh thuộc loại
đó. Tác giả Mc thường nhấn mạnh đến nỗi sợ hãi, kinh ngạc hoặc kinh hoàng nơi
những người đã chứng kiến các phép lạ (x. 1,27; 2,12; 4,41; 5,15; …), nhưng
những phản ứng này không đưa tới đức tin. Đức Giêsu khuyến khích Gia-ia đừng
chao đảo trong đức tin, bởi vì, như Đức Giêsu sẽ nói với người cha của đứa bé
động kinh, “cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (9,23).
- người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ (38): Tình trạng
ồn ào, với sự hiện diện của những người khóc mướn, dường như chứng tỏ đứa bé đã
chết thật rồi.
- nó ngủ đấy (39): Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, cái
chết thường được tượng trưng bằng giấc ngủ (Đn 12,2; Ga 11,13; 1 Cr 15,20.51;
Ep 5,14; 1 Tx 5,6.10). Bản LXX cũng thường dùng động từ “ngủ” để nói về cái
chết. Bản văn Mt 9,18 và Lc 8,53.55 cũng theo ý nghĩa ấy. Nhưng động từ ấy,
trong bản văn Mc thì còn có vẻ hàm hồ, lý do là ngay ở đầu, tác giả ghi nhận là
đứa bé chưa chết. Dù câu truyện có vẻ là cuộc phục sinh một em bé, biết đâu
chừng nó chưa chết, chỉ rơi vào tình trạng hôn mê thôi; và Đức Giêsu với cái nhìn
thấu suốt, đã nhận ra tình trạng ấy của đứa bé, nên đã nói như thế? (x. Mann;
NJBC). Khi đó, câu truyện này sẽ là truyện về một cuộc chữa lành ngược lại mọi
hy vọng và ngược lại sự lượng định khôn ngoan của những người có mặt (x. 5,43).
- Họ chế nhạo Người (40): Phản ứng mạnh mẽ của đám
đông được nhắc tới bằng câu này vừa cho thấy họ không tin vừa càng nêu bật tính
cách phi thường của những gì Đức Giêsu sắp làm. Cha mẹ em bé ở vào vị trí chứng
nhân cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dường như mọi người đều đồng ý là đứa bé
đã chết.
- nơi nó đang nằm: Đây là chi tiết của riêng Mc.
Câu này chứng tỏ Đức Giêsu vào phòng lần đầu tiên.
- Talitha koum (41): (Aram tơlitha’ qum). Chi tiết
này rất có thể chứng tỏ câu truyện đang được một người đã chứng kiến tận mắt kể
lại.
- đứng dậy và đi lại được (42): Hai động từ này
được dừng ở hai thì khác nhau. “Đứng dậy”, anestê, ở thì quá khứ aorist, diễn
tả một hành vi vừa làm xong, còn “đi lại”, periepatei, ở thì vị-hoàn
(imperfect), diễn tả một hành vi còn kéo dài.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở: Khung cảnh, các nhân vật ( 21)
Chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc trong câu mở đầu này:
đám đông qui tụ ở bờ Biển Hồ (x. 4,1), con thuyền (x. 4,1.36), vượt hồ (x.
5,1t).
* Hai truyện về chữa lành (22-42a)
Đức Giêsu đào tạo các môn đệ không những bằng lời nói mà còn
bằng các hành động nữa. Một vài hành động nổi bật hẳn, bởi vì Người chỉ cho
Phêrô, Giacôbê và Anrê tham dự thôi (5,35-43; 9,2-9; 14,32-42). Trong truyện
cho con gái Gia-ia sống lại, tác giả nói hai lần là Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ
ấy theo thôi (cc. 37.40). Họ không có nhiệm vụ nào cả; họ chỉ phải có mặt mà
trực tiếp chứng kiến một hoàn cảnh bế tắc về phương diện con người, nhưng cũng
thấy sự tin tưởng người ta đăt vào Đức Giêsu và thấy quyền lực siêu phàm của
Người.
Trong sự cố bà băng huyết được lành, họ đã thấy: bà hoàn toàn
không mong dựa vào sức lực con người nữa, nhưng bà vẫn không mất hy vọng, bà
đặt tin tưởng nơi Đức Giêsu (c. 28). Gia-ia thì hy vọng là nhận được sự trợ
giúp cho con gái ông đang hấp hối (c. 23). Nhưng trên đường về có Đức Giêsu
cùng đi, ông đã được tin chẳng lành. Đây là điểm gay cấn. Có tương quan nào
giữa Đức Giêsu và cái chết? Phải chăng Đức Giêsu có là thầy thuốc tài giỏi
nhất, cũng phải bó tay trước cái chết? Người đã kêu mời Gia-ia đừng sợ hãi và
thất vọng, nhưng hãy đứng vững trong niềm tin (c. 36). Giữa lời khuyên của các
sứ giả (c. 35) và lời khuyến khích của Đức Giêsu, ông đã nghe theo Đức Giêsu và
đi với Người đến với đứa con gái vừa tắt thở. Đức Giêsu không rút lại sự giúp
đỡ đã hứa và tiếp tục tiến bước, dù bây giờ là tiến bước đến với một người đã
chết.
Đến đây, Đức Giêsu muốn ba môn đệ chọn lọc có măt, không phải để
họ tích cực làm việc gì, nhưng để họ tham dự vào sự cố thật gần gũi. Khi Đức
Giêsu nói rằng em bé chỉ “ngủ” thôi, mọi người đều chế nhạo Người, bởi vì họ
chắc chắn em đã chết. Bây giờ, Người lại làm một cuộc phân rẽ nữa: chỉ cha mẹ
em bé và ba môn đệ được đi với Người vào gặp em bé đã hết. Họ đã chứng kiến
hành động hết sức đơn giản của Người: Người chỉ cầm lấy tay em và gọi em dậy.
Thế là chuyện không thể tin nổi đã xảy ra: em đứng dậy và đi lại được. Tác giả
còn ghi lại một chi tiết cho thấy Đức Giêsu rất tinh tế: Người bảo họ “cho con
bé ăn”.
* Kết: Phản ứng của dân chúng và lệnh của Đức Giêsu (42b-43)
Hành vi của Đức Giêsu đã làm nổ tung các giới hạn của mọi niềm
hy vọng, và cả những giới hạn của kinh nghiệm của các môn đệ. Họ phải nhìn
nhận: Đức Giêsu mạnh hơn sự chết. Các môn đệ không còn như trước nữa; một thực
tại mới vừa xuất hiện ở chân trời kinh nghiệm của họ. Đứng trước cái chết, các
môn đệ có thể trả lời với nó không chỉ bằng các tiếng than van rỗng tuếch,
nhưng bằng niềm tin tưởng vào quyền lực của Đức Giêsu. Họ không mạnh, nhưng họ
biết rằng Đức Giêsu rất mạnh.
+ Kết luận
Nơi ông Gia-ia và bà băng huyết, tác giả Mc cho chúng ta thấy
hai ví dụ tương tự về bước đi của người tín hữu và câu trả lời họ nhận được từ
Đức Kitô. Bên kia phép lạ thể lý, tác giả muốn giúp chúng ta cảm nhận được sự
sống viên mãn Đấng Cứu Thế ban cho người tín hữu, lúc này, khi Người đã được
tôn vinh bởi cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng là người được Đức Giêsu tách riêng ra để
trải nghiệm quyền lực của Người trên những hoàn cảnh gay go. Chắc chắn Đức Giêsu
không muốn chúng ta nhắm mắt khi đứng trước các giới hạn của khả năng con
người, hoặc chao đảo giữa ảo tưởng và thất vọng. Chúng ta sẽ phản ứng thế nào?
Là chứng nhân của Đấng là Chúa tể, chúng ta biết mời gọi người ta bình tĩnh giữ
vững niềm tin? Hay là chỉ hùa theo số đông, buông xuôi theo hoàn cảnh khó khăn
như một định mệnh khắc nghiệt?
2. Ông Gia-ia đã chứng tỏ một đức tin đáng phục. Bà băng huyết
cũng có những suy nghĩ và chọn lựa nói lên lòng tín thác. Bởi vì Đức Giêsu có
đó để khuyến khích, trấn an, mời gọi họ vững vàng đi tới. Niềm tin vào Đức
Giêsu hôm nay có giúp các môn đệ của Người hiên ngang tiến đi và làm điểm tựa
cho người khác trong hành trình đức tin của họ?
3. Cũng cần phải hiểu Đức Giêsu có uy quyền như thế, nhưng vì
sao Người đã không cho mọi người chết sống lại, tức là hiểu ý nghĩa của việc
Đức Giêsu cho em bé này sống lại, dù sau đó em sẽ lại chết. Bên kia phép lạ,
Đức Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Bên kia cái
chết thể lý, Người mời chúng ta hướng tới sự sống viên mãn.
4. Trong hành trình phục vụ, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đức
Giêsu, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bước, dù con đường trước mắt có vẻ đã khép
lại. Trong trăm công nghìn việc nhằm phục vụ hạnh phúc của con người, chúng ta
vẫn được mời học lấy cái nhìn tinh tế và ân cần của Đức Giêsu: “cho con bé ăn”.
Đức Giêsu thấy nhu cầu nhỏ bé của từng con người, dù bé nhỏ. Người không bao
giờ vì số đông mà quên từng cá nhân và coi thường nhu cầu của từng cá nhân.
31. Chú giải của Noel Quesson.
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên
bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức
Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: "Con bé nhà tôi gần
chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống". Đức
Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh
Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc
quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi
nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là
một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô "khẩn khoản nài xin,
khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông
ấy" và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là "người soi
sáng" hay là "người đánh thức".
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì
chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là
khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau
Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà
này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị "lâu rồi", hao tổn "cả
tài sản" mà "không thuyên giảm chút nào"; bệnh tình lại có phần
"tệ hơn". Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một
quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt
vọng!
Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ
khỏi".
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như
"ô nhơ" theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người
khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người
đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu
và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng
chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa
bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng "đã đến để tìm kiếm và cứu
chữa những gì bị hư mất". Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một
sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có
một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề
luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi
bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người
liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai sờ vào áo tôi vậy?" Các môn đệ
thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đụng
vào tôi?" Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều
đó".
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người
đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan ("nếu tôi sờ
được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh"), để bước vào một đức tin đích thực
là phải nhận biết con người Đức Giêsu - Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một
nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên,
nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng
của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà
đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta:
"Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi
hẳn bệnh".
Hai chữ "khỏi bệnh", "được cứu rỗi". Những
phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu "Sau biến cố Phục
sinh", là những điềm loan báo "sự cứu rỗi do đức tin" mà chúng
ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều
"huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội
đường đến bảo ông: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?".
Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: "ông
đừng sợ, chỉ cần tin thôi".
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai-rô đã
chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ
này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong
đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể
làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?". Đối với người đồng thời với
Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một
việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền
Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý
trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê
và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây
kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ
dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc
Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn
quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có
kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho
cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để
bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào
nhà và bảo họ: "Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ
đấy?". Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề
do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó
đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay
Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi
chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: "Talitha Kum".
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ
của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó
thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích.
Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy,
suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ "Talitha Kum".
Nghĩa là "Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!".
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều:
"Bé gái, đứng dậy". Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và
đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh":
"Hãy chỗi dậy", tiếng Hy Lạp là "egeiré", có nghĩa là “thức
dậy". Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này
có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với "ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng
trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật
sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được
hát trong nghi lễ rửa tội như sau: "Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày
đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi".
(Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là "người soi sáng",
"người đánh thức", đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa
tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này
không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống
vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng "chỗi
dậy", "thức dậy"? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi:
"Đứng lên", "chỗi dậy", "thức dậy", "sống
lại" không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi
là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa
thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết
việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh
này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn" kinh ngạc tột độ. Lệnh
Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có:
Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không
có đức tin. Cho người ta thấy "phép lạ" bề ngoài là vô ích, người ta
sẽ cho đó là "trò ma thuật", và Đức Giêsu không muốn người ta coi
Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn". Đó không chỉ là một
sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người "đi từ
cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người
sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn "Bánh hằng sống",
Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.