Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm B
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm B
MỤC LỤC
1. Có Chúa cùng đi.
2. Emmaus.
3. Gặp Chúa giữa lòng đời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
4. Cho họ xem tay và cạnh sườn
5. Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
6. Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
7. Không phải mọi sự chỉ toàn là ánh sáng.
8. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
9. Chúa Giêsu là trung tâm lịch sử – Noel Quesson.
10. Những bóng ma tưởng tượng ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
11. Cách hiện diện của Đấng Phục Sinh ĐGM. Vũ Duy Thống.
12. Anh em là chứng nhân.
13. Phiền muộn, bối rối, & bình an Lm. Nguyễn Trung Tây
14. Chúa hiện ra với các tông đồ - R. Gutzwiller
15. Bình an cho các con – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
16. Làm chứng
17. Vâng lời.
18. Ngăn cản.
19. Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
20. Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ – JKN.
21. Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng
22. Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
23. Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ
24. Chú giải của Noel Quesson.
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy Chúa sống lại sai đi làm chứng catholic.org.tw Làm chứng cho biến cố phục sinh Lm Giuse Đinh lập Liễm Lời mời gọi hoán cải và Lm. Phêrô Lê văn Chính Hiện ra cho các sứ đồ Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt Hoàn tất lời kinh thánh Fiches Dominicales Trên phòng cao Chú giải của William Barclay Đau khổ Sưu tầm Sự thử thách cho trọng tâm đức tin Sưu tầm Loan báo Sưu tầm Đau khổ Sưu tầm Tình yêu Sưu tầm |
1. Có Chúa cùng đi.
Cứ
mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi
Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.
Hôm
đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ
xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau
đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người
chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng
bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ
hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều,
nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới
nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về
Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vừa đến nơi, chưa kịp nói
gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang
trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.
Đúng
thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng
ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình.
Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang
khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi,
Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng
có Ngài.
Xưa
kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề
thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những
ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui
và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên
Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.
Tại
Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong
đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yêu thương. Rồi
trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô
được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ
khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để
nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao
công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.
Mục
sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản
tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa:
Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ
theo kiểu đó, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.
Hôm
nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia
sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?
2. Emmaus.
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn
đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn
khởi và hăng hái.
Thực
vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ông bước theo Chúa với tham vọng
vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa
rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ
chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến
Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị
treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản
và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như
hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên
rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta
cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng
mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong
việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức
là những lợi ích trần gian vàkết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu
nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc
lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng
vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc
quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay
hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa
lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các
ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi
và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để
các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con
đường tiến tới vinh quang.
Trái
tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã
nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi.
Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản
ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng
Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục
sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước
gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là
những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh
thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
3. Gặp Chúa giữa lòng đời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau
cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về
Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại
sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của
họ xuống mồ.
Đang
lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời
Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu
Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành
trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hành với mình là Chúa
Giêsu.
Sau
đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại
Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu
hiện về!
Chúa
Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không
phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có
xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại
đề nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người
lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có
nuốt như vậy.
Rồi
tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng
Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy
giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
*
* *
Các
tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận
ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu
vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa
Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người
đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của
Người ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha
nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Người (Mt 25,
40)... ["Vậy
anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận" (ICr 12, 27);
"Nào anh
em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6,
15);
"Bởi vì
chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều
người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17).
"Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời
Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để
diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một
con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
-
Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu
được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người
đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá
già nói:
-
Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
-
Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi
con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi
khác.
[Anthony
de Mello trong tác phẩm: "Như tiếng chim hót"]
Con
cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh
toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại
dương.
Chúng
ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa,
chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện
chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt
trong cùng một mái nhà, một xưởng máy... Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người.
Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng
chừng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại
kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh,
Con
cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ là một nên nó đã hoài
công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng
không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội
được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin
giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông
nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh
chị em đang sống quanh mình. Amen.
4. Cho họ xem tay và cạnh sườn
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến
cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố
này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức
Giêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức
Giêsu Kitô.
I.
Đức Giêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống
Theo
tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan
báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục
Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức
Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy
đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”
(Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ
kiểm chứng (Lc.24, 40).
Tuy
vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở
đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm
lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu
cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại,
Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của
con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo
trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34),
nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16,
9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước
cái chết (Mc.14, 35-36).
Thân
phận con người, lúc này biết, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa
đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách
hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết
lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với
các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục
sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng
sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.
II.
Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh
Trong
cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu
Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính
Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng
tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số
người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân
tộc Do Thái. Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu
chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Đức
Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Giêsu, con
người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật
đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong
lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là
trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào
đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu
của Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập
thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Kinh
Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người
ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và
người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo
tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh
Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn
về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn
về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.
III.
Thật sự biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài
Niềm
tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một
người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có
việc làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ
các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).
Biết
Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa,
nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống
động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời
sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có
nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết
Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng.
Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực
sự.
Niềm
tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài
đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính
đạo. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến
đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho
Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ
1.
Theo bạn, khi Đức Giêsu cố gắng làm cho các tông đồ thấy Ngài đang sống thực sự
bằng cách cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, hàm chứa điều gì?
2.
Theo bạn, đức tin Kitô hữu hàm chứa gì? Tại sao lại gọi là ơn? Có gì quý hoặc
được lợi gì khi tin Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể?
5. Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thời
Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và các tổ
phụ cha ông để truyền dạy về mầu nhiệm ơn cứu độ. Khi thời đã mãn, Thiên Chúa
sai chính Con Một Ngài là Đức Giêsu xuống thế để mạc khải về Nước Trời. Đức
Giêsu là Chúa, qua Ngài muôn loài được tạo thành. Danh thánh Chúa Giêsu là danh
hiệu vượt trên mọi danh hiệu: "Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả
trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ" (Pl 2,10).
Danh Chúa Giêsu có quyền lực biến đổi và chữa lành mọi vết đau thương cả hồn
lẫn xác. Trong tất cả các lời cầu nguyện chính thức của Giáo Hội đều kết thúc
bằng lời cầu: Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Sau
khi Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết, các Tông đồ đã chứng kiến, gặp gỡ và
cùng ăn uống với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã minh chứng rằng Ngài không phải là
ma hay bóng hình, mà là người sống thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho các ông thấy dấu
đinh nơi tay chân và cạnh sườn bị đâm thủng. Chúa đã cùng đồng hành trên đường,
đối thoại với hai môn đệ và bẻ bánh phân chia. Niềm xác tín vững vàng, các tông
đồ đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng, cho dù đối diện với muôn vàn trở ngại khó
khăn. Các Tông đồ đã nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh rao giảng sự thống hối và sự
ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân. Ông Phêrô nói với dân chúng: “Anh em
hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được
ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38).
Qua
thánh giá, Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù là tội lỗi và ma quỷ. Thánh giá là
chìa khoá mở cửa để vào Nước Trời. Triều thiên vinh quang phải đi qua thánh
giá. Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ con đường thánh giá phải đi qua
để vào Nước Chúa. Ngài trao ban cho các ông quyền lực để thắng vượt tội lỗi và
sợ hãi. Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ hãy làm nhân chứng về sự sống lại của
Ngài cho mọi người. Chúng ta nghe và đọc nhiều bài tường thuật rất đơn sơ, chân
thành về sự kiện Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các bà, các tông đồ, môn đệ và
nhiều người khác. Chúa hiện ra với mỗi người qua mỗi hình thức trong mỗi hoàn
cảnh khác nhau. Mỗi lần Chúa hiện ra đều có ý minh chứng và củng cố thêm lòng
tin của các môn đệ vào sự sống lại.
Các
môn đồ sống với tâm hồn rất đơn sơ chất phác. Những thắc mắc, ngờ vực và lo âu
của các môn đồ là rất thật. Sau khi Thầy của mình đã bị giết chết và chôn trong
mộ đá, các môn đồ sống trong tinh thần hoang mang lo sợ và bỏ đi tản mác. Có
những môn đồ chán nản bỏ về quê nhà. Trên đường về làng Emmaus, Chúa Giêsu phục
sinh đã xuất hiện như người khách lạ cùng đồng hành với các ông để giải thích
Kinh Thánh và mở con đường mới dẫn vào Nước Trời. Thật là nhiệm mầu, Chúa đã
sống lại rồi, đâu ai có thể gây hại gì cho Chúa nữa. Đôi khi tôi tự hỏi: Sao
Chúa không ra mặt công khai công bố tin vui và quy tụ mọi người về một mối?
Chúng ta cũng nhớ rằng sứ mệnh rao truyền Tin Mừng của Đấng Messia thì âm thầm
và ẩn giấu. Tư tưởng và đường lối của Chúa thì không phải của loài người.
Thiên
Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ. Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chúa muốn
gặp gỡ với từng tâm hồn. Chúa mở lòng cho mỗi người có cơ hội để cảm nhận được
tình Chúa. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ được gieo trồng, đâm chồi nẩy lộc và
phát triển. Lời giống Lời Chúa cứ tiếp tục tung gieo trên khắp cánh đồng. Những
tâm hồn vui vẻ đón nhận và chăm nom vun tưới, hạt giống sẽ sinh hoa kết quả.
Khởi đầu Giáo Hội, với con số rất khiêm nhường, chỉ có 12 tông đồ, trong đó một
vị đã bỏ cuộc và cùng với 72 môn đệ, các bà đạo đức, một số người thân thiện
cảm tình theo Chúa. Họ là nhóm nòng cốt. Chúa Phục Sinh đã trao quyền cho các
vị ra đi làm nhân chứng và rao giảng Tin Mừng thống hối. Hầu hết các môn đồ đã
lấy mạng sống mình để minh chứng niềm tin vào Chúa Kitô sống lại.
Thánh
Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng sự thật: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng
Công Chính và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em
lại giết đi. Và các tông đồ đã làm chứng rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi
chết sống lại. Giờ đây các ông chỉ lấy danh Người mà làm các phép lạ chữa lành.
Phêrô cũng thành thật chia sẻ rằng chúng tôi không dùng quyền năng riêng hay
lòng đạo đức của chính mình mà làm các sự lạ. Khi chữa lành cho anh què tàn
tật, ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh
đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6).
Tất cả năng quyền được trao ban cho các ông đều nhờ qua Danh Chúa Giêsu Kitô.
Mọi sự đều phải quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài là hoa quả đầu mùa của những
kẻ yên giấc. Ngài là đầu của Nhiệm Thể.
Chúa
Giêsu đã sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng và truyền rao ơn cứu độ. Các Tông
đồ đã xả thân mình vì đức tin. Với một sức mạnh thúc đẩy nội tâm, các ông không
còn rụt rè, sợ hãi nhưng kiên vững xác tín rao giảng về cuộc đời của Chúa.
Chính Chúa là lẽ sống, là đá tảng và sức mạnh. Tất cả mọi quyền lực thế gian,
áp đặt của kẻ thù, bắt bớ, tù tội, gươm giáo và chết chóc không làm lung lạc
niềm tin. Các tông đồ vững mạnh tuyên bố rằng: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn
dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng
mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi
chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị”
(Cv 4,10).
Thánh
Phaolô, vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn trong Đức Kitô, cũng mạnh dạn tuyên xưng
danh Chúa: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người
này! Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất” (Cv 16,18). Nhân danh Chúa Kitô Phục
Sinh, mọi quyền lực thế gian phải quỳ phục. Hãy tự vấn xem có khi nào chúng ta
thực tình dùng Danh Thánh Chúa để chế ngự các nết xấu, xua trừ ma quỷ hay làm
một việc gì tốt không? Nhiều lần chúng ta đã chối từ, lẩn tránh và ngại ngùng
tuyên xưng danh Chúa. Rất thường chúng ta không dám tuyên xưng niềm tin vào
Chúa Kitô nơi công cộng. Đôi khi chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá tuyên
xưng một Chúa Ba Ngôi nơi bàn ăn. Chúng ta giả vờ sống như những người không
tin. Hoạ theo những thói tục hư đốn, truỵ lạc, đàm tiếu, gian dối và tỏ ra mình
sành chơi, sành điệu không thua kém gì người không biết Chúa.
Nhìn
vào cuộc sống của người Kitô hữu, chúng ta phải chân nhận rằng đã có quá nhiều
lần chúng ta phân rẽ chi thể mầu nhiệm của Chúa. Chúng ta dựa vào niềm tin để
đả phá, ghen ghét và xa tránh nhau. Lời của Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thưa anh
em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất
trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em,
nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1,10). Sống tinh thần
của Chúa Kitô Phục Sinh là sống tinh thần yêu thương trong an bình. Nhân danh
Chúa Kitô, chúng ta là sứ giả của hoà bình, là nhân chứng của tình yêu và là
môn đệ của sự khiêm nhường phục vụ.
Lạy
Chúa, xin đoái nhìn đến đoàn con của Chúa. Nhờ Mầu nhiệm Vượt qua, Chúa đã biến
đổi tâm hồn và thân xác chúng con. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin
tưởng nơi Chúa Kitô sống lại, để mai sau cùng chung hưởng vinh phúc muôn đời.
Chúng con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
6. Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Chúng
ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh
là gì? Là cầm bánh bẻ ra và chia cho người khác. Bẻ bánh là chia sẻ.
Trong
một cuộc du ngoạn dưới nắng hè, chúng ta tìm một chỗ bóng mát, ngồi lại với
nhau, cùng chia sẻ lương thực, thức ăn nước uống, để bồi bổ thể xác. Trong Giáo
hội tiên khởi cũng như trong Giáo hội ngày nay, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa,
chúng ta họp lại với nhau để làm lại việc quan trọng là chia sẻ hay bẻ bánh Lời
Chúa. Vì chia sẻ hay bẻ bánh Mình và Máu Thánh Chúa trong phép Thánh Thể để
nuôi dưỡng linh hồn.
Các
bài đọc Phụng vụ hôm nay minh chứng cho chúng ta hai điều đó. Trong bài đọc thứ
nhất chúng ta nghe Thánh Phêrô bẻ bánh Lời Chúa cho dân chúng. Bài giảng thật
súc tích, ngắn gọn dựa trên các điểm sau đây: Chúa Giêsu Nagiarét chính là Con
Thiên Chúa, nhưng anh em đã chối bỏ Đấng Công Chính, Đấng ban sự sống và giết
đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin
làm chứng. Vậy anh em hãy trở lại để được ơn tha thứ. Đó là bài giảng đầu tiên
và là khuôn mẫu cho các bài giảng thuyết.
Trọng
tâm các bài giảng là mầu nhiệm Chúa đã chết, “Chính Ngài là của lễ đền tội
không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế giới” (Gio 2-5… ) và
Ngài đã Phục sinh sống lại. Giáo hội, theo Luca cho biết, đã ý thức ngay từ đầu
việc Chúa Phục sinh, bằng ba lối dẫn nhập này: một là lời cung chứng của các
Tông đồ. Các ông không bao giờ nghĩ tới sự việc sẽ xảy ra như vậy. Họ tỏ ra ngờ
vực là khác. Luca nhấn mạnh đến thái độ của họ khi nhìn thấy Chúa hiển linh:
“họ ngạc nhiên, bối rối lo sợ, nghi ngờ tưởng là bóng ma”. Nhưng rồi họ mới
nhận thức đó là sự thật; hai là nhờ sự suy niệm Kinh Thánh, mà Chúa đã dạy cho
họ trên đường Emmaus (24, 25-27) cũng như cho tất cả (24, 44-47); ba là nhờ
thực hành nghi thức Thánh Thể. Hai môn đệ đã nhận ra Ngài khi bẻ bánh (24,35)
và cộng đoàn tiên khởi ân cần tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể (Cv. 2,42 và
Icor. 10,46). Ba lối dẫn nhập nhưng cùng đi về một hướng.
Giáo
hội có bổn phận “bẻ bánh Lời Chúa” thì chúng ta người tín hữu có bổn phận nhận
lãnh Lời Chúa, lắng nghe và thực hành. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm
có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ Lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận
như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại,
bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa, qua thừa tác viên, đến
với ta cũng vậy, có bài dài, hoặc giảng buồn ngủ. Thánh Vinh Sơn Ferrier giảng
20.000 ngàn bài và mỗi bài không dưới 3 tiếng đồng hồ. Thánh Phaolô xưa cũng
giảng dài, vì Ngài tự cho là lỗi bổn phận: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng Lời Chúa”. Tại Troy, Ngài giảng từ chiều tối đến nửa đêm. Có anh chàng
ngồi trên cửa thành lầu cao, ngủ gật té chết, Ngài làm cho sống lại và tiếp tục
giảng cho đến sáng. Anh em cũng hãy thông cảm với người rao giảng Lời Chúa.
Thánh Phanxicô Balesiô sau bài giảng đầu tiên đã phải nằm liệt giường vì lo sợ.
Nhưng rồi Ngài trông cậy Chúa và Ngài giảng với tất cả tâm hồn; Ngài định nghĩa
“nhà giảng thuyết là người lấy tâm hồn mình và ném vào tâm hồn thính giả”. Giáo
luật dạy Linh mục phải dọn kỹ càng, trình bày thích hợp với điều kiện thính giả
và nhu cầu thời đại (GL 769) và buộc phải giảng lễ trong ngày Chúa nhật (GL.
767-2) thì Giáo dân có trách nhiệm phải lắng nghe và tuân giữ các điều mà chủ
chiên tuyên giảng với tư cách là thày dạy đức tin (GL. 212-1).
Việc
quan trọng thứ hai mà Phụng vụ gợi ý hôm nay là việc bẻ bánh Thánh và chia sẻ
Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ. Ngày Chúa nhật là ngày mà Giáo hội dạy
chúng ta đi tham dự Thánh lễ và kêu gọi chúng ta chia sẻ Mình và Máu Thánh
Chúa, của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Hai phần ba thế giới đang đói vì thiếu của
ăn thì có bao nhiêu người cũng đang đói Chúa. Thánh Lucianô, Giám Mục
Nocomedia, bị bắt giam trong tù. Giáo dân lo lót lính canh và mang lễ vật vào
thăm. Ngài khuyên họ can đảm giữ vững Đức Tin. giáo dân quây quần xung quanh
Ngài và nói: Chúng con đói Chúa. Không có nơi thuận tiện làm lễ, Ngài liền nằm
ngửa dưới đất, đặt của lễ trên ngực và làm lễ để cho giáo dân được rước Chúa.
“Lạy
Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn
con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con” (Đáp ca).
7. Không phải mọi sự chỉ toàn là ánh sáng.
(Suy
niệm của Jean-Yves Garneau)
Những
nỗi nghi ngờ của chúng ta.
Nhiều
người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ
lùng Ngài làm. Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người
đó vẫn không tin nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ.
Trái lại, nhiều người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều
lần sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến
cố như thế xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu,
nhưng đúng hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng:
“Họ tưởng trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho
các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà
vẫn chưa đủ, Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi
biết được những điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những
thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít
ra là nghi ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi
có lầm đường chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế.
Có lẽ hiện giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả
như ít ra, vào những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt
như những dấu chỉ mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ
vào Ngài, nghe Ngài! Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu
chỉ ấy không được ban cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy
Chúa Giêsu bằng mắt xác thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính
tai chúng ta nghe Ngài, ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự
Phục Sinh, đó không phải là cơ may của chúng ta.
Những
điểm qui chiếu.
Như
thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không
thể bám víu vào cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa
Giêsu đã nói với Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng
Ngài nói với chúng ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ
đã sống những gì. Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời
họ. Thầy đã làm cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài
cũng nói với chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn
xem Giáo Hội. Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả
những người nam, người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi
của họ. Hãy nói chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ
trả lẽ về niềm hy vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ
những tín hữu chân chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của
họ sẽ củng cố đức tin của các con”.
Lời
khuyên khác để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh
Gioan cho chúng ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta
có thể biết được chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài
không?). Đó là tuân giữ các giới răn của Ngài”.
Chính
nhờ sống như Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo.
Chính nhờ thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi
của Tin Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa
Giêsu dạy. Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp
được Chúa Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để
tin nơi Ngài!
Những
nghi nan của chúng ta vẫn còn.
Khi
bước theo con đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có
sống trong ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là
không. Sự nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn
chúng ta hoàn toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể
xảy ra cho chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giới
bên kia. Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở
đây ta phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin!
Chắc chắn đó là một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm
mỗi ngày. Người nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao
thức, một đức tin có thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương.
Và hễ ai tìm kiếm, thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho.
Ngài là Cha và Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
8. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi
thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống
như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có
thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính
của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một
buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa
mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn
càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một
mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu
con thường với vẻ do dự:
-
Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền
đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và
hỏi:
-
Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?
Cậu
trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.
Người
cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó
con nhìn tới đâu nữa?
-
Con nhìn tới cổng, cậu đáp.
Ông
giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng
từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
-
Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế
là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa
anh chị em,
Chính
các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả
khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng
là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang
lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa
Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các
ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó,
đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên
mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây,
đừng sợ!” (Mc 6,47-50)
Chúng
ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện
ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của
Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài
muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng
gió.
Chúa
đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở
trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi
chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo
chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy,
vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao
lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho
sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại
chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi.
Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.
Tuy
nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và
mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước
mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là
Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích
của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân
xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như
anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài
còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống
lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự
thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những
chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục
Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã
sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Chúa
Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung
lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được
niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy
mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và
niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ
rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận
thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa,
cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử
thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn
khởi vui mừng.
Đối
với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống
và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói
khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày
xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày
cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được
vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm
vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi
người.
Kitô
giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân
loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là
sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa
Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!”
“Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà
khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu
dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay
buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa
Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người
Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm
vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục
Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước
bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh
trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời
Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
9. Chúa Giêsu là trung tâm lịch sử – Noel
Quesson.
“Bấy
giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Trong
các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở
nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức
vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những chương đầu của sách Khởi nguyên:
Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha
và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói:
Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.
Toàn
bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là
con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã
tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa
Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó
cũng nói về những đau khổ Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên
báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các
Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như
một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho
tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa
chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ
trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường
thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước nói về Người.
Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.
Những
cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe,
đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt
trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu
rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc
cải thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và mỗi người chúng ta là những chứng
nhân.
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là
đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng
con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
NHỮNG
BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG
Trước
khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi
danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã
thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài
phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị
thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời
sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió
thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng
còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm
trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế
nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài
hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập
ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện
diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng
những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay
Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh
quang Nước Trời.
Trong
sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các
môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các
ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu.
Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an... Có lần Đức
Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ
dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người
đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm
nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau
thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu
phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và
giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin
tưởng.
Trong
đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma
đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng
chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố
lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp
thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính
Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời
sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê
tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ
chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu
xa, phong phú hơn.
Khi
đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng
cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được
củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải
nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các
tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người
trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là
hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự
thân mật với Chúa.
Hãy
củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh
hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và
nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống
hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị
những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn
của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy
Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con
trong tay Chúa.
11. Suy niệm của ĐGM. Vũ Duy Thống.
CÁCH
HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Một
trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi
làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng
đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích
chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội
họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như
bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm
tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi
lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh
con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi
từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục
sinh:
1)
ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ
Bối
cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của
các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống
công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế
giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết,
bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính
là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn
sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà
đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được,
Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách
lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm
hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus,
khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ
“đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.
Vâng,
Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa
cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ.
Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên
Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng
hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn
có đó trong sức mạnh đồng hành.
2)
ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU
Tâm
trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau
lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa
gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng.
Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa
giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt
họ vào một đà sống mới.
Lời
Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào
cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời
Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo
chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái. Sẽ không có mặt của Đấng
Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ,
nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ
là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được
thực thi chân thành trong đời sống.
Hai
môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại
Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng
củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và
sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh
như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống
chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.
3)
ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI
Nếu
có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và
mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài
đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đấng Phục sinh mà không một định
luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi
đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa
con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ
theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi
làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã
củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng
Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã
làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi
hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm
đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.
Nếu
có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới
mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và
nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được
mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động
biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư
nơi mình sinh sống.
Ba
cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa.
Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt,
nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện
vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình
không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của
những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện
diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích
cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng
ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.
Qua
thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước
lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để
tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.
12. Anh em là chứng nhân.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Sợ
ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ
ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng
Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt
tưởng là thấy ma.
Đấng
sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh
khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng
xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải
là một bóng ma.
Khi
các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi
đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm
khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá
bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà
lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy
vọng.
Đức
Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù
bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng
thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi
thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế
giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát,
bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá
thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không
đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ
phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô
hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường
học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống
trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta
đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục
Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện
Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục
vụ thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục
vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi...)?
Làm
chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay
cả hai đều cần?
Cầu
Nguyện
Giữa
một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với
cuộc sống đơn sơ.
Giữa
một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa
một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng
người.
Giữa
một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy
Chúa Giêsu,
Xin
cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
Xin
cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."
Ước
gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất
cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
13. Phiền muộn, bối rối, & bình an.
(Suy
niệm của Lm Nguyễn Trung Tây)
Ngày
hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn
xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Ngoài
thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi
cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối
thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt
đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến
cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã
trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán
đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng
dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá
và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và
sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng
mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng
rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu
chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một
xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà
hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần
lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi
mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai
trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích
cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những
cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin
rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm
mưu đen tối (Ga 20,2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước
bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh,
lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành
Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam
môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn
lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà
nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ
Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của
người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất,
những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to,
“Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào
ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm
thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh
cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh
cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn
đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run
sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai
người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài
của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt
đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai
người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không
phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám,
nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên
suốt một quãng đường dài mười một cây số.
Trong
căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh
đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ
ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại
thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và
sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút
hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng
hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân
vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ,
và hoang mang.
Không
trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng
kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có
người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho
các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân
thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục
Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy
Niệm
Trong
ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là
một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba
với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con
người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con
dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình
an.
Nhân
loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian.
Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang
đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong
chớp mắt.
Ngày
hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ
thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con
đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày
hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn
xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân
loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu
thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục
lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày
hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình
an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ
thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm
hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông
nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của
thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001,
mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn
được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại
càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc
héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ
của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin
và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục
thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào
những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với
cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu
Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài:
Lời
Nguyện
Lạy
Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để
con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong
căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với
những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con
lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền,
nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
14. Chúa hiện ra với các tông đồ - R. Gutzwiller
Trình
thuật này gợi lên cho ta 3 ý tưởng:
1)
Sự kiện Phục sinh
Chúa
bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào
chấp nhận nổi sự kiện, mặc dù họ đã được sứ điệp của các bà, của Simon báo
trước, và rồi của hai môn đệ đi thành Emmau nữa. Họ không thể hiểu nổi sự kiện
xảy ra đến nỗi Chúa Giêsu phải chính thức nhấn mạnh: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta,
chính là Ta đó: Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt xương như anh em thấy Ta
đây’. Và hình như họ còn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt,
nên Ngài hỏi ‘Ở đây các anh em có gì ăn không?’ Và Ngài đã ăn trước mắt họ. Khi
ấy họ không nghi ngờ nữa. Ngài đó, Ngài đứng đó với xác thịt rành rành. Sự Ngài
Phục sinh không chỉ là sự sống lại thiêng liêng mà thôi, nhưng còn là sự sống
lại thể xác nữa.
Hơn
thế nữa, những lời ‘Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài’ cũng như Ngài nói: ‘Hãy
coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó’ chứng tỏ rõ ràng rằng sau khi sống lại,
những dấu của cuộc khổ nạn vẫn còn y nguyên. Vậy Đấng chịu khổ nạn đã sống lại
với xác thân của Ngài. Khải huyền thơ nói Chúa biến hình dưới dạng một ‘con
chiên bị đem đi sát tế’. Những dấu tích cho thấy rằng thân thể Ngài là thân thể
của một tế vật và sự Phục sinh là hoàn tất hy tế đó. Đấy không phải là một biến
cố lịch sử đơn giản, xảy ra trong một vài khoảnh khắc, nhưng là một biến cố lâu
dài, bền bỉ, để lại kết quả lâu dài qua dòng thời gian.
2)
Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức
Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh
Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ
Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên
tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác
hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được
phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách
thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa
sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn
cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy
sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy
tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
3)
Loan báo Phục sinh
‘Các
anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý
tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không
phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô
đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy
thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài
người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị
Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp
ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm
chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng
được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp
sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá
đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con
người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa
Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các
tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy,
tất cả đều phai nhòa đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày
các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời
Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và
sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
15. Bình an cho các con – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc
đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất
an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị
trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta "ăn không
ngon, ngủ không yên". Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản
thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.
Tâm
trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo
sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giêsu. Họ sợ phải về quê làm lại
cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn
đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế
mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các
người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã
từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ,
nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông
hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.
Chúa
đã quở trách các ông "sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như
vầy!". Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin.
"Sao lòng anh em còn ngờ vực?". Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều
lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo
"Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại". Thế mà các ông vẫn không tin. Từ
không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ
hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên
đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa
đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.
Nỗi
sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho
tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan,
khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết
có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng
mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm
tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua
quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu
của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền,
có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để
sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả
người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế
nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì
chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa
thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi
luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan
lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế
giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng,
theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người
sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán
lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng
đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Người
ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng.
Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng
đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà
cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:
-
Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
-
Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
-
Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.
-
Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, áp đầu
vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy
bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng
sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vâng,
Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến
với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua
những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời
trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù
giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy
lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý
Chúa.
Xin
Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là
khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
16. Làm chứng
Việc
Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng
đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử
đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại
ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống
rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.
Nếu
muốn biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc
kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca
và đoạn 20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã
chết trên thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và
trước cửa mộ được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ
nhất trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.
Quả
thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi
đến sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa
chết, người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong
đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng
nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng
sốt và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các
ông đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay thân xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn
như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.
Trong
khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín,
bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh vấn đề Chúa chết và
hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng
sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình
an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hãi, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này
không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà
không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám
chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn
nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài
đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:
Trước
hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài
còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ
không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho
kỹ để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các
ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các
ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn
ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài
không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng
chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh
đã báo trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba
Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi
Ngài. Sau khi đã đưa ra tất cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã
sống lại thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho
mọi người.
Như
vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về
mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc
chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc
làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành
công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để
đạt ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã
thực thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.
Từ
đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin
Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta
không tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô
hữu, và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người
khác niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng
ta.
Nói
rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần
đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin
Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần đức
tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua
nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi,
giải trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời sống
tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là
một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn
hơn những lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần
thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của
đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin
mỗi người hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho
đạo không?
17. Vâng lời.
Các
bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng
ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao
giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn
áp.Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao
giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các
ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an.
Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài
không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý
của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các
ngài và bảo: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà
giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem”. Bấy
giờ Phêrô và các tông đồ thưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người
ta”. Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân
danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói
rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục
vì danh Chúa Giêsu.
Ôi!
Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế
lực cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các
tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng
lời người ta”. Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại,
lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh
Chúa Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.
Bóng
tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao
giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản
trở những bước chân rao giảng của các ngài. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người ta”. Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình,
các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn
thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. “Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Nhất là khi người đó lại là cáo già đội
lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong công
việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị
bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi
lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ
cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng
những đặc quyền đặc lợi.
Sang
bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là
con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế
quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của
nhân loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung
thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới
lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần
không thể chống lại chương trình của Chúa. “Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn
cho người ấy”. Phần Thiên Chúa, Ngài luôn được chúc tụng, được danh dự, vinh
quang và quyền năng đến muôn đời.
Bài
Phúc Am đem lại cho chúng ta một hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền
năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta
cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chết của Chúa
Giêsu từ lúc nhập thể làm người đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục
sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một
việc tầm thường của người chài lưới, nhưng vì làm theo lời chỉ dạy của Chúa,
các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa, hành động đó còn có một ý nghĩa
tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc
của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của
Chúa.
Sau
cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc Âm cho chúng ta một bài học quan trọng
là nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của
mình mà làm nên, nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy mẻ cá lạ
lùng, thánh Gioan hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác
biết rằng: “Chính Chúa đó!”. Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và
luôn truyền ban sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những
người có đức tin, những người môn đệ của Chúa.
Vậy,
để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi.
Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng lời Chúa hay tôi vâng lời người đời?
Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đức
tin của tôi mọi ngày trong đời sống, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau
tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
18. Ngăn cản.
Trong
buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở
tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín. Trong căn phòng này, tâm hồn các ông đầy
nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt
ngào về Người. Chính tại nơi đây, Vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa
Tiệc Ly với họ. Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với
Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.
Các
tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi,
tội lỗi, đau khổ và thất vọng. Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập
thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ
vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin
(Tôma). Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào
chung quanh họ.
Đức
Giêsu không chờ đợi họ đến với Người. Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn
đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ). Bằng một động
tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ. Người không la
rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người. Ở
đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội. Người biết cảm giác của họ ra sao, do
đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ. Thay vào đó, Người đã
mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng. Người nói với họ “Bình an
cho anh em”. Người nói câu này không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo
rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ. Trong khi đón nhận sự bình an của
Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.
Đột
nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ:
cái chết, sự dữ và sự phản bội đã bị chế ngự. Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến
thắng. Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh
của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người. Một cuộc khởi sự tươi mới có thể
diễn ra. Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.
Phương
pháp của Đức Giêsu thật êm dịu. Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt. Đức
Giêsu khiêm tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm
cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương,
đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ. Từ tình trạng hoàn
toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách và dứt khoát.
Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa.
Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách
trọn vẹn.
Biến
cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta.
Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và
soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng. Tất cả đều trở nên
khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho
chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ. Khi bị sa ngã vì những
thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện
các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ
nạn của Người.
Do
đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng
ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.
19. Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc
sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: "Dấu Chân", giai điệu slow nhẹ nhàng
thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.
1.
Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển. Chiều về nhìn sau
lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi. Này là dấu chân to, và kìa là
dấu chân nhỏ. Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.
ĐK.
Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ. Đôi khi có những bước phôi pha,
mà hình bên bóng chẳng rời xa. Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.
2.
Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn. Chiều về nhìn sau
lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn. Lạ lùng dấu chân to, và nặng
nề vết in đậm. Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?
Ca
khúc được dệt nhạc từ truyện "Footprints".
Có
một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi
biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
-
Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng... anh thấy có bốn dấu chân trên cát.
Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để
chia sẻ niềm vui với anh.
-
Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu...anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và
anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại.
Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau
đó, anh thắc mắc với Chúa: "Khi con thành công, hạnh phúc...Chúa lại đồng
hành với con, đi với con...Nhưng khi con thất bại, đau khổ...những lúc con cần
Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như
thế?".
Chúa
Giêsu trả lời: "Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành
cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của
Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con".
Câu
chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo
đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ
và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.
Câu
chuyện "Trên đường Emmau" là một trong những câu chuyện Tin Mừng
tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong
cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm
xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy
vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem
để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.
Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã
kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về
quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với
những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô
đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to
của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông
mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó,
vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích
tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn
bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng
kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông
mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh
chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã
thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy
Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục
Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn
tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên
đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công
bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông
Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Đường
Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa
xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một
con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi
dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc
về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi
hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ
diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người
làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp
thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ
sống.
Sứ
điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh,
Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để
chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.
1.
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh
Chúa
Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi
đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh
Kinh "Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ
những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh". Người đã giải
thích cho các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng
tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về
Thầy đều phải được ứng nghiệm" (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ
hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại,
mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của "Đức Kitô hôm qua, hôm nay,
mãi mãi vẫn là một". Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến
đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở
Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc
Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần
của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân
nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân
chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng
Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh
Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
Thánh
Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và
lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: "Trong các Sách
Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và
ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến
độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức
tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu
cho con cái của Hội Thánh" (MK21).
Học
hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần
thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK
21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để
giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng
mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước
nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung
tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và
lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để "khi phải truyền đạt
kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời
Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng" (MK 26).
2.
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh
Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng,
hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa
Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử
chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh,
nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người
các ông đổi mới.
Chúng
ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục
Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh
Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa
Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh
"duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" biểu lộ căn tính
của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa
Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể,
mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với
nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu
thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể,
cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong
đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư "Mane Nobiscum
Domine", số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).
Chúng
ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và
trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một
cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng
ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là
có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để
chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ
thực sự với Người.
3.
Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh
Hai
môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng
Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ
nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia
sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng
như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ
là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một
đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài
nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính
Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem
là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ
mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội
Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ
đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là
một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh
truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".
Mỗi
Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái
chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý
(Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu,
đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp
nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình
hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn
đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Chúa
Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo "bao nhiêu
dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ". Chúng ta bước theo Chúa trên hành
trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân,
cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.
20. Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ – JKN.
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Đặt mình vào địa vị các tông đồ khi gặp Đức Giêsu sống lại lần đầu tiên, bạn có
dễ dàng tin rằng Ngài hiện diện thật sự trước mắt mình không? Hiện nay, bạn có
tin rằng Ngài đang thật sự hiện diện bằng thần khí trong tâm hồn bạn không?
2.
Đức Giêsu đang hiện diện ở trong tâm hồn ta có khả năng hoạt động, dạy dỗ, biến
cải ta như Ngài đã từng hoạt động, dạy dỗ, biến cải các tông đồ ngày xưa không?
Sự hoạt động của Ngài có lệ thuộc vào thái độ nội tâm của ta không?
3.
Ta phải làm gì để được Ngài dạy dỗ, biến cải một cách hữu hiệu?
Suy
tư gợi ý:
1.
Đức Giêsu mời gọi ta cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài
Sau
khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông
kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giêsu trấn an
các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải
bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy
và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. - Hiện nay, Đức Giêsu đang thật sự
hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người
trong chúng ta - cũng giống như các tông đồ xưa - không dám tin vào điều ấy.
Nếu có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình
bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: «Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn
chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như
anh em thấy Thầy có đây?» - Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện đích
thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy
Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.
2.
Hiện nay, Đức Giêsu có ở với chúng ta không? Ngài ở đâu?
Trước
khi chịu khổ nạn và tử hình thập giá, Đức Giêsu đã sống giữa các tông đồ, để
dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu
hình hữu tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu
theo kiểu cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân
xác của Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh
các ông một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến
Đức Giêsu và các ông xa cách nhau hơn? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn
ở cùng các ông nữa không?
Không
phải vậy. Trước khi về trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời
khỏi các môn đệ, Ngài nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt
28,20). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy
thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý! Đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy phải ra đi và
không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận
thế!» Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài?
Chắc
chắn không phải như vậy! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng
Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và
bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta
hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nào chúng ta muốn, một cách hết sức
dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức
mạnh cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong
chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng
nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ
người Kitô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được
bình an, sức mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.
3.
Phục sinh Đức Giêsu trong ý thức và nội tâm ta
Đức
Giêsu hứa với chúng ta: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “(Mt
28,20). Ngài cũng nói với Chúa Cha: «Con ở trong họ và Cha ở trong con » (Ga
17,23). Thánh Phaolô nhắc lại sự hiện diện ấy: «Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở
trong mọi người » (Cl 3,11); «Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự
trong lòng anh em » (Gl 4,6). Như vậy, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với
và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng
gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng
trên các ông? - Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có
khả năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do
cộng tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện của
Ngài trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác
Ngài trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả. Chính
ý thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta làm cho Ngài
«sống lại» trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy
thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong đức tin. Thánh Phaolô yêu cầu ta
kiểm điểm lại đức tin của mình: «Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong
đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu
Kitô ở trong anh em sao?» (2Cr 13,5).
Vì
thế, để lời hứa của Ngài - là ở với chúng ta - trở nên hiện thực, chúng ta phải
tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm
mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng
thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật
sự. Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để
Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị
hạn chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống,
nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20). Nói cụ
thể hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm (suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ,
nghỉ...) đều không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giêsu làm
trong tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội
tâm mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức
Giêsu. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu
trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.
4.
«Những gì...đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm»
Khi
chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giêsu trong bản
thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy «tất cả những gì sách Luật Môsê, các
Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm» ngay trong
bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh.
Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các tổ phụ, với Môsê
(đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn), những lời hứa của Ngài đối với Dân
Ngài qua các ngôn sứ, qua các lời Thánh Vịnh (sự thái bình, thịnh vượng…) đều
được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế
nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy
thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nên «không ai lấy mất được» (Ga 16,22).
Lúc ấy Bát Phúc trong bài giảng trên núi của Đức Giêsu sẽ trở nên hiện thực và
cụ thể trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị
thánh thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ
cảm nghiệm được thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian
lao thử thách. Hạnh phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài
tất cả những hy sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ
Kitô hữu nào ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong tâm hồn mình, và hoàn
toàn sống với ý thức ấy đều có thể cảm nghiệm được.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, Đức Giêsu vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến
Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện
diện của Đức Giêsu trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì
ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và
thường xuyên sống với ý thức ấy, để làm cho Đức Giêsu trở thành sống động trong
con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc. Amen.
21. Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng
Nói
rằng Thánh Kinh là Lời Chúa là đúng, vì Thánh Kinh là bộ sách được viết ra dưới
sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhưng hiểu Lời Chúa chỉ được chứa đựng trong
Thánh Kinh mà thôi là một quan niệm thiếu sót, hẹp hòi. Vì Lời Chúa chính là
Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, và một khi đã nhập thể làm người
để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại Lời Chúa đã mang một tên gọi là Giêsu
Kitô. Do đó, nơi chính con người, cuộc sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô mà
cao điểm là Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Thiên Chúa đã thực hiện công
trình cứu độ chúng ta và dạy chúng ta mọi sự. Đó là một trong những chủ đề được
gặp thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Thánh
Kinh Cựu Ước bao gồm mọi điều Thiên Chúa mạc khải cho Dân Do thái qua các tổ
phụ và các tiên tri để giúp họ chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu
Kitô. Qua cuộc sống được kết thúc bằng Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Đức
Giêsu Kitô đã hoàn tất những gì Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ và các tiên
tri nơi Thánh Kinh Cựu Ước. Đó là nội dung lời chứng của Thánh Phêrô trong Tông
Đồ Công Vụ nơi bài đọc một trong Phụng Vụ hôm nay, nhất là nơi câu: “Thiên Chúa
đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước: Đức Kitô của Ngài
phải chịu khổ hình” (Cv 3:18).
Trong
Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệsau khi ăn cá
nướng và mật ong trước mắt họ, Chúa Giêsu đã vừa cho thấy sự xác thực của mọi
lời Người từng nói với các ông vừa xác định Người chính là Đấng Kitô –Đấng
Mêsia-là trung tâm của lịch sử ơn cứu độ mà Thánh Kinh Cựu Ước đã báo trước,
vừa là Đấng giúp các môn đệ am hiểu Thánh Kinh. Thánh Sử Luca viết: “Đoạn Người
phán: Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần
phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách các
tiên tri và thánh vịnh. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc
24:44-45).
Ngày
nay, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích Thánh Kinh cho chúng ta qua Huấn Quyền của
Hội Thánh luôn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Việc ghi nhớ và hiểu biết
đầy đủ giáo lý với các tín điều Hội Thánh dạy thật quan hệ trong việc giúp
chúng ta hiểu đúng Thánh Kinh. Đức Thánh Cha Bênêđictô từng dạy rằng: “Các tín
điều chính là lời giải thích Thánh Kinh chính thức của Hội Thánh”. Không có
cùng trí ý với Hội Thánh, người ta không thể hiểu đúng Thánh Kinh.
Hơn
nữa, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua-Cuộc Khổ Nạn và Phục
Sinh-của Người chiếm vị thế trung tâm trong chương trình cứu độ. Như thế, toàn
bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước cũng như Tân Ước-phải được đọc và giải thích dưới ánh
sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Đồng thời, Hội Thánh bao gồm các môn đệ
đích thực của Chúa Kitô sẽ tiếp tục sứ mạng của Người khi rao giảng nhân danh
Người và làm chứng về Người, mời gọi mọi người sám hối để lãnh ơn tha tội.
Người phán: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ
ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống
hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Còn
các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24:46-48). Điều này
cũng đã được Chúa Giêsu nói với hai môn đệ truớc đây, khi Người hiện ra và đồng
hành với họ trên đường Emmau (Lc. 24:13-35).
Vì
vậy, muốn hiểu đúng Thánh Kinh, chúng ta phải đón nhận sự khôn ngoan của mầu
nhiệm Thánh Giá, phải chấp nhận bước đi trên Đường Thánh Giá, con đường của hy
sinh từ bỏ, con đường của tình yêu xả kỷ vị tha, con đường chính Chúa Giêsu đã
đi qua. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu ngay ở chương đầu đã nhận xét: “Sở dĩ
nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có
tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của lời Chúa, cần phải tập
sống đời sống của Chúa” (Q. I, Ch. 1). Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng kể
rằng: “Bài giảng đầu tiên con nghe và hiểu được là bài giảng về Thánh Giá. Và
từ đó, con nghe và hiểu được mọi bài giảng”.
Trong
bài đọc hai trích thư thứ nhất của Thánh Gioan, chúng ta lại học biết rằng mục
đích của Thánh Kinh chính là giúp chúng ta khỏi phạm tội; mà nếu chúng ta đã
phạm tội thì sẽ được đón nhận ơn tha tội nhờ sám hối và tin vào Chúa Kitô là
của lễ đền tội cho toàn thể nhân loại. Trên hết, Thánh Kinh hay Lời Chúa hoặc
Luật Chúa là phương thế tuyệt hảo giúp chúng ta buớc vào và sống trọn liên hệ
yêu thương với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa. Hơn nữa, việc nghe và giữ Lời Chúa
còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
Thánh
Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con
đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng
Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng
ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian.
Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu
chúng ta giữ các giới răn của Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ các
giới răn của Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ
lời Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Ga
2:1-5a).
Câu
nói thời danh của Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Jerome dường như chỉ là một lời lập
lại và tóm lược những lời trên của Thánh Gioan: “Không biết Thánh Kinh là không
biết Chúa Kitô”. Các học giả Thánh Kinh còn đưa ra nhận xét độc đáo này: “Thánh
Kinh được viết bởi những người tin, được viết cho những người tin, được viết để
xây dựng và rao truyền đức tin”. Vì vậy, tin vào Chúa Kitô và Hội Thánh là cách
chắc chắn nhất để học biết Thánh Kinh một cách đúng đắn.
Thật
là thích đáng khi Hội Thánh dùng lời tung hô Alleluia trong Phụng Vụ hôm nay để
dâng lên Chúa Giêsu lời nguyện chí thiết này: “Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích
cho chúng con những lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi
nghe Chúa nói với chúng con”.
Nếu
Chúa Nhật tuần trước được dành để suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, thì Chúa Nhật
hôm nay có thể được dành để suy tôn Lời Chúa, suy tôn Thánh Kinh.
Lạy
Mẹ Maria là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ
để say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa, dưới ánh
sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần
trong niềm hiệp thông vâng phục trọn vẹn với Hội Thánh. Amen.
22. Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Chính
anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Những điều này là những điều gì đây?
Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô
phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người
mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn
tha tội” (Lc 24,47).
Phải
nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô là một chủ đề chính của
lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến
mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh
Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuẩn nhận. Theo luật hiện hành thì phải
chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh
chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ
rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lại thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.
Cả
hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời.
Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ
có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc
khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Không có tình yêu
nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga
15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng
rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là
Đấng đã tử nạn.
Đấng
tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa
Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo.
Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục
của chúng ta. Không chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã
phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh
Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời
cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là
bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho
Người…” (Col 1,16).
Sự
suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là,
chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với
Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định
qua bài đọc thứ hai:“Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết
Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”(1 Ga 2, 4). Các
Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải
vâng lời Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).
Đấng
phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi
cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian,
Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga 3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả
sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật
được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem
lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20).
Tuyên
xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con
người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu
khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải
ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua
cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã
chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được
trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi
người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có
tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn
chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính
anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa
vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân,
anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà
còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối
ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng
việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh
Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang
làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo
Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay mà cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn
thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã
từng cảm nghiệm rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
23. Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ
(Chú
giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Chương
24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn:
-
Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với Mc và Mt;
-
Các môn đệ Emmau (cc. 13-35);
-
Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một (các ông nhận ra Chúa: cc. 36-43; Người ban
sứ điệp Phục Sinh: cc. 44-49);
*
Một kết luận ngắn với câu truyện Lên Trời và việc các môn đệ tạ ơn trong Đền
Thờ, từ đó Tin Mừng đã khởi sự.
Toàn
khối này là một đơn vị văn chương chắc chắn, do hành động, nơi chốn và thời
gian.
Trong
TM Lc, Đức Giêsu chỉ hiện ra tại Giêrusalem, và Nhóm Mười Một không ra khỏi Thành
(c. 48). Điều này trái ngược với ba Tin Mừng kia (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc
16,7; Ga 21). Tác giả Lc có biết truyền thống nói về việc Đức Giêsu hiện ra tại
Galilê (24,6; x. Mt 28,7; Mc 16,7), nhưng dường như ngài đã chọn cách lờ đi để
duy trì cấu trúc đơn giản của hai quyển sách của ngài: quyển Tin Mừng là một
chuyến đi lên Giêrusalem, còn quyển Công vụ là sự lan tỏa của sứ điệp khởi đi
từ Giêrusalem (Cv 1,8).
Nhờ
lược đồ này, tác phẩm Lc (TM+Cv) có một sự đối xứng rất khéo và nêu bật được
tính duy nhất của biến cố Phục Sinh.
Cũng
do mục tiêu ấy, tác giả đã làm cho chương 24 có tính duy nhất hoàn toàn giả tạo
về thời gian: Mọi biến cố nối đuôi nhau xảy ra trong vòng một ngày (mồ trống;
Emmau; Hiện ra; Lên trời). Viễn tượng của Lc mang tính thần học hơn là thời
gian. Tác giả muốn trình bày trong một cảnh (“xen”) duy nhất toàn bộ mạc khải
về Phục Sinh: thực tại không thể phủ nhận là thân xác của Đấng Phục Sinh; mạc
khải về tư cách Đức Chúa của Người (vì thế có truyện Lên trời); sứ mạng truyền
giáo. Ngày này là ngày Phục Sinh, đỉnh điểm của Tin Mừng, đích điểm của thời
gian Đức Giêsu sống ở trần gian.
Ngày
này cũng mở ra một giai đoạn mới, và Lc đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Có lẽ tất
cả các tác giả Tin Mừng đều biết rằng cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu là khởi điểm
cho hoạt động truyền giáo (Mt 28,19-20; Mc 16,15-20; Ga 20,21.23), nhưng chỉ có
Lc mới dành cả một quyển sách để viết về hoạt động này. Và khi tách quyển này
với quyển Tin Mừng, tác giả cho thấy sự tách biệt giữa thời gian của Đức Giêsu
và thời gian của Giáo Hội. Ngài cũng làm điều ấy bằng hai lần nhắc tới Lên
trời: ở cuối quyển TM III, biến cố Lên trời biểu lộ cuộc tôn vinh Đức Giêsu bên
hữu Chúa Cha và kết thúc mạc khải Đức Giêsu là Đức Chúa; ở đầu sách Công vụ,
biến cố Lên trời mời gọi các tông đồ bắt tay vào sứ mạng truyền giáo.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (24,35-43);
2)
Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (24,44-48).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Bình an (36):
Khi kéo theo việc mất niềm tin, sự chia ly chỉ tạo ra buồn sầu và hoang mang
(cc. 17.38). Nếu cách biệt mà vẫn sống trong đức tin, thì sẽ có niềm vui (c.
52) và bình an (c. 36). Đây không chỉ đơn giản là lời chào shalôm, mà là việc
ban tặng “sự bình an thiên sai” đã được các ngôn sứ loan báo và Đức Giêsu hứa
ban trước khi chịu chết (x. Ga 14,27). Đây là sự bình an đạt được với giá là
cái chết của Người trên thập giá; đây là việc giao hòa nhân loại với Thiên Chúa
trong máu Đức Kitô (x. Rm 5,1.10; 2 Cr 5,18-19;…).
-
Các ông kinh hồn bạt vía (37):
Khi đọc Mc (16,9-20), ta thấy Nhóm Mười Một không tin (x. Mc 16,10.13). Còn ở
trong Lc, hai môn đệ Emmau trở về chưa kịp làm chứng thì Nhóm Mười Một cùng với
các bạn đã tuyên xưng đức tin rồi (24,33)! Thế nhưng khi Đức Giêsu hiện ra sau
đó, các ông lại kinh hồn bạt vía và ngờ vực (cc. 36-38). Tác giả Lc đã chấp
nhận tình trạng thiếu mạch lạc đó vì một ý hướng thần học: trong số các tông
đồ, Phêrô rõ ràng có một vị trí riêng biệt. Ông có một vai trò phải đóng sau
tấn bi kịch Thương Khó (Lc 22,31-32). Nay để cho thấy lời của Đức Kitô đã đến lúc
ứng nghiệm, Lc nhắc đến việc Đức Giêsu hiện ra với Phêrô trước khi hiện ra tại
nhà Tiệc Ly, và ghi một câu cho thấy lòng tin của Phêrô là nguồn mạch cho đức
tin của những người khác (c. 34). Bài học là đức tin của mọi thế hệ tương lai
sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ và, đặc biệt, của Phêrô.
-
sao còn ngờ vực (38):
Trong thời gian hoạt động, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu lòng tin, chẳng
hạn khi gặp bão trên hồ (x. Mt 8,23tt). Mối nguy hiểm đã gặp cũng như quyền
năng đã chứng kiến của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp họ học được bài học: cũng như
xưa kia Người đã ngủ trong thuyền, thì nay cũng thế, ở trên thập giá, Người đã
chỉ “ngủ” đi vài giờ; trong mồ, Người chỉ “nghỉ” thôi (x. Lc 23,46; 8,52; Ga
11,11), nhưng Người đã “trỗi dậy” (Lc 24,6: động từ egeirô có nghĩa là “thức
dậy”, “sống lại”). Không phải là Thiên Chúa đã che mắt họ, nhưng chính lòng kém
tin đã khiến họ không nhận ra Đức Giêsu. Chính cái chết mà nhờ đó Đức Giêsu cứu
chuộc thế gian, lại bị các môn đệ coi như một thất bại không thể cứu chữa. Và
kể từ khi Đức Giêsu được an táng, các môn đệ không tin nữa! Họ từ chối tin khi
các phụ nữ đến mang tin nói rằng ngôi mộ trống và các thiên thần đã hiện ra nói
rằng Người đang sống (c. 23). Chỉ có Phêrô (và người môn đệ Đức Giêsu thương
mến, theo Ga 20,2tt) có vẻ hơi bị lung lay, nên đã chạy đến mộ để xem hư thực
thế nào. Ông nhận thấy rằng thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa; chỉ còn các
dây băng. Nhưng không phải vì đó mà Phêrô đã được thuyết phục (c. 12). Do đó,
mộ trống không phải là một bằng chứng rõ ràng về sự phục sinh, mà chỉ là một
dấu chỉ thôi.
-
nhìn chân tay (39):
Các dấu chỉ không phải là vô ích; chúng có có một vai trò quyết định trong việc
phát sinh đức tin. Các dấu chỉ dường như còn cần thiết nữa để người ta nhận ra
được Đức Giêsu sau khi Người sống lại. Nhưng tùy tình trạng nội tâm của mỗi
người mà các dấu chỉ nên rõ nhiều hay ít. Đối với người phụ nữ tội lỗi đang
yêu, chỉ cần Đức Giêsu gọi đúng tên bà: “Maria” (Ga 20,16). Đối với người môn
đệ Đức Giêsu thương mến, chỉ cần ngôi mộ trống (Ga 20,8) hoặc mẻ cá lạ lùng (Ga
21,4-7). Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc bẻ bánh (Lc 24,30-35). Đối với các
tông đồ, cần phải có những dấu chỉ rõ ràng hơn: thấy các vết thương, chạm đến
thân thể Người, và cả con cá mà Người ăn trước mặt họ (24,39-43). Với “khúc cá
nướng”, tác giả Lc muốn cho thấy thực tại thể lý của Đấng Phục sinh, bởi vì đây
là khó khăn lớn đối với các độc giả hy-lạp (x. Cv 17,32).
-
Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin (41):
Tác giả Lc tìm ra một lời bào chữa cho sự cứng tin của Nhóm Mười Một.
-
Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh (44): Có khi Đức Giêsu đã trách các môn
đệ là đã không tin vào những lần Người hiện ra, nhưng những dịp này không loại
bỏ tính cần thiết của các dấu chỉ, nên theo một nghĩa nào đó, các dấu chỉ có vẻ
cốt yếu hơn là các cuộc hiện ra (x. chuyện Tôma: Ga 20,29).
Tuy
nhiên, Đức Giêsu vẫn không ngừng trách các môn đệ cũng như người Do Thái khi họ
yêu cầu các dấu lạ. TM Lc đã nhắc đi nhắc lại: lẽ ra chứng tá của Kinh Thánh đã
đủ rồi! Kể từ lâu rồi, “Luật Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh” (= Kinh
Thánh) đã loan báo tất cả những gì vừa được thực hiện (x. Lc 24,27.32).
Ý
tưởng Môsê đã làm chứng cho Đức Kitô thuộc về truyền thống Nhất Lãm như ta thấy
trong hoạt cảnh Hiển Dung. Tuy nhiên, trong khi Mt và Mc chỉ ghi nhận rằng Môsê
và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Đức Giêsu, Lc lại xác định: “Hai vị nói về cuộc
xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”, tức gợi ý rõ ràng đến mầu nhiệm
Vượt Qua (Lc 9,31; so sánh với 24,14.20). Tác giả Lc cũng là người duy nhất đã
ghi giữ một lời Đức Giêsu nói nhằm khẳng định rằng chứng tá của Môsê và các
Ngôn sứ đã đủ thuyết phục như chứng tá của một người chết sống lại (x. Lc
16,27-31). TM IV cũng nhấn mạnh không kém đến tầm quan trọng của chứng tá của
Môsê về Đức Giêsu (Ga 5,46-47). Tuy nhiên, chỉ có Lc mới trở lại với đề tài này
trong bài tường thuật về Phục Sinh.
Tự
hỏi Đức Giêsu đã trích những bản văn Kinh Thánh nào khi Người hiện ra, thì mất
công vô ích. Tác giả Lc đã chỉ ghi lại những quy chiếu tổng quát về toàn bộ Cựu
Ước theo các phần lớn được phân biệt trong các bài đọc ở hội đường (24,44):
Luật Môsê (bản séder), các ngôn sứ (bản haftara) và các Thánh vịnh (bản
mizmor). Dĩ nhiên, tác giả đã có thể nghĩ đến những bản văn rõ rệt. Khi ghi lại
các bài giảng của các tông đồ, sách Cv đã ghi một loạt những đoạn văn quy
chiếu: Tv 16,8-11 (Cv 2,24-28; 13,34-37); Tv 2,7 và Is 55,3 (Cv 13,32-34); Tv
118,22 (Cv 4,11)…
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (35-43)
Đức
Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông và chào chúc: “Bình an cho anh em!”. Sự
bình an của Người là ân huệ phục sinh của Người. Người không ban cho các môn đệ
bất cứ đảm bảo nào là các ông sẽ sống yên ổn suốt đời, các ông sẽ có một cuộc
sống luôn luôn huy hoàng, không phải thiếu thốn, đau khổ hay lo lắng gì. Chính
Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh, đã không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu
thốn, khỏi bị từ khước và thù nghịch, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng
Đấng Chịu đóng đinh đây cũng chính là Đấng Phục Sinh. Đã có lúc Người bị điệu
đi đến cái chết, run rẩy khiếp sợ, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là
Đấng Vẫn Sống, Đấng đã vượt thắng cái chết và nay không thể chết nữa. Như thế,
Đức Giêsu cho các môn đệ thấy rằng họ không sợ rơi vào nguy cơ là bị hủy diệt
hoàn toàn. Ngay cái chết cũng không thể làm hại chúng ta vĩnh viễn, phương chi
các thiếu thốn khác làm gì có thể gây hại bao nhiêu cho đời sống chúng ta! Ân
huệ phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự bình an của một cuọc sống không bị
xáo trộn, nhưng là sự bình an được sống trong tình trạng yên hàn, bảo đảm và
che chở phát xuất từ quyền lực và tình yêu của Thiên Chúa. Nền tảng và bảo đảm
cho lời chào và ân huệ ấy là chính Đấng Phục Sinh trong sự sống mới của Người,
một sự sống đã thắng được cái chết.
*
Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (44-48)
Trong
tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể
định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu
ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của
Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau
này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong
chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công
trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại,
muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải
quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của
Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến
các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố
trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở
về trời (x. Cv 1,21t).
+
Kết luận
Đức
Giêsu đã thuyết phục các môn đệ tin vào thực tại của đời sống mới của Người.
Người đưa các ông đến chỗ hiểu Kinh Thánh và hành trình Người theo lâu nay.
Người chỉ cho các ông thấy nội dung của việc loan báo và nhiệm vụ truyền giáo.
Người củng cố các ông trong tư cách chứng nhân, bằng cách hứa là các ông sẽ
nhận được quyền năng từ trên cao (Lc 24,49). Tất cả những điểm này đang đưa
chúng ta đến chỗ kết của TM III, và chuyển chúng ta sang phần thứ hai của tác
phẩm Luca, đó là sách Cv. Thánh Thần sẽ được Chúa Cha ban xuống trên Họi Thánh
phôi thai (Cv 2,1) để làm cho các thành viên trở thành những chứng nhân minh
mẫn và can đảm, quảng đại và kiên trì dấn thân làm chứng về Đức Giêsu Phục
Sinh.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Đức Kitô chết trên thập giá đã thật sự sống lại, bằng xương bằng thịt. Sự kinh
hồn bạt vía và ngờ vực của các tông đồ lại hữu ích cho chúng ta: chính thái độ
khó tin đó của các ông lại là một đảm bảo cho tính vững chắc của đức tin chúng
ta. Đức tin của chúng ta không dựa trên chứng tá của những con người dễ tin, dễ
bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đức tin của chúng ta dựa trên những con người thực
tế, đòi hỏi những dấu chỉ và bằng chứng. Chứng tá của các ông càng mạnh mẽ do
chỗ là chứng tá không phải của một thái độ dễ tin theo chuyện mê tín nhưng là
một sự cứng tin đã thắng vượt nhờ óc phê bình.
2.
Nhiều người đương thời chúng ta vẫn coi Đức Giêsu Phục Sinh chỉ là một bóng ma,
một thứ gì đó thay vì là một Đấng, là một huyền thoại thay vì là một Con Người
đang sống. Theo họ, Đức Kitô cùng lắm chỉ là một điển hình cho nhân loại, cống
hiến cho mọi người một giáo lý và những gương sống đáng phục…, nhưng bây giờ
Người không còn sống nữa, Người chẳng “ngự bên hữu Chúa Cha” trên trời, cũng
chẳng hiện diện trong hình bánh hình rượu đã truyền phép… Trách nhiệm của các
Kitô hữu là làm chứng bằng đời sống và lời nói rằng Người thật sự vẫn là Người
Sống.
3.
Vấn đề không phải là chuyện nhạy cảm hoặc kinh nghiệm cá nhân chủ quan. Vấn đề
là tin, tin tất cả những gì Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta bằng Kinh Thánh và
bằng Thánh Truyền. Vấn đề là tin những gì Hội Thánh đã và đang dạy khắp nơi.
Tin vào Đấng Phục sinh, là chấp nhận chứng từ của một nhóm đông đảo gồm các
tông đồ và các môn đệ của Đức Giêsu đang khẳng định trước mặt thế giới và sẵn
sàng chấp nhận tử đạo rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá nhưng đã trở
lại với cuộc sống trong một thân xác hiển vinh không còn lệ thuộc các hoàn cảnh
thông thường của thời gian và không gian nữa.
4.
Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều trở ngại, do chẳng hạn có những Kitô
hữu, vì hèn nhát, đang sống ích kỷ hơn, sống hà tiện hơn, kiêu ngạo hơn, trơ
trẽn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng tất cả chúng ta biết rằng Đức Kitô Phục
Sinh muốn họ hoán cải: Người muốn tha thứ tất cả và biến họ trở thành tông đồ
của Người, và điều này không bao giờ là quá trễ, nhằm nối tiếp các Tông Đồ đầu
tiên.
24. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm
nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”.
Theo
Tin Mừng của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:
-
Các phụ nữ đến viếng mộ vào buổi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24,
1-10).
-
Phêrô cũng đến thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
-
Chúa hiện ra với hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
-
Chúa hiện ra với mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
-
Đức Giêsu thăng thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).
Còn
hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra
Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến,
đứng giữa các ông.
Từ
ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương
này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn
Ghétsêmani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa
như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa
thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mười Hai trở
thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!
Chính
trong bối cảnh này mà cuộc "Phục sinh" xảy đến một cách bất ngờ và
làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.
Người
nói với các ông: "Chúc anh em được bình an"
Đó
là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!" có nghĩa là
"Bình an”.
Nhưng
ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một
ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến
trấn an các ông: "Anh em đừng sợ", "Hãy an tâm". Theo Thánh
Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các
tông đồ sẽ được bình an sau một 'thời gian khủng hoảng đớn đau’: "Thầy để
lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính
Thầy" (Ga 14,27). "Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy
cô đơn”. “Thầy nói với anh em những điều ấy để nhờ kết hợp với Thầy, anh em
được bình an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,32-33).
Hôm nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.
Các
ông sợ hết hồn hết vía, tưởng là thấy ma.
Rõ
ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm "Mười Một" bắt
đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự
kiện Đức Giêsu phải "mở trí lòng" họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ
ngắm nhìn thì chưa đủ còn phải "mở trí lòng" tới mầu nhiệm.
Nhưng
Người nói: "Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân
tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy
đây?"
Trong
trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem "tay và
cạnh sườn" Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem
"chân tay" Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan "cạnh
sườn" rộng mở tượng trưng cho nguồn nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời
tiên báo của ngôn sứ Êdêkien.
Những
điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức
Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là
những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của
Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người
sống động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không
phải là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể
giản lược vào nguyên một tình trạng "linh hồn bất tử". Do đó, mọi chi
tiết trên đây đều diễn tả cách cụ thể: "Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay
Thầy. Hãy cho Thầy ăn".
Tuy
nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ
diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý
đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: "Chúa là thần khí”(2Cr
3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một "thân-thể-thuộc-linh”
(1Cr 15,44).
Các
ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây
anh em có ăn gì không" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm
lấy và ăn trước mặt các ông.
Việc
ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này
Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, "cùng uống với
Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10,41). Trong trình thuật
của Luca trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu
không khí vẫn là khung cảnh của những "bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ
sẽ nhận ra một sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.
Rồi
Người bảo: "Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với
anh em"
Công
cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ
hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn "tâm
trí" vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông
đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng "ký ức” Người đã báo trước cái chết và
sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa
Đức Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và
Đức Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.
Về
vấn đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở
với anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện
diện với chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy,
nhưng Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là
Người, nhưng không phải y như trước. Đây luôn là mầu nhiệm đức tin.
Tất
cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy
đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.
Các
Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng
ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc
lại cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. "Kinh
thánh đã nói về đời tôi!". Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta
hình dung ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh
thánh. Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kiện
cho chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc
thay hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các
văn bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đã đi đúng hướng
biết bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô
hữu, biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ "trễ
muộn", bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh
lễ, thời gian mà "Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh".
Người
bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: "Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày
thứ ba sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.
Ôi!
nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời
ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta
biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu "tự nhận ra
mình" và nhờ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản
văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23;
Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương
trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến "việc hoàn
tất" này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ.
Những bài thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng,
"đau khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn
đạt tới một sự phong phú phi thường". Thực vậy người ta phải vượt qua giai
đoạn đau khổ mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của
Thiên Chúa cho mọi dân tộc, "sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã
hiện diện trong các bản văn đó (Is 49,50).
Đấng
Mêsia phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao
giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng,
mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước
hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ
tội nhân sẽ được tắm trong "nước tha thứ tội lỗi", sẽ được ghìm ngập
trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần,
Đấng tha thứ và "ban sự sống". Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta
gặp lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: "Đức Giêsu
thổi hơi để tha thứ tội lỗi!".
Và
chúng ta đón nhận sứ điệp "Phục sinh" đó. Chúng ta có thể nói, Phục
sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một "métanoia":
Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là
một động lực sống! Nó luôn vận hành.
Phải
rao giảng cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em
làm chứng về những điều này.
"Sứ
vụ của Giáo Hội" khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động
Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống" giữa các nhân chứng của Người,
từ một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là
nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên,
và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó
hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ
chết, đã trở thành nơi có "ngôi mộ trống", nơi của sự sống hiển
thắng.
Lạy
Chúa, xin ban cho con "sức mạnh" từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để
con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh,
xin hãy ngự đến.