MỤC LỤC
1. Thử thách trong cuộc đời – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
2. Lời kêu xin.
4. Ai có thể trở nên một người như thế?
5. Nỗi kinh hoàng của con người
6. Đức tin trưởng thành.
7. Các con không có lòng tin sao? – Noel
Quesson.
8. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.
9. Giông bão.
10. Điều khiển.
11. Bão tố.
12. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy
Tuyền.
13. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.
21. Đức Giêsu dẹp
yên sóng gió Fiches Dominicales
22. Sóng gió cuộc đời _ Lm Trần Đức Phương
23. Đức Giêsu dẹp yên bão tố
24. Cầu nguyện - Mark Link
22. Sóng gió cuộc đời _ Lm Trần Đức Phương
23. Đức Giêsu dẹp yên bão tố
24. Cầu nguyện - Mark Link
1. Thử thách trong cuộc đời – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất
đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm.
Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới
xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu
mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế.
Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ
đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các
môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ
vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người
lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại,
nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi
làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ
bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau
tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành
được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình
yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai
cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người
tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả
vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ
muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ,
Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy
vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta
nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt
biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng
gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng
thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình
thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật
yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được.
Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với
sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ
Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết
mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân
cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông
vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm
tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách
giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng
ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng,
nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có
thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại
can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững
tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp
gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách
thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết
rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa
Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết
tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi.
Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta.
Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm
lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách
có cần thiết không?
Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt
lên trên thử thách?
2. Lời kêu xin.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy
các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị
sóng biển vùi lấp:
Lạy Thầy, xin cứu chúng con.
Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ
các ông:
Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn
ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.
Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường
và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một
tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ
mình Chúa mới có thể giúp đỡ.
Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có
còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu
chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ
các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả
lời rằng không.
Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng
khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay
không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.
Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành
khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một
cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy
đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo
giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.
Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi
gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi
cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:
Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết
mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.
Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng
tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất
mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:
Lạy Chúa xin giúp đỡ con.
Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những
cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương
tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy
không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục
xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay
trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới
kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có
thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn
đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời
chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh
đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những
câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.
3. Thầy không lo sao?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Các môn đệ gặp trận cuồng phong khi vượt biển.
Họ kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chửng. Bất lực trước cơn cuồng nộ của
sóng gió, họ đã đánh thức Đức Giêsu, xin Ngài giúp đỡ.
Cuộc đời nào tránh được mọi cơn giông tố?
Ai trong chúng ta cũng thích biển lặng sóng
yên, nhưng giông tố lại giúp ta nhận ra mình: yếu đuối, chao đảo, mong manh, bất
lực, không đủ khả năng đương đầu với bao thách đố.
Giông tố đưa ta đến với Đức Giêsu, và phó
thác cho sự trợ giúp của Ngài. "Chúng con chết mất!". Cái chết thể lý
và cái chết tinh thần. Cái chết của bản thân và của tập thể mình gắn bó. Cái chết
của những công trình mình xây dựng.
Chúa là sự sống, sao Chúa lặng yên để chúng
con chịu chết? Sao Chúa để sự dữ tung hoành trên thế giới? "Mà Thầy không
lo sao?". Một lời trách móc?
Nhiều khi chúng ta cũng trách Chúa như vậy.
Có vẻ Chúa quá vô tư, lãnh đạm, hững hờ. Chúa yên ngủ khi đời ta gặp cơn giông
tố. Đức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: "Câm đi! Im đi!".
Gió ngừng ngay và biển lặng xuống.
Sự lặng đi của biển đưa đến sự trầm lặng của
lòng. Nỗi kinh hoàng tan biến, nỗi sợ chết cũng bay xa. Nhưng chúng ta không
đòi phép lạ biển lặng trong đời. Điều quý hơn, đó là lòng ta được lặng. Lòng lặng
không phải vì biển lặng, mà lặng ngay giữa lúc biển động. Đó là một phép lạ lớn
hơn nhiều, và đó cũng là thái độ Chúa muốn ta phải có.
Tại sao các anh lại kinh sợ? Sóng gió làm
gì được các anh khi Thầy đang cùng các anh ở chung một con thuyền? Đức Giêsu
đòi các môn đệ không được khiếp sợ. Thầy đã làm bao phép lạ trước mắt các anh,
vậy mà các anh vẫn chưa có lòng tin ư? Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng
như vậy.
Đức tin chỉ lộ ra khi biển động. Và có thể
nói, biển động giúp hình thành đức tin. Đức tin lớn lên ít nhiều sau mỗi lần biển
động.
Thuyền đời Kitô hữu chẳng bao giờ êm ả. Nó
chỉ êm ả khi về tới bến. Nhưng lòng ta lại phải giữ cho bình yên, ngay cả khi
Ngài không thức dậy, dù ta đã gọi Ngài nhiều lần giữa tiếng sóng gào thét. Ta
tin rằng Ngài sẽ cứu ta theo cách của Ngài.
Gợi Ý Chia Sẻ
Điều gì khiến bạn sợ hơn cả trong cuộc sống?
(Sợ thất nghiệp, sợ thi rớt, sợ không được yêu, sợ mất uy tín, hay sắc đẹp...).
Sự sợ hãi có làm đời bạn bớt vui không? Có làm bạn bớt tự do không?
Khi bạn bị căng thẳng, lo âu, mất bình an,
bạn thường làm gì để trở lại bình thường? Cầu nguyện có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin
cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin
cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho
con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm
nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của
con và khuôn mặt thật của Chúa.
4. Ai có thể trở nên một người như thế?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tng’ –
Charles E. Miller)
Chiếc tàu Titanic được chào hàng như một
chiếc tàu không bao giờ chìm. Và sau đó là đụng một tảng băng ngay trong cuộc
hành trình đầu tiên của nó, chiếc Titanic đã chìm xuống đáy của Đại Tây Dương với
hầu hết những người đi trên con thuyền đó trong vài phút. Đại dương quyền năng
hơn bất cứ một con tàu nào, đã nuốt trọn con tàu Titanic giống như nó đã nuốt một
hộp cá mòi vậy.
Đó là một mầu nhiệm sâu xa về biển cả, và
đó không có gì là ngạc nhiên về quyền năng của nước được xem là một thuộc tính
của thần linh. Trong sách Gióp chính Thiên Chúa đã làm chứng về quyền năng thần
linh của Ngài, bằng việc biểu dương quyền năng của Ngài là chủ tể của nước sâu.
Những tông đồ là những người đánh cá, hơn ai hết họ không cần ai nói cho họ biết
về việc phải sợ hãi cái vẻ bề ngoài đáng sợ của biển Galilê. Thình lình, tai họa
có thể xảy ra một cách bất thường. Biển thì ở 685 bộ bên dưới mực nước biển và
bao quanh bởi những ngọn núi. Với một làn không khí lạnh thổi xuống từ những ngọn
núi hầu như nhanh chóng biến đổi làn nước đại dương thành những con sóng nguy
hiểm cao đến bảy hoặc tám bộ.
Thật chính xác những gì đã xảy ra vào buổi
chiều hôm đó, khi Chúa Giêsu vào thuyền của các môn đệ ở trên biển Galilê. Đó
giống như một ngày của sáng tạo, những yếu tố tự nhiên đang chờ đợi khoảnh khắc
khi mà Chúa là chủ tể của chúng xác quyết quyền năng và tỏ hiện sự thần linh của
Ngài. Sau khi Chúa Giêsu làm cho biển bình yên bởi những lời của Ngài, các tông
đồ đã kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Người này là ai mà làm cho gió biển phải vâng lời?”
Gió và biển đã biết Chúa Giêsu là ai và cả
chúng ta cũng như thế. Chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi của các tông đồ. Nếu
chúng ta không có đức tin, chúng ta xem Người một cách giới hạn bởi xét đoán của
con người nhưng bởi đức tin mà chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng
Cứu Độ. Vì Chúa là Đấng cứu độ của chúng ta, Ngài ước ao giải thoát chúng ta khỏi
những tai họa của đời sống trên biển. Sự sợ hãi những căn bệnh như ung thư hoặc
Siđa, lo lắng về tận cùng của tương lai một cách bất an, những lo lắng về con
cái trong một xã hội say sưa và hỗn tạp, sự không vững chắc hay gãy đổ của đời
sống hôn nhân, sự khủng hoảng hay sự cô độc, bị bỏ rơi, sự khủng khiếp mà viễn
cảnh của sự chết có thể phát sinh.
Trong lời tuyên xưng Thánh Thể chúng ta đã
kêu lên: “Bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta”.
Sau kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi
sự dữ và ban cho chúng con bình an trong ngày hôm nay, bởi lòng thương xót Chúa
sẽ giữ gìn chúng con khỏi tội lỗi và bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu”. Lời nguyện
này muốn nói lên lời diễn tả đức tin của chúng ta nhưng cấp độ bình an và quang
đãng của chúng ta không tùy thuộc và sự diễn tả đức tin của chúng ta nhưng ở
chiều sâu của nó. Đức tin của chúng ta phải sâu như biển cả vậy.
Khi chiếc Titanic chìm xuống, số người bị
lâm nạn đã tăng lên gấp bội bởi vì thuyền đã không trang bị đủ những thuyền cứu
sinh. Chúng ta còn được hơn thuyền cứu sinh cứu nữa. Chính Chúa Giêsu đã cứu
chúng ta khi chúng ta bị chìm trong biển cám dỗ sâu nhất của cuộc đời. Chúng ta
có con người của Chúa Giêsu Kitô, luôn luôn hiện diện với chúng ta trong Giáo Hội
và hướng về Người, chúng ta có thể cầu nguyện một cách tin tưởng. Trong cơn bão
trên biển hồ, các tông đồ đã phàn nàn: “Lạy Thầy chúng con sắp chết mà Thầy
không quan tâm đến sao?” Với đức tin chúng ta biết rằng, không có vấn đề gì với
Chúa Giêsu. Vấn đề là sự cứu độ của chúng ta không đến từ những lời nói, tuy
nhiên ở nơi. Lời quyền năng của Ngài: “Hãy yên lặng, hãy im đi”. Sự cứu độ của
chúng ta đến từ hy tế nơi thánh giá. Đức tin của chúng ta là: “Lạy Chúa bởi
thánh giá của Người, và sự Phục Sinh của Người xin giải thoát chúng con, Người
là Đấng cứu độ chúng con”.
5. Nỗi kinh hoàng của con người và sự yên tĩnh
của Thiên Chúa – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giai thoại bão táp yên lặng là một cơ hội tốt
cho những ai ngã theo khuynh hướng “giải huyền thoại” trong phúc âm (khuynh hướng
này ngày nay đã giảm). Để giản lược biến cố vào một sự kiện tự nhiên, họ chỉ cần
tưởng tượng và rồi sau khi đã chiều theo sức ép của trí tưởng tượng, quả quyết
rằng bão táp tự nó ngưng lại, vừa lúc Đức Giêsu ra lệnh cho biển; và như thế là
do tình cờ. Có một loại não trạng tự gọi là khoa học, chủ trương ngay từ đầu chối
bỏ mọi can thiệp của Thiên Chúa trong vũ trụ và giải thích một số sự kiện bằng
một định kiến như thế thật dễ dàng. Trong trường hợp này chúng ta có thể bám
vào lời này: Ở khởi điểm của truyền thống Phúc m, có thật là biến cố, nhưng liền
được giải thích trong môi trường của Giáo Hội sơ khai, dựa trên một não trạng
Kinh Thánh và một niềm tin vào sự Sống Lại” (X.L. Dufour, Etudes d’Evangile,
Paris, 1965).
Ưu tư của Giáo Hội sơ khai là minh chứng: Đức
Giêsu có cùng một quyền năng trên tạo vật như Thiên Chúa (não trạng Kinh Thánh)
và dẫn đưa người tín hữu đến một niềm tin nơi Đức Giêsu Phục Sinh, một niềm tin
trọn vẹn, truyền giáo (Hãy sang bên kia bờ) và có khả năng đương đầu với mọi
nghịch cảnh.
Giải quyết xong điều trên, câu chuyện bão
táp yên lặng gợi cho chúng ta một vài suy nghĩ rất đơn sơ:
1) ‘Thưa Thày, chúng con chết mất mà Thày
không quan tâm đến sao?’
Lời trách móc này cho thấy rõ sự mâu thuẫn
giữa nỗi kinh hoàng của các môn đệ và sự yên tĩnh của vị Thày. Một bên sóng gió
nguy hiểm, một bên Đức Giêsu vẫn ngủ. Biển hồ Giê-nê-sa-rét, như các biển hồ được
núi đồi bao phủ khác, thường có những cơn bão táp đột ngột và dễ sợ. Con thuyền
bị sa vào một trong các cơn bão táp như thế. Chúng ta hiểu Đức Giêsu sau một
ngày trọn rao giảng mệt nhọc, đã ngủ thiếp đi. Các môn đệ không hiểu được sóng
gió mạnh mẽ như thế, lại tràn ngập vào thuyền mà không làm cho Ngài tỉnh dậy. Họ
không mường tượng được rằng: chỉ duy có sự hiện diện của Đức Giêsu với họ, đã
là một sự bảo đảm an toàn vững chắc.
Họ có lỗi vì đánh thức thày dậy không? Chắc
là không. Đó chỉ là phản ứng bình thường của con người hoảng hốt, sự yếu hèn của
họ (nhưng họ chưa có niềm tin sau Phục Sinh) ở chỗ họ không đặt sự an toàn của
mình nơi con người Đức Giêsu. Chúng ta cũng gặp phải những giây phút thử thách
nghiêm trọng. Chúng ta không có lỗi khi kêu đến Thiên Chúa, khi đánh thức Người
dậy. Chúng ta không thể chế ngự một số âu lo tự nhiên. Ít là chúng ta nên nhớ Đức
Giêsu đang ở với chúng ta để giữ vững niềm tin của chúng ta.
2) Hình ảnh con thuyền gợi lên con thuyền
Giáo Hội, theo như ngôn từ của các thánh phụ.
Trong thời đại của chúng ta, cũng như trong
mọi thời đại, Giáo Hội tựa con thuyền bị lay động và cản trở mạnh mẽ do các lầm
lạc, bách hại, thao túng của thế gian. Một vài lầm lỗi hình như xâm chiếm cả
Giáo Hội. Những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. Điều này có lẽ
tạo nên nỗi lo âu lớn nhất cho nhiều người ưu tú trong nhóm môn đệ Đức Kitô.
Hãy nhớ rằng chỉ một lời của Chúa vào lúc ngài muốn, có khả năng cứu thoát tất
cả. Ngài nói: “Im đi….”, tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Điều quan trọng là
hãy giữ niềm tin cho sống động và mạnh mẽ. ‘Các con không có đức tin ư?’.
6. Đức tin trưởng thành.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
John Newton là con trai một đại uý hải quân
người Anh. Khi John lên 10 tuổi, mẹ cậu qua đời. Từ đó cậu bé thường theo bố đi
biển. Nhờ vậy mà cậu rành rẽ đường lối ngoài biển khơi. Tuy nhiên vào năm cậu
17 tuổi, cậu bé bất mãn với bố. Cậu bỏ thuyền ra đi lao vào cuộc đời gió bụi.
Cuối cùng cậu nhận được việc làm trên chiếc tàu hàng buôn nô lệ từ Phi Châu đến
Mỹ Châu. Cậu thăng quan tiến chức rất lẹ và chẳng bao lâu đã trở nên thuyền trưởng.
Chẳng bao giờ Newton bận tâm suy nghĩ đến việc buôn nô lệ là đúng hay sai. Cậu
chỉ làm công việc của mình nhằm mục đích kiếm tiền mà thôi. Thế nhưng một biến
cố quan trọng đã xẩy đến thay đổi tất cả cuộc đời cậu.
Một đêm nọ một cơn bão dữ dội xuất hiện
trên mặt biển. Sóng dâng cao như thác núi xô đẩy và quay vòng chiếc thuyền của
Newton như món đồ chơi trẻ con. Mọi người trên thuyền vô cùng kinh khiếp. Lúc bấy
giờ bỗng dưng Newton buột lời cầu nguyện. Đây là điều cậu không hề làm kể từ
khi rời khỏi thuyền của bố cậu, cậu kêu to: “Lạy Chúa, nếu Ngài thương, xin cứu
vớt chúng con, con nguyện sẽ mãi mãi làm nô lệ cho Ngài”.
Chúa nhậm lời cầu xin của cậu và cứu vớt
con thuyền. Thế rồi sau khi vào được bờ, Newton đã giữ lời hứa và bỏ nghề buôn
nô lệ. Sau đó cậu đi tu, và một thời gian sau trở thành mục sư coi sóc một nhà
thờ nhỏ ở Olney, nước Anh. Ở đây vị mục sư trở nên một nhà giảng thuyết kiêm
nhà soạn thánh ca lừng danh. Một trong những bản thánh ca cảm động nhất mà
Newton đã sáng tác là bản nhạc ca ngợi Chúa về cuộc trở lại của cậu.
Giống như Newton, các Tông đồ cũng gặp phải
bão biển dữ dội. Giống như Newton, các ông đã kêu to lên cùng Chúa: “Xin hãy cứu
chúng con”. Giống như Newton, các ông cũng đã được biến đổi hoàn toàn sau khi
Chúa nhậm lời cầu xin. Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Ông này là ai, mà cả
đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
“Ông này là ai?”. Đây chắc chắn là một câu
hỏi căn bản. Dĩ nhiên câu trả lời đã có sắn trong bài đọc 1 và trong Thánh Vịnh
đáp ca hôm nay. Bài đọc 1 mô tả Chúa là Đấng Tạo Hoá, chính Ngài đã tạo dựng biển
cả, đã đặt ranh giới cho chúng và truyền lệnh cho chúng tuân theo ý muốn của
Ngài. (x.G 38,1.8-11). Thánh Vịnh đáp ca là lời kêu cầu Chúa của những thuỷ thủ
gặp bão biển. Và Chúa đã ra tay cứu họ. Họ vui sướng, vì trời yên biển lặng. Và
Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ. Họ tạ ơn Chúa, vì Chúa từ nhân (x. Tv 107).
Trong cả hai bài đọc Cựu Ước này, chúng ta
thấy Chúa đang thi hành chủ quyền của Ngài trên sóng gió. Ngài truyền lệnh cho
chúng và chúng tuân phục Ngài. Đây cũng là điều chúng ta thấy Chúa Giêsu đang
thực hiện trong Tin Mừng hôm nay.ngài đang biểu lộ chủ quyền của Ngài trên sóng
gió. Ngài truyền lệnh và chúng tuân phục ngay. Như thế các bài đọc hôm nay cho
thấy Thiên Chúa trong Cựu Ước và Đức Giêsu của Tân Ước là một. Ngài đang thực
thi quyền năng của một Thiên Chúa. Thánh Marcô không chỉ muốn nói lên quyền
năng của Chúa mà còn muốn khẳng định Ngài chính là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ,
và mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn tin vào Ngài.
Các môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các
ông đã biết Chúa quyền năng, có thể làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi
lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là
Chúa. Các ông chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Chúng ta thường nghĩ mình có đức
tin, nhưng trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng
sợ.
Đời tự nó đã là khó. Đi trong cuộc đời với
niềm tin theo cách Chúa dạy lại càng khó hơn. Chúng ta đã vâng lệnh Chúa mà nhổ
neo ra khơi, đã tin tưởng vì có Chúa ở đàng lái, ở vị trí hoa tiêu, nhưng có thể
đã có lần chúng ta đau đớn vì Chúa lại ngủ giữa phong ba. Điều đó có thật, là
kinh nghiệm muôn đời của những ai tin Chúa. Niềm tin không phải là giải đáp dễ
dãi, không miễn trừ những khó khăn. Cần phải dày công học tập mới chấp nhận được
thực tế đó. Người có niềm tin trưởng thành là người “giữa phong ba khốn cùng
ngàn nỗi vẫn luôn thành tín ngợi khen Chúa là thuẫn đỡ, là khiên che, là đồn luỹ”.
Phải dám ra đi dù trời đã về chiều, dù có thể gặp phong ba. Nếu không thì chẳng
bao giờ sang được “bờ bên kia” của cuộc sống. Chúa có thể ngủ, nhưng Chúa luôn
thức vào lúc quyết định để trợ giúp những ai bằng lòng để cho “Chúa ở đằng
lái”.
Bão lớn, nước sắp đầy thuyền thì ai mà
không sợ? Vậy mà Chúa còn trách: “Sao các con sợ thế, các con không có đức tin
ư?”. Các môn đệ lâm nguy thật sự. Trong hoàn cảnh đó, chẳng những nên kêu cứu
Chúa, mà đúng là phải kêu cứu Chúa. Nhưng đừng kêu cứu với tâm trạng sợ hãi đến
tuyệt vọng như vậy. Phải kêu cứu nhưng hãy kêu cứu trong niềm cậy trông tín
thác tuyệt đối. Lời trách cứ của Chúa Giêsu khai mở cho chúng ta một kinh nghiệm
đức tin quý báu: niềm tin vững vàng làm chúng ta thêm can đảm lắm mới có thể
tin. Vì tin Chúa, thực tế chính là “ trao thân gởi phận” cho Chúa. Người tin
Chúa thực sự thì không sợ, còn người sợ thực sự thì không tin. Trong rất nhiều
trường hợp, “yếu tin” đồng nghĩa với “hèn tin”!
Câu hỏi của các môn đệ sau khi được Chúa cứu
nguy: “Ngài là ai mà cả gió lẫn biểu cũng đều vâng lệnh?” phải là câu hỏi căn bản
cho những ai muốn tin và muốn đạt tới niềm tin trưởng thành vào Chúa Giêsu. Phải
trả lời cho thật, cho đúng, cho sâu và sát với hoàn cảnh đời mình. Tin không phải
chỉ là xác tín về một chân lý lý thuyết cho thoả trí óc, nhưng là “trao thân gởi
phận” cho Chúa, nên phải biết rõ Chúa là ai, đáng tin đến mức nào. Thánh Phaolô
là chứng nhân đức tin kiệt xuất, đã trải qua bao gian nan mà vẫn tín trung với
Chúa, vì thánh nhân “biết mình đã tin vào ai” (2Tm 1,13). Nếu thực sự muốn tin,
chúng ta cũng phải biết: Chúa Giêsu Kitô là ai? Tin Mừng cho chúng ta biết:
Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Chân lý ấy quá đơn sơ, chúng ta đều đã biết.
Nhưng có thể chúng ta mới biết bằng “cái đầu”, bằng trí óc, chứ chưa biết bằng
“con tim”, bằng lòng yêu mến. Tin cuối cùng là yêu, là trung thành gắn bó với
Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Vậy lòng ta cần phải biết Ngài là
Chúa, nghĩa là không chỉ biết rằng Ngài quyền trên cuộc đời mình, Ngài là Chúa
của mình. Khi lòng ta chưa biết điều đó, thì dù không nói hay không dám nói ra,
tự thâm tâm ta vẫn nghĩ: Lời Chúa chói tai quá! Lệnh Chúa truyền khó khăn qúa!
Và sẽ bỏ đi như người Do Thái, vì thầy tin Chúa là phải là phiêu lưu và quá khó
khăn! Người có đức tin trưởng thành là người “biết điều”: họ nhận ra Đấng mời gọi
là Đấng có quyền, nên họ dấn thân theo lời mời gọi của Ngài vì đó là đòi hỏi của
tình yêu.
Hãy vận dụng đức tin để dấn thân vào đời, lấy
sức chèo chống, ngăn chận sự ác đang hoành hành. Hãy chạy đến Chúa và phó thác
cho Ngài mọi lo lắng của cuộc đời, kiên trì tin tưởng Chúa sẽ cứu thoát chúng
ta.
7. Các con không có lòng tin sao? – Noel
Quesson.
Một sĩ quan người Anh cùng gia đình xuống tầu
đi tới một miền xa lạ. Đang lênh đênh trên biển thì bỗng có giông bão khủng khiếp
ập tới. Hành khách trên tầu cuống cuồng lo sợ, nhất là bà vợ của viên sĩ quan.
Bà thấy ông vẫn bình thản thì bực bội và trách ông không quan tâm đến nỗi lo lắng
của bà và các con. Ông này ra khỏi phòng một lát rồi trở lại, ông nghiêm nét mặt,
rút kiếm ra dí vào ngực vợ. Bà vợ hơi tái mặt, nhưng lát sau bà phá lên cười.
Viên sĩ quan hỏi:
Thấy mũi kiếm sắp đâm vào người mà em không
sợ sao?
Việc gì em phải sợ? Em biết anh vẫn thương
em mà.
Thế tại sao em bắt anh phải sợ khi anh biết
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta? Và cơn bão này cũng ở trong bàn tay Thiên
Chúa?
Chúng ta thường nghĩ mình có đức tin, nhưng
trong thử thách, khi cần biểu lộ lòng tin thì nhiều khi ta lại hoảng sợ. Chính
vì thế, Chúa nhắc bảo ta luôn nhớ cầu nguyện để xin ơn tăng cường đức tin. Các
môn đệ ở chung một thuyền với Chúa, các ông đã biết Chúa có quyền năng có thể
làm nhiều phép lạ, nhưng khi sóng gió nổi lên, các ông vẫn hoảng hốt. Các ông
quên rằng dù thức hay ngủ, Chúa vẫn là Chúa. Các ông chưa tin vào Chúa hoàn
toàn. Chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa làm ra vẻ ngủ say để thử lòng tin của các
môn đệ. Nhưng cũng có thể Chúa ngủ thực, vì Chúa cũng mang bản tính con người
như ta. Chúa mệt mỏi vì bao công chuyện dồn dập mấy bữa qua: đi lại, giảng dạy,
chữa bệnh cho bao nhiêu người. Sự mệt mỏi đã đưa Chúa vào giấc ngủ say.
Có những bất trắc, những tai nạn, rủi ro xảy
tới cho đời ta, ta kêu cầu hoài mà không thấy Chúa đáp cứu. Những nhà duy vật
thời nay thường nói: “Thiên Chúa đã chết”. Đôi khi, chính chúng ta là tín hữu
Kitô, cũng có cảm tưởng như vậy. Chúng ta bị đe dọa, bị xô đẩy, bị chèn ép,
chúng ta bất lực mà Thiên Chúa cứ làm thinh cho thiên nhiên hoành hành, cứ để
cho bạo động xảy tới, xem ra Thiên Chúa đang ngủ quên.
Tuy hoảng sợ, các môn đệ cũng còn chút tin
tưởng ở Chúa, các ông tới đánh thức Chúa: “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi mà
Thầy không quan tâm sao?”. Chúa thức dậy, đứng lên, quát nạt sóng gió và sóng
gió trở lại yên tĩnh tức thì.
Sau khi trời yên biển lặng, Chúa bảo các
môn đệ: “Sao các con sợ hãi? Các con không có đức tin ư?”. Chúa trách các môn đệ
thiếu lòng tin. Không tin rằng có Chúa đang ở với mình trong thuyền. Không tin
rằng Chúa vẫn yêu thương săn sóc các ông. Nhiều khi chúng ta còn đáng trách hơn
các môn đệ, vì những lần chúng ta than thân trách phận, oán trời, trách Chúa:
Sao Chúa để chúng ta đau khổ, kêu mãi kêu hoài mà Chúa vẫn làm ngơ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để
chúng con lướt thắng mọi thử thách trên đường đức tin. Xin giúp chúng con luôn
nhận ra Chúa trong những biến cố cuộc đời để chúng con an tâm phục vụ Tin Mừng.
Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (Tv 23,4).
8. Mời gọi qua sông – Jean-Yves Garneau.
Chúng ta phải liên lỉ băng qua bờ bên kia.
Thường thường biển động. Nhưng Chúa Kitô ở với chúng ta. Việc băng qua hồ
Tibêriát, như thánh Marcô kể lại, mang một ý nghĩa tượng trưng, cho ta thấy một
kinh nghiệm quan trọng và sâu sắc mà các môn đệ đã có được. Kinh nghiệm này có
một giá trị gương mẫu đối với chúng ta. Thường thường chúng ta phải sống những
kinh nghiệm tương tự.
Sang bờ bên kia.
Chúa Giêsu bảo bạn hữu của Chúa sang bờ bên
kia. Vấn đề không phải chỉ đơn giản là đi từ nơi này đến nơi khác, nhưng là sống
một biến cố sẽ giúp họ lớn lên. Lúc đó họ chưa biết được điều này.
Nhiều lần cả chúng ta nữa, chúng ta đứng
trước một tiếng gọi của Chúa Kitô. Gọi vươn lên, gọi sống đời sống Kitô hữu của
chúng ta mãnh liệt hơn, gọi dấn thân một cách mới mẻ… Nếu chúng ta đáp trả tiếng
gọi ấy chúng ta không biết trước những gì sẽ xảy ra cho mình hoặc nó sẽ đưa
mình đến tận đâu.
Từ biển lặng đến sóng gió.
Không chút do dự các tông đồ chấp nhận qua
bờ bên kia, thậm chí họ còn có sáng kiến chuẩn bị nữa. Lúc khởi hành, mọi sự diễn
ra suôn sẻ. Biển hồ yên lặng. Họ là những tay chèo giỏi. Chúa Kitô nằm ngủ ở mạn
thuyền. Rồi gió nổi lên. Đó là giông bão. Các môn đệ hoảng hốt. Từ đáy lòng họ
la lên: “Lạy Thầy, chúng con chết mất!”.
Sự kiện này có thể áp dụng vào chính cuộc sống
của chúng ta. Nhiều lần chúng ta phải đáp lại những lời mời gọi của Thiên Chúa.
Không thể nghi ngờ thiện chí của chúng ta: Như các môn đệ, chúng ta thưa vâng
trước những tiếng gọi này. Nhưng việc thực hành những gì tiếng gọi ấy thường có
vẻ khó khăn và gắt gao hơn ta tưởng. Các khó khăn nhất thiết sẽ xảy đến. Chúng
rất thường nhiều hơn và lớn hơn điều ta dự tính.
Thế giới này trong đó chúng ta sống cũng giống
như mặt biển động vậy. Sống đạo trên một mặt biển như thế không dễ dàng, không
đơn giản! Không dễ dàng lớn lên về mặt Kitô hữu trong một xã hội như xã hội của
chúng ta, đang loan truyền đủ mọi thứ khác trừ sứ điệp của Chúa Kitô và lôi cuốn
đến mọi nơi khác trừ những con đường của Tin Mừng. Lúc đó ta bị cám dỗ buông
xuôi hết. Trở thành những kẻ không dấn thân. Không đi nhà thờ nữa, chỉ còn sống
cho mình, chỉ còn mang tên là tín hữu mà thôi. Người ta vớt vát cho bộ mặt bên
ngoài nhưng trong lòng thì không còn gì nữa.
Phải làm một hành vi đức tin.
Giữa cơn giông tố, các tông đồ có ý tưởng rất
hay là quay về với Thầy của mình và cầu cứu Ngài. Kết quả thật lạ lùng. Chúa
Kitô ra lệnh cho biển. Biển lặng như tờ. Ngài trách họ: “Sao lại sợ? Tại sao
các con không có lòng tin?”. Phản ứng của các môn đệ có thể làm chúng ta ngạc
nhiên. Thay vì kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con tin”, họ lại tự hỏi: “Ngài là ai
mà ngay cả đến phong ba và biển cả cũng phải vâng phục Ngài?”. Không phải một sớm
một chiều mà ta có được một niềm tin vững chắc và sâu xa. Cần thời gian. Phải
trải qua nhiều kinh nghiệm trong cuộc đời làm Kitô hữu.
Ba điểm cần nhớ.
Những gì cần nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay
có thể tóm tắt trong ba điểm.
Một là: đừng sợ qua bờ bên kia. Đây là một
điều kiện phải có để lớn lên. Khi cứ ở lại mãi trên bờ yên tĩnh của thế giới bé
nhỏ an toàn của mình, người ta không bao giờ trở thành một Kitô hữu biết nhìn
xa thấy rộng được Chúa Kitô luôn luôn mời gọi đi xa hơn, cao hơn.
Hai là: đừng ngạc nhiên về những khó khăn gặp
phải khi muốn sống một cuộc đời Kitô chân chính. Biển động là thành phần của cuộc
sống ấy, đó là dịp để tiến bộ.
Ba là: không nghi ngờ về sự hiện diện và
quyền năng của Chúa Kitô. Ngài ở với chúng ta. Cùng với Ngài, chúng ta luôn
luôn tới được những bến bờ khác. Chính Ngài đã đi qua cái chết… và đã tới bờ của
một cuộc sống mới. Những lần chúng ta phải đi từ bờ bên này sang bờ bên kia
trong cuộc sống hằng ngày đó là chúng ta được chuẩn bị cho cuộc vượt qua cuối
cùng.
Coi chừng những cuộc sống Kitô quá yên ổn,
quá an toàn. Chúa Kitô chờ đời chúng ta trên biển động. Thường thường đó chính
là nơi mà Ngài tự mặc khải cho chúng ta cách mạnh mẽ. Và chính ở đó, ở ngoài
khơi mà rất thường đức tin của chúng ta có thể được thức tỉnh hơn hết và có thể
lớn lên.
9. Giông bão.
Qua hình ảnh mặt biển dạy sóng Chúa Giêsu
muốn nói với chúng ta những gì?
Mặt biển dạy sóng trước hết là hình ảnh của
tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, nhiều lúc chúng ta đã cảm thấy:
những quyến dũ bất chính, những đam mê mù quáng, những cám dỗ nặng nề, quả thực
đã trở nên như những ngọn sóng ngầm. Những quyến dũ ấy, những đam mê ấy, những
cám dỗ ấy như muốn đè bẹp con thuyền nhỏ bé là tâm hồn chúng ta, nhận chìm nó
xuống đáy nước tội lỗi, nếu như Chúa Giêsu, Đấng có quyền làm cho gió yên biển
lặng đã không đến can thiệp và giúp đỡ chúng ta. Vì thế chúng ta hãy kêu xin
Chúa như các tông đồ ngày xưa:
Lạy Chúa, xin hãy cứu giúp chúng con không
thì chúng con chết mất.
Mặt biển dạy sóng còn là hình ảnh của thế
gian.
Đúng vậy, thế gian là một mặt biển dạy
sóng, trong khi đó Giáo hội chỉ là một con thuyền nhỏ bé, mà người cầm lái, là
Đức Kitô thì dường như lại đang ngủ say. Những phong ba bão táp và những ngọn
sóng trào dâng là những cấm cớ bách hại, là những lập trường bài bác vu khống
và chụp mũ, khiến cho chúng ta, những môn đệ của Chúa cũng phải bàng hoàng kinh
hãi, nếu không muốn nói là đã đi đến chỗ tuyệt vọng. Tại sao chúng ta lại sợ
hãi? Phải chăng là vì yếu đức tin. Chúng ta nên nhớ rằng, tình thương và sự
quan phòng của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Chỉ một cái nhìn của Ngài cũng đã đủ
để làm cho sóng yên biển lặng, tất cả trở lại trật tự.
Kinh nghiệm của Giáo hội, cũng như của bản
thân mỗi người cũng làm chứng như vậy. Điều quan trọng, chúng ta phải luôn xác
tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta. Mặc dù đôi lúc Ngài dường như có vẻ
ngủ say, nhưng thực sự thì tình thương của Ngài luôn canh giữ chúng ta. Và một
khi Ngài đã ở với chúng ta thì không ai có thể chống lại chúng ta.
Thánh nữ Cartarina Sienna ngày kia đã hỏi
Chúa, sau khi đã thoát khỏi sự cám dỗ nặng nề:
Lạy Chúa, Chúa ở đâu khi con phải chiến đấu.
Chúa Giêsu đã trả lời:
Ta ở bên cạnh con để giúp đỡ con.
Chính vì thế, giữa những gian nguy thử
thách, giữa những cám dỗ đe dọa, chúng ta hãy biết chạy đến và kêu van:
Lạy Chúa, xin cứu chúng con, không thì
chúng con chết mất.
Điều quan trọng là làm thế nào để Chúa
Giêsu thực sự ở trong chúng ta với tất cả tình thương của Ngài?
Tôi xin đưa ra một pháp đó là hãy xa tránh
tội lỗi. Vì tội lỗi sẽ đẩy chúng ta xa lìa tình Chúa và làm dấy lên trong tâm hồn
cũng như xã hội một trận cuồng phong thảm khốc.
Chính vì thế muốn trấn áp cuồng phong, muốn
tái lập trật tự, chúng ta phải biết hãm dẹp những dục vọng xấu xa, những khuynh
hướng tội lỗi. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thành công, chúng ta hãy bắt chước các
môn đệ đã kêu lên với Chúa giữa cơn phong ba bão táp:
Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con, không thì
chúng con chết mất.
10. Điều khiển.
Rufus Jones có thuật lại câu chuyện sau
đây: “Một cậu bé đang chơi trên boong tàu, khi đó một cơn bão tố đang nổi lên.
Một hành khách tiến lại hỏi cậu bé: Này cháu, cháu không sợ cơn bão đang đến
hay sao? Cậu bé trả lời: “Không, cháu không sợ. Bởi vì cha cháu đang điều khiển
con tàu”.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại một câu
chuyện xảy ra trong một cơn bão tố. Nhưng nó chỉ giống ở khung cảnh mà lại khác
hẳn về nội dung. Nỗi sợ hãi của các môn đệ hoàn toàn trái nghịch với lòng tín
thác của cậu bé trong câu chuyện của Jones, một lòng tín thác xuất phát từ một
niềm tin vững mạnh.
Không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nghe
Chúa Giêsu quở trách: “Tại sao các con nhát gan thế? Các con vẫn chưa có lòng
tin sao?” Chúng ta cần nhớ lại lời Kinh Thánh đã chép: “Đức tin là bảo đảm cho
những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”.
Chúng ta không luôn luôn thấy những đối tượng
đức tin của chúng ta, đặc biệt khi niềm tin của chúng ta bị che phủ bởi nỗi sợ
hãi và lo âu xao xuyến, và nhất là khi chúng ta bị những cơn giông tố trong cuộc
đời vùi lấp một cách phũ phàng. Trong những cơn thử thách mãnh liệt như vậy,
chúng ta hãy đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác vào chính Thiên Chúa. Vào thế kỷ
19, tiểu thuyết gia kiêm thi sĩ người Tô Cách lan George MacDonald đã viết:
“Con người hoàn hảo về đức tin là kẻ có thể đến với Thiên Chúa trong sự trống rỗng
về cảm giác, không có một chút cảm hứng và an ủi nào, chỉ có những thất bại nặng
nề, bị bỏ rơi, bị quên lãng hoàn toàn, và vẫn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa,
Chúa là nơi con náu ẩn, là thành lũy che chở con”.
Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa là Trạng Sư và là
bạn thân thiết của con. Xin Chúa dạy con biết từ bỏ bản thân mà lệ thuộc hoàn
toàn vào Chúa Giêsu. Con không muốn trốn tránh trách nhiệm của con đối với cuộc
đời của mình, nhưng con muốn để Chúa Giêsu chi phối toàn bộ cuộc sống của con.
11. Bão tố.
Hồ Tibêria nằm ở mạn bắc Palestine, còn gọi
là hồ Gênêsarét hay biển Galilê, nhưng quen gọi là Biển Hồ, có hình bầu dục,
chiều dài 21 km, chiều ngang 12 km, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải 208m, lại nằm
bên rặng núi Hemon cao ngất, luôn có tuyết phủ, vì thế, các luồng gió mạnh đều
dốc đổ vào hồ, gây nên những cơn giông và bão tố bất thường.
Cựu Ước ít nhắc tới Biển Hồ này, nhưng
trong Tân Ước, hồ này nổi tiếng, vì nơi đây Chúa Giêsu đã làm một số phép lạ và
giảng dạy nhiều điều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra ở Biển Hồ
này, vào một buổi chiều đầy kỷ niệm của một ngày tháng chạp, năm thứ nhất công
khai giảng dậy của Chúa.
Hôm ấy, sau khi dùng thuyền làm tòa giảng dạy
dân chúng nhiều dụ ngôn, Chúa Giêsu giải tán cho họ ra về, rồi bảo các môn đệ
kéo buồm ra khơi sang bờ bên kia đến thành Gêrasa. Khi thuyền ra gần giữa khơi
thì gặp biển động mạnh, gió thổi dữ dội, sóng nước quật mạnh vào thuyền khiến
thuyền chòng chành, chồm lên chồm xuống muốn chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống,
tuy là những ngư phủ đã quen với những cơn giông bão trên biển, mà lần này các
ông cũng hoảng sợ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm ngủ ngon lành ở cuối thuyền như
không có sự gì nguy hiểm đang xảy ra.
Các môn đệ không còn biết xoay sở làm sao
đưa thuyền vào bờ, trở lui không được vì bị sóng gió cản lại, mà tiến sang bờ
bên kia thì còn xa quá. Thật là tiến thoái lưỡng nan, các ông chỉ còn biết cầu
cứu đến Chúa, mà Chúa thì lại đang ngủ. Các ông đánh thức Chúa dậy và xin Chúa
cứu giúp. Lời kêu cứu này chứng tỏ các môn đệ tin Chúa có quyền phép. Nhưng
Chúa đã quở trách các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?”
Chúa trách các môn đệ như vậy là vì mấy tuần qua các ông đã được chứng kiến
Chúa làm nhiều phép lạ tỏ ra Chúa là Đấng có quyền phép, nên đáng lẽ các ông phải
tin tưởng nơi Chúa mà không hoảng sợ trước cơn giông bão. Nhưng đức tin của các
ông còn yếu kém, gặp cơn giông bão, tuy có Chúa ở trong thuyền mà các ông vẫn hốt
hoảng sợ hãi, nên Chúa mới quở trách như vậy. Tuy nhiên, Chúa vẫn đứng dậy,
truyền cho sóng gió yên lặng, tức khắc biển trở lại bình thường.
Qua phép lạ này, Chúa Giêsu muốn cho các
môn đệ thấy uy quyền Thiên Chúa toàn năng của Ngài, đồng thời cũng cho họ biết:
họ phải vững tin vào Ngài, có Ngài ở bên, họ không được sợ hay không phải lo sợ
gì cả, vì không có gì Ngài không làm được, mọi sự đều tùy thuộc uy quyền toàn
năng của Ngài.
Khi tìm hiểu về cơn bão tố xảy ra trên Biển
Hồ, một nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích: “Chúa Giêsu đã muốn đem các môn
đệ của mình đi trên biển, giữa bão tố kinh hoàng để cho họ thấy trước những bão
tố sau này là những bắt bớ, những hành hạ mà họ sẽ gặp trên đường tông đồ. Đối
với họ, là những người sẽ cầm lái thế giới sau này, con thuyền nhỏ bị sóng gió
dữ tợn đánh chòng chành sắp chìm, là hình ảnh của những trận bão tố sau này sẽ
tấn công Giáo hội mà họ phải kiên gan chống đỡ”.
Các nhà giảng thuyết thường áp dụng việc
Chúa Giêsu làm cho sóng gió yên lặng vào việc Chúa luôn ở cùng Giáo hội, và
bênh vực gìn giữ Giáo hội trải qua những cơn sóng gió trần gian. Chiếc thuyền của
Phêrô là tượng trưng cho con thuyền Giáo hội của Chúa mà Phêrô là đầu. Những
cơn sóng gió là những cơn thử thách bách hại mà Giáo hội luôn gặp phải. Cũng
như khi xưa các tông đồ trên thuyền đã được an toàn qua cơn sóng gió vì có Chúa
Giêsu ở với các ông, thì ngày nay cũng nhờ có Chúa Giêsu luôn hiện diện trong
Giáo hội mà trải qua bao cơn thử thách bách hại, Giáo hội vẫn đứng vững và trường
tồn.
Nhìn vào lịch sử Giáo hội, qua dòng thời
gian, trải qua các thời đại, chúng ta thấy Giáo hội đã gặp phải bao cơn gió
bão, thuyền Phêrô, tức là Giáo hội, đã vượt biển được hai ngàn năm, thuyền đó
ra đi, mặc dầu gặp bao sóng gió, nhưng vẫn luôn đứng vững, lý do là vì Chúa
Giêsu luôn hiện diện trong Giáo hội như Ngài có mặt trên thuyền của các môn đệ
xưa kia. Đôi khi xem ra Ngài ngủ và có vẻ buông xuôi tay lái, nhưng thực ra đó
chỉ là những cơ hội để nêu cao sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Thiên
Chúa toàn năng cai trị những bão tố bên ngoài, thì Ngài cũng thống trị những
cơn bão, những sóng gió trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong cuộc đời thăng trầm
của mỗi người. Cuộc đời chúng ta là một đời lữ khách, vui buồn chen nhau. Là
thân lữ khách, chúng ta biết phận mình là thế, và trong muôn cảnh ngộ, chúng ta
luôn có hy vọng về tới bến. Đức tin vững chắc là bánh lái thuyền đưa chúng ta về
tới bến cứu độ. Chúa Giêsu luôn ngồi đàng sau con thuyền để trợ giúp chúng ta.
Chúng ta cứ yên trí lớn chèo thuyền ra đi, điều cần thiết nhất là chúng ta có
luôn tin tưởng vững chắc vào Chúa hay không?
Vì thế, giữa những bão tố, những sóng gió của
biển đời, chúng ta cần bắt chước gương các tông đồ, chạy lại với Chúa Giêsu và xin
Ngài cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất. Tin tưởng và
cầu xin Chúa, chúng ta sẽ được bình an.
12. Biển đời và biển khơi – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất
trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển
khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con
người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển
khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn
tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy
đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những
nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được
bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê
sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh
giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi
khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không
dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút
lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người
để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết
rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ
hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm
tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng
đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ
đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền
nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an
toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi
cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên
họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại.
Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng
Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc
nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: "Thầy
ơi, chúng con chết mất!". Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự
trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người
trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm
nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy
những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa
cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì
không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng.
Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi,
cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết
dâng lên Đấng tối cao. "Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!".
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió
nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc,
bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu
Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời.
Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian.
Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào
Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những
điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện
bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy
khó khăn thử thách của kiếp người chúng ta. Amen.
13. Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin.
Trên con đường theo Chúa Giêsu, mặc dù các
môn đệ đã được Người đào tạo, dậy dỗ, uốn nắn… các ông vẫn chưa hiểu gì về đường
lối của Chúa: Người đã giảng dậy, đã làm nhiều phép lạ nhưng các môn đệ vẫn sống
trong sự mờ ảo của cuộc sống, các ông vẫn chưa làm sao hiểu được ý của Thầy
Giêsu. Do đó, đã có lúc các ông tưởng Thầy mình là ma, đã có lúc các ông lánh
xa Chúa, đã có lúc các ông phản ứng lại những lời nói, cách sống, cử chỉ, thái
độ của Thầy mình. Đức tin của các môn đệ nhiều lúc tưởng như lu mờ, hay nói một
cách khác các ông chưa có lòng tin. Tin Mừng Mc 1, 35-41 là một bằng chứng nói
lên quyền năng vô biên của Chúa giống như sách Gióp khẳng định:” Chỉ Thiên Chúa
là Đấng sáng tạo quyền năng, chủ tể muôn loài, muôn vật, chủ tể mọi sự”. Phép lạ
Chúa Giêsu làm cho sóng to, gió lớn phải im bật nói lên quyền uy của Chúa. Đáng
lẽ các môn đệ phải vui mừng vì Thầy có quyền năng khiến gió to, biển động im
hơi lặng tiếng, các môn đệ lại hoảng hốt sợ sệt. Chúa Giêsu đã phải lên tiếng:”
Sao nhát thế? Anh em chưa có lòng tin sao?”.
CÁI TRỚ TRÊU CỦA CÁC MÔN ĐỆ
Theo Chúa gần ba năm, các môn đệ đã được
Chúa dậy bảo nhiều điều: Người đã nói thực tế, đã làm những phép lạ, đã dùng những
dụ ngôn, những ví dụ xẩy ra chung quanh các môn đệ để làm sáng tỏ lòng tin của
các ông, nhưng các ông vẫn còn u tối, các ông vẫn chưa cảm nghiệm được quyền
năng và tư cách thần linh của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn tỏ ra không hiểu hay
tỏ ra hiểu lờ mờ về Thầy mình. Các ông luôn mơ tưởng đến việc Chúa Giêsu sẽ
khôi phục lại nước Israen và rồi các ông được ăn trên ngồi trốc trước mọi người
khi Chúa Giêsu đăng quang làm vua theo ý nghĩ trần gian của các ông. Điều đó
không lấy gì làm lạ khi phép lạ hôm nay xẩy ra. Bối cảnh phép lạ được Chúa
Giêsu thực hiện vào một buổi chiều trên biển hồ. Thuyền của các môn đệ rời bến
để qua bờ bên kia. Chi tiết này giúp chúng ta hiểu phép lạ diễn ra trong đêm.
Chúa Giêsu ngồi ở đằng lái, gối đầu mà ngủ. Bỗng gió to, sóng lớn nổi lên, sóng
ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Các môn đệ hoảng hốt, xôn xao, nhốn nháo
đánh thức Chúa: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo sao?”(Mc 4,
38). Chúa Giêsu liền can thiệp bằng một lời và chỉ một lời truyền của Người:
“Im đi! Câm đi!”(Mc 4,39). Gió liền im. Biển lặng như tờ. Điều làm chúng ta ngạc
nhiên không phải là phép lạ, nhưng là cách Chúa Giêsu thực hiện phép lạ: “Tại
sao Chúa biết trước sẽ có cuồng phong, biết trước việc Người sẽ làm?. Tại sao
Người không can thiệp liền, tại sao Người cứ gối đầu mà ngủ?
Thực ra khi gió to, biển động, sóng gào,
các môn đệ xốn xáo, chạy lại đánh thức Chúa dậy, các ông xin Chúa can thiệp hai
điều xem ra như là một tối hậu thư: “Thầy ơi, chúng con chết đến nơi rồi”. Điều
thứ hai: “Thầy chẳng lo gì sao?”. Câu nói thứ hai của các môn đệ hàm ý sao Thầy
vô tư quá, chúng con sắp chết mà Thầy cứ tỉnh bơ ngủ say. Chúa Giêsu đã trả lời
cả hai điều các môn đệ yêu cầu. Điều thứ nhất, Chúa truyền cho biển yên, gió lặng.
Điều thứ hai, Người khiển trách: “Sao nhát thế? Anh em chưa đủ đức tin hay
sao?” (Mc 4, 40). Cái trớ trêu hầu như khờ khạo của các môn đệ ở chỗ Chúa luôn
có mặt, luôn hiện diện dù Người đang ngủ, Người hay biết mọi sự nhưng các môn đệ
đâu có nhận ra điều ấy. Vậy, khi Người khiếm diện, khi Người không có mặt ở đấy,
các môn đệ sẽ ra thế nào!: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”(Mc 4, 40).
Anh em để đức tin ở đâu? Ở đây, trong tình huống này, các môn đệ có thể nghĩ đến
những can thiệp của Thiên Chúa đối với số mệnh của dân tộc các ông. Thiên Chúa
đã cứu thoát cha ông của các ông, đã giữ lời Giao Ước của Ngài cho dù có lúc
Thiên Chúa hầu như im lặng. Thiên Chúa đã không bỏ rơi dân tộc. Bốn mươi năm
sau, dân lưu đầy bên Ai Cập đã được Thiên Chúa giải thoát, đoàn người lưu đầy
kéo về Giêrusalem được thanh luyện và lớn lên trong thử thách.
CHÚA MỜI GỌI CÁC MÔN ĐỆ VÀ NHÂN LOẠI TIN
VÀO CHÚA:
Đối diện với quyền lực của sự dữ, của ma quỷ
vì theo não trạng của người Do Thái, biển là biểu tượng của quyền lực ma quỷ.
Các môn đệ cuống quýt đã quên cả lòng tin của mình vào Chúa Giêsu. Vậy phải
chăng Tin Mừng hôm nay mời gọi con người, nhân loại hãy tin vào Chúa, hãy bám
chặt lấy Chúa, hãy tin vào uy quyền tuyệt đối của Chúa trên mọi loài, mọi vật,
mọi sự. Tiếng la hoảng hốt của các môn đệ trước trận cuồng phong bão táp, phải
chăng đang là thử thách của con người, của mỗi người khi họ gặp cơn cám dỗ, gặp
sự thử thách gian nan giữa cuộc đời, giữa hành trình đức tin đầy cam go? Liệu
Chúa có bỏ con người hay con người chỉ ngờ ngợ, yếu tin chưa có lòng tin mạnh mẽ
và gắn chặt vào Chúa Giêsu? Chúng ta hãy đọc lại nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng,
chúng ta sẽ thấy nhiều lòng tin làm ta ngạc nhiên. Và khi ta tin thật sự vào
Chúa, chắc chắn sự an bình sẽ đến với chúng ta. Thiên chúa không ở xa ta, Ngài ở
bên ta, Ngài yêu thương ta, Ngài sẵn sàng can thiệp vào mọi biến cố của đời ta.
Nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thái độ như các môn đệ hoảng hốt, như ông Môsê
trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,1), như ngôn sứ Isaia khi nhìn thấy vinh quang của
Thiên Chúa trong đền thờ (Is 6,5). Tất cả đều tùy thuộc vào lòng mến và vào sự
phó thác tuyệt đối của mỗi người chúng ta trong bàn tay yêu thương của Thiên
Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng
con để chúng con luôn bám chặt lấy Chúa vì Chúa là Đấng uy quyền và hay thương
xót.