"Chống Tay Đứng Dậy"
“Đừng, đứng khóc lóc bên mồ em... Thôi đừng
khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…” (Mary Elizabeth Frye)
Có thời ông Tư
thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời
người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết.” Bây giờ
vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất
nhân, không nên
nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết
vợ. Ông ân hận và tự giận mình.
Sau khi chết vợ,
ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà,
ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi
khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi
khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có
được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ,
vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh
âm-u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa
sai.
Mở cửa, bước
vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em
ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt
lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy
bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không
ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ
bao giờ.
Ông nhìn tấm
hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi
mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu
dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ
cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm,
chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc,
cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng
còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng
cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.
Ông Tư gieo
mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng
mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật
hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có
thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà
còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.
Ông đã khóc như
thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo,
không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông
trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi
trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu-đâu cũng có
bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước
khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển
dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng-nghiêng, thỏi
son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không
xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên
từng món vật dụng.
Mỗi bữa ăn,
không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh.
Bây giờ, ông tha hồ lần lữa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ
mới bắt đầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa
đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối
diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo
tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng
phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự
dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm
được hương vị ngon ngọt.
Nhiều khi thức
giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt,
chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông
chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn
ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang.
Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối,
mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên
nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn
nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm
đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái
thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ,
mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.
Ông tiếc, vợ chồng
đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi
cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên
Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau,
dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.
Tại sao phải gắt
gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm
sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết.
Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân
hận, mà không còn kịp nữa.
Nếu được làm lại,
ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi
giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh
mỗi khi bị bà chê bai, mai mỉa. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương
bà, yêu thương lắm-lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông
không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối
xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng
không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời
con người vốn bấp bênh trong định mệnh.
Lấy kinh nghiện
đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ
biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, họ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai
đây, khi chỉ còn chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng
nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực
hành điều hiểu biết.
Mẹ ông mất trước
vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường
tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn
mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất Mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ
chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất
hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng
rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ
Có khi quẩn
trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng
già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn
gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại
trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau
lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim,
khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào
cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ,
còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?
Trong căn nhà nầy,
đâu-đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên
trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không
biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận.
Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng
đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch
bên Nhật, để cho ông tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.
Hơn cả chục
chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết
uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng
một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị
của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây
ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu
màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế
ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những
khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu
thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt
chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt
bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay-cay, tim đập sai
nhịp.
Tủ áo quần của
bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ
cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí.
Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia.
Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ
được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ
mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ
có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê
mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân
thành của bà làm ông thương và mến phục.
Áo quần của
ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã,
giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo
quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi,
thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của
chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những
gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai
trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói
ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng
ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ
áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả
năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.
Ông nhớ những
khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ
răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví,
kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự
nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc
ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho
ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần
ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục
xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông
cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.
Bà biết rõ ông
ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì
hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng
không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.
Nhiều lần ông
bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt khách
thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường,
áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm,
thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại,
máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của
bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng
khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không
mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”
Một lần đi Âu
Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm
trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang
theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các
hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các ‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình
giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một,
để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con.
Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.
Ông thường ham
mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ
mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh
nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và
thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.
Từ khi có gia
đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực
sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như
thành trống rỗng.
Mỗi chiều tan sở,
ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống,
phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không
dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được
không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm
nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào
mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi
không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên
ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm
thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà
trống vắng, lòng ông rưng-rưng.
Mỗi khi mở tủ lạnh
tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen
thui, rữa thối! Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn.
Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì
cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống
sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán
quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?
Như một thói
quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà.
Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm
vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ
thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ
tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần,
ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lầm tưởng ông
đau bệnh thần kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước,
ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông,
vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi
ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài
trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng
có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi
hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.
Khi bóng đêm bắt
đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không
muốn rời khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen
bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi
thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông thương yêu vợ hơn nhiều lần
khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.
Mùa đông mưa dầm
dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co-ro
run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa
đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.
Chỉ mới một năm
thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều
người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy
sụp trầm trọng.
Ông nghĩ, bác
sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể
làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.
Một buổi sáng
khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng
chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than
vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên
thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô-kià, lạ chưa,
có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết
giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông
run-run đọc:
“Đừng, đứng khóc
lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng
nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát
rượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng
chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ
em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”
Ông đọc đi đọc
lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn.
Trước đó bà Frye này chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng,
phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ
khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng
hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng! Bây giờ bà đâu
còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một
thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có
chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu
thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương.
Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui
hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng
lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì
phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ,
hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia
mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới
lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa.
Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực
lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên
hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng
mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.”
Ông lái xe ra về,
lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời.
Tiếng nhạc vui rộn rã vang-vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng
ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến,
thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần
thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây
ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.
Về nhà, ông ngồi
vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây
ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra
quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ
kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không
sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.
Mỗi sáng ông dậy
sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm
nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà
đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn.
Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu
ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp,
tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem
truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.
Có một bà góa ỡm-ờ
đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn
một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa
em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”
Ông cười lịch sự
đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin
cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”
Ông bóng bẩy nhấn
vào hai chữ ‘phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e-thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi
có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào
đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với
người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.
Ông tham gia
các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn
ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều
bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn
ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt
chui đầu vào tròng.
Đôi khi ông
cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy
có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.
Ông đã cùng bạn
bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức
để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi
luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông
không kịp nghĩ, kịp buồn.
Trên du thuyền,
gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm
tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình
trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên
chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau
trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may
mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại
học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô
như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà
say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mại của
gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông,
một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp
xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở
kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.
Ông Tư cũng cảm
mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân aí, và tâm từ
bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không
thù hận, không gay gắt giận hờn.
Bà Huyền biết
kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm.
Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh
không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng
giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành
tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng
cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng
ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình
cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng
nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời
mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già.
Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián,
cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc
ác nhất của Thành Phố
nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một
vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu,
và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt.
Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả
cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng
xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với
một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như
bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.
Ông Tư mạnh dạn
hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới
bà Huyền, vợ cũ của anh?”
Ông Duẫn gãi đầu,
và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao
cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã li
hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”
Ông Tư hạ giọng:
“Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn
hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người
đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người
khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của Thành Phố nầy. Có thật
vậy không?”
Ông chồng cũ của
bà Huyền ngững mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan
khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy
được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà
ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài,
không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai
người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”
Ông Tư ngại ngần
và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định,
mắng ông Tư một trận nên thân, chưởi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không
đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chưởi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông !!
Ông Tư đã hết
suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm
vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà
ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn:
“Có thì vui. Không
cũng vui. Được mất đều vui…”
Tràm Cà Mau.