CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
26. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
27. Theo Chúa
Giêsu vào đền thờ cầu nguyên catholic.org.tw
28. Vì thương,
Thiên Chúa dạy chúng ta... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
29. Đên thờ của Thiên
Chúa Lm Giuse
Đinh lập Liễm
30. Đền thờ mới
là thân mình... Lm. Phêrô Lê văn Chính
31. Thanh tẩy
bản thân Linh
mục Inhaxiô Trần Ngà
35. Thanh tẩy
đền thờ Đan
Vinh
37. Đền thờ đích
thực của.... Achille Degeest
40. Cơn tức giận
Sưu tầm
1. Yếu
tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX.
Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn
kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông
lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ
thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn.
Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc.
Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt
một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý
tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước
ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn
quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý
vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn
nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó
chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã
biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm
cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa
Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây
dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân
xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria:
Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong
tinh thần và chân lý.
Với những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt
nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ
cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc
tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi
đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm
hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài.
Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất
hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn
vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng
ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài
hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành
một hang ổ trộm cướp?
2. Đền
thờ.
Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán
chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng
ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo
từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể
nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả
không hay biết.
Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác
ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội.
Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý,
chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình.
Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi
thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi
là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến
thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà
Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi
tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của
họ.
Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm
hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi
cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc,
của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì
như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông
chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng
những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng
gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê
chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng
như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc
ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ
không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu,
Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn
chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?
3. Thanh
tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm
môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại.
Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước
biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng
nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi
khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát
triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường
khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm
trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được
trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần
được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã
làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong
nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy
sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi
mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một
con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy.
Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay
trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền
thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh
cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện
ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang
mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm,
Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả
đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh
tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu
tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên
tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con
buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi
nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để
cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục
vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã
cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi
tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền
bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy
cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta
dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật.
Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán
thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is
1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có
thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta
đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm
nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một
tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng
Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm
trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được
Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu
chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để
làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến
đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự
ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công
việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là
điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính
bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh
tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền
bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam
mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất
công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền
thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ
những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa
chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương
tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm
hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang
nghiêm, lắng đọng không?
2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh
tẩy không?
3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng
cho Chúa ngự?
4. Với
Đức Giêsu: Thiên Chúa trên hết
(Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu Nadarét là một sự kiện rất đặc biệt. Những người đồng
hương nhận ra Ngài là một người như bao người; tuy nhiên, sau khi Ngài chết và
sống lại, người ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài là Đấng sống ơn
gọi làm người cách trọn vẹn, là Người sống theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha dù phải
chết. Thiên Chúa là tất cả đối với Đức Giêsu.
I. Thập Giới diễn tả Ý Muốn Thiên Chúa
Thiên Chúa khi sai Môsê đi giải phóng dân Israel khỏi Aicập, đã
nói: “khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên
núi này” (Ex.3, 12). Môsê đã dẫn dân đến núi này, và Thiên Chúa đã “thần hiển”
với Môsê và dân (Ex.19). Thập giới là điều khoản Thiên Chúa giao kết với Israel,
nghĩa là, nếu dân Israel giữ các điều khoản này, Thiên Chúa sẽ là Thiên Chúa
của dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ dân.
Điều khoản giao ước không thêm gì cho Thiên Chúa, nhưng giúp dân
Israel triển nở và hạnh phúc. Một khi người ta giữ giao ước, những người được
hưởng nhờ đầu tiên là gia đình và những người thân yêu, sau đó là những người
lân cận, rồi tới những người trong đất nước. Khi giữ giao ước, con người sẽ
sống an bình với chính mình, và sau đó với người khác. Giao ước Thiên Chúa ban
cho con người, không nhằm lợi cho Thiên Chúa nhưng cho con người. Tuy vậy, khi
con người tuân giữ không vi phạm thập giới, thì Thiên Chúa được con người. Vinh
quang Thiên Chúa được tỏ lộ hơn khi con người triển nở và sống hạnh phúc hơn.
Vi phạm thập giới là dấu chỉ cho con người biết họ đã vi phạm
quyền lợi của ngôi vị, dù ngôi vị đó là Thiên Chúa hay tha nhân. Thiên Chúa tạo
dựng con người, nên theo lẽ công bình, con người phải tôn kính Ngài. Thờ phượng
là từ ngữ dùng để chỉ lòng và thái độ kính trọng đặc biệt dành cho Thiên Chúa.
Cha mẹ sinh ra mình, mình cũng phải có thái độ hiếu thảo. Không tôn kính Đấng
tạo dựng, không tôn kính cha mẹ, là bất công đối với Thiên Chúa và với cha mẹ
mình. Vi phạm những điều khác của thập giới, là xúc phạm đến quyền lợi của
người khác, chẳng hạn như giết người, cướp của người ta. Khi vi phạm thập giới,
người ta biểu lộ có điều gì đó trục trặc, gây xáo trộn nơi chính tâm hồn mình,
và gây xáo trộn bất an trong tương quan với người khác, ngay cả đối với những
người thân và những người xung quanh.
II. Đừng biến Nhà Cha Ta thành cái chợ
Sau khi chịu phép rửa ở sông Yordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu
đã trải qua thời gian dài tĩnh tâm cầu nguyện, Ngài ý thức hơn sứ mạng của
Ngài, và Ngài đã khởi đầu sứ mạng rao giảng. “Nước Thiên Chúa đang tới gần, hãy
thống hối và tin vào Tin Mừng.” Hôm nay khi lên đền thờ dự lễ Vượt Qua, một lễ
lớn nhất đối với người Do Thái, kỷ niệm Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Aicập,
Ngài đã thấy một việc trái tai gai mắt: người ta buôn bán ngay trong đền thờ.
Để có thể phục vụ những người từ xa tới có của lễ dâng cho Thiên Chúa, thì
người ta đã đem cả súc vật đến bán; cũng có bàn đổi tiền cho những khách phương
xa tới. Đức Giêsu đã phản đối. Ngài lấy dây làm thành roi đánh đuổi những người
buôn bán chiên cừu trong đền thờ, lật đổ bàn của những kể đổi tiền, nói với
những người bán bồ câu: “đem những thứ này ra khỏi đây, đừng biến Nhà Cha Ta
thành cái chợ.”
Đức Giêsu đã bị phản ứng: “ông lấy quyền gì mà làm như vậy?”
Theo luật, chỉ những người trách nhiệm mới có quyền cho phép hay không cho phép
người ta buôn bán trong đền thờ. Đức Giêsu lấy quyền gì mà đánh đuổi người ta?
Cứ theo “phép đời,” Đức Giêsu làm trái vì Ngài làm như thể Ngài có quyền mà
thực Ngài không có; thế nhưng Đức Giêsu nói với họ: “cứ phá hủy đền thờ này đi,
trong ba ngày ta sẽ dựng lại.” Câu trả lời của Đức Giêsu là câu trả lời “như
không trả lời” Ai dám làm điều đó, ai dám tin vào lời Đức Giêsu mà dám phá đền
thờ này. Tác giả Tin Mừng “giải thích” Ngài nói về đền thờ của Ngài, nghĩa là
Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Nhưng chuyện giải thích này chỉ có thể làm sau
khi Ngài chết và sống lại, chứ lúc đó, ai mà hiểu như vậy.
Đức Giêsu có quyền làm điều đó. Ngài ý thức điều đó và Ngài đã
làm cho dù đối với người khác Ngài không có quyền làm như vậy. Ngài coi đền thờ
là Nhà Cha Ngài. Ngài có quyền từ Thiên Chúa là Cha Ngài. Qua những hành vi
“bất bình thường” như thế này, giúp các tông đồ và các tín hữu sau này hiểu rõ
chân tướng của Ngài hơn. Ngài và Thiên Chúa có một mối tương quan đặc biệt, mà
Ngài dám gọi Thiên Chúa là Cha Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là hình ảnh
và biểu tượng giúp người ta hiểu biết hơn về Thiên Chúa. Ngài liên kết với
Thiên Chúa và phản ánh Thiên Chúa tuyệt đến độ người ta nhận ra Ngài là Thiên
Chúa nhập thể.
III. Chúng tôi rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh
Người Do Thái tìm phép lạ để biết điều gì đó có đến từ Thiên
Chúa hay không; người Hylạp tìm kiếm những điều khôn ngoan vì đối với họ: chỉ
có khôn ngoan mới là giá trị thật; tuy nhiên, với thánh Phaolô, Đức Giêsu chịu
đóng đinh là một giá trị, và là giá trị tuyệt đối. Kể từ khi biết Đức Giêsu,
Phaolô coi những điều khác như phân bón, rác rưởi. Biết Đức Giêsu là mối lợi
tuyệt vời đối với Phaolô (Pl.3).
Với cái nhìn tổng hợp và không loại trừ, ta có thể nói Đức Giêsu
chịu đóng đinh là một “phép lạ” cả thể và là sự khôn ngoan tuyệt vời của Thiên
Chúa ban cho con người. Qua cách sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện,
qua những hành vi dứt khoát chọn Thiên Chúa trên hết như việc đánh đuổi những
người buôn bán khỏi đền thờ, qua việc vâng phục thánh Ý Cha trên tất cả như
trong vườn dầu và trên thập giá, Đức Giêsu dạy con người biết sống sao cho đúng
trên đời này. Đức Giêsu là mẫu gương sống.
Thiên Chúa là trên hết đối với Đức Giêsu, và cũng phải như vậy
đối với những ai muốn là môn đệ của Ngài. Tất cả đời sống và hành vi của Đức
Giêsu chuyển động và quy hướng về Thiên Chúa. Đức Giêsu đã vâng phục Thiên Chúa
cho đến bằng lòng chấp nhận chết trên thập giá. Đức Giêsu chịu đóng đinh, là
mẫu gương sống của Phaolô và của tất cả các Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là tiêu chuẩn sống của Đức Giêsu? Tại sao bạn
nghĩ như vậy?
2. Con người là đền thờ của Thiên Chúa, bạn có được Thiên Chúa
mời gọi thanh tẩy tâm hồn dịp Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ không? Bằng cách nào?
5. Thân xác chúng ta là đền
thờ cần được thanh tẩy
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu rất mực hiền lành và Người cũng là mẫu mực của sự
hiền lành như lời Người mời gọi: "Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng". (Mt 11, 29)
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người dân xứ Sa-ma-ri-a ngăn
chặn không cho đi qua làng của họ để tiến về Giê-ru-sa-lem, Giacôbê và Gioan
nổi giận đùng đùng, đòi khiến lửa trời thiêu đốt làng mạc của chúng. Thế nhưng
Chúa Giêsu liền quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy mang tính gây
hấn nầy. (Lc 9, 54)
Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói
phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34),
là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột; Chúa Giêsu vẫn bình thản như
không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục hành hạ đủ điều,
bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giêsu vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu treo trên
thập giá đớn đau tủi nhục lại còn bị chế giễu nhạo cười, Chúa Giêsu chẳng những
không nóng giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh
Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến
ta nghĩ rằng Người không hề nổi giận bao giờ.
Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền
thờ thì Người không thể nào chịu nổi. Người nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan
ghi lại: "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và
những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả
bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ
câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán." (Ga 2, 14-16)
Thật không ngờ! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng.
Đấng mà 'cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ
tắt đi' (Mt 12,20) giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp
cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giêsu, việc làm ô uế Đền Thờ
là một xúc phạm nặng nề mà Người vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào
chịu đựng nổi!
Thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem
xưa. Đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: "Nào anh
em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa
ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16), hoặc: "Anh em lại chẳng biết rằng thân
xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng thân xác chúng ta là đền thờ cho Ba
Ngôi ngự trị: "Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu
mến người ấy và Chúng ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người
ấy". (Ga 14, 23)
Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa
Giêsu sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Người, đã thánh hoá nó bằng lời hằng
sống và hiến ban Thịt Máu Người trong bí tích thánh thể để bồi bổ nó nên vạn
lần cao đẹp.
Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người
là đền thờ vô giá!
Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem
khiến Chúa Giêsu đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao
quý là thân xác các môn đệ Người ra nhơ uế thì Người đau xót gấp trăm. Thế nên,
Người nghiêm khắc lên án những người nầy: "Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào
Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối
đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn."
Thánh Phao-lô cũng quả quyết: "Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên
Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy.Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh,
và Đền Thờ ấy chính là anh em." (1Cr 3, 13-17)
Hãy sớm thanh tẩy đền thờ thân xác mình
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào
nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và
quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì "từ trong lòng phát xuất những ý định gian
tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu
khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế" (Mt 15, 19-20)
Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ
Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến,
được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Phải trang điểm đền thờ
thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn
luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý
của Thiên Chúa Ba Ngôi.
6. Sự
lạm dụng thân xác – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày 06 đến 11/02/2012, chúng tôi có dịp tham quan Singgapor
và Malaysia. Ở đất nước của họ thật văn minh hiện đại, nhưng xem ra lại không
có cái nhìn tích cực về người con gái Việt Nam. Tôi đã chứng kiến một cô gái
Việt Nam bị từ chối nhập khẩu tại hải quan Singapor vì nghi ngờ qua đây làm
nghề mại dâm. Điều này khiến tôi cảm thấy khó chịu với nhân viên hải quan
Singapor khi từ chối cô gái vào Singapor chỉ vì cô ta mang theo quá ít tiền
(200USD) mà cho rằng qua đây để bán thân. Nhưng rồi vào tối ngày 09/02/2012 khi
ngồi xem tivi đài Malaysia, tôi mới cảm thấy thật xấy hổ khi đài truyền hình
của họ thông báo đã bắt được một ổ mại dâm toàn là các cô gái Việt Nam. Quả
thực, nhìn lên truyền hình tôi thấy có tất cả 11 cô gái Việt Nam bị dắt lên xe
cảnh sát vì tội hành nghề mại dâm.
Thật đau xót cho hình ảnh người con gái Việt Nam: Công - dung -
ngôn - hạnh của truyền thống Việt Nam nay còn đâu! Những đức tính này đang bị
lu mờ bởi nhiều cô gái Việt nam hôm nay đang cố gắng tu sửa thân xác của mình
để kiếm tiền chứ không trau dồi nhân đức. Người ta dùng thân xác để kiếm tiền
mà bỏ qua nhân phẩm con người. Người ta trau truốt vẻ đẹp thân xác hơn là vẻ
đẹp tâm hồn. Người ta cũng bỏ công sức nhiều cho sắc đẹp nhưng trau dồi nhân
cách thì lại dửng dưng xem thường. Cha ông ta bảo rằng: "Cái nết đánh chết
cái đẹp", nhưng đời con cháu hôm nay thì dường như: "cái đẹp đang đè
bẹp cái nết". Người ta chuộng cái đẹp nhiều hơn cái nết vì cái đẹp mang
lại lợi nhuận còn cái nết đâu mang lại lợi nhuận kinh tế cho ai? Trong các lễ
hội, kể cả cưới xin người ta đều tôn vinh trai tài - gái sắc nhưng có mấy ai
tôn vinh vẻ đẹp tôn hồn? Cái đẹp là dấu chỉ của giầu sang và cũng là cơ hội
giầu sang của biết bao cô gái chân dài? Vì thế mà người ta bất chấp lợi nhuận
miễn sao có thể lợi dụng vẻ đẹp thân xác thành một món hàng để trao đổi, mua
bán, làm ăn...
Ngày nay, người ta nói nhiều về việc suy thoái đạo đức, nhưng
điểm suy thoái nguy hiểm nhất vẫn là suy thoái về nhân phẩm con người. Thân xác
con người là đền thờ của Chúa đã bị tục hoá vì thói đời hưởng thụ hôm nay.
Người ta xem thân xác chỉ là một món hàng để có thể trao đổi, mua bán, lạm
dụng... mà không cần bàn tới luân thường đạo lý. Khi thân xác chỉ là món đồ
hàng thì người ta cố gắng trang trí cho đẹp, cho lộng lẫy, cho kiêu sa để bắt
mắt, để thu lời mà quên rằng cái đẹp chỉ được tôn vinh khi có duyên thắm đi
cùng. Người đẹp nhưng lòng dạ xấu xa chắc chắn cũng bị xem thường.
Sự lạm dụng thân xác để hưởng thụ không chỉ ở chợ đời mà còn len
lỏi vào cả trong sân Chúa, Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, linh thánh cũng bị tục
hoá bởi những lối sống của một số thành phần suy thoái như câu ca:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Cách đây hơn 2,000 năm, Chúa Giêsu cũng chứng kiến sự ô uế của
một môi trường được xem là thánh thiêng, là nơi cực thánh, thế nhưng đã bị tục
hoá từ vật chất đến tinh thần. Đền thờ là nơi linh thánh đã bị lạm dụng vào
việc làm ăn, buôn bán, trao đổi tiền. Nhìn vào Đền thờ Giêrusalem bị tục hoá mà
lòng Chúa Giêsu quặn đau. Ngài đã không thể chần chờ. Ngài đã hành động dứt
khoát để thanh tẩy đền thờ, để mang lại vẻ đẹp ban đầu của đền thờ là nơi Chúa
ngự, là nơi linh thánh cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Phúc Âm nói rằng: Chúa
Giêsu bện roi xua đuổi tất cả những ai can dự vào việc làm ô uế đền thờ như:
những người buôn bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người
đã đổ tung và lật nhào bàn ghế của họ. Người khuyến cáo họ: "Đừng biến nhà
Cha Tôi thành nơi buôn bán". Đó là đền thờ vật chất, con người cũng phải
tôn trọng sự linh thánh của đền thờ, huống chi là một đền thờ linh thánh hơn
nửa, đó chính là thân xác con người.
Thực vậy, thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hãy biết kính
trọng thân xác mình và anh em. Đừng lạm dụng thân xác trong những đam mê bất
chính. Đừng lạm dụng thân xác để tìm thú vui xác thịt và kiếm tiền. Đừng phá
huỷ đền thở tâm hồn trong những xa hoa truỵ lạc. Hãy biết sống đúng với phẩm
giá con người là "nhân linh ư vạn vật". Hãy sống cao thượng hơn các
loài sống theo bản năng hoặc các loài vô tri vô giác. Hãy thanh tẩy từ chính
tâm hồn chúng ta khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những ước muốn gian dâm và trộm
cắp. Hãy loài trừ trong tâm hồn chúng ta những cái nhìn bất chính, những ước
muốn tầm thường, những đam mê vô độ. Hãy để Chúa ngự trị và chiếm đoạt tâm hồn
chúng ta. Hãy sống thanh sạch. Hãy thanh tẩy tâm hồn mình thường xuyên bằng các
bí tích nhất là bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Nhờ bí tích Hoà Giải mà ta luôn
làm mới lại tâm hồn, và nhờ bí tích Thánh Thể mà ta luôn có Chúa ở trong mình.
Nguyện xin Chúa luôn nâng đỡ và trợ giúp để chúng ta biết thanh
tẩy mình mỗi ngày nên tinh tuyền, xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự, và là viên
đá sống động xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô mỗi ngày một vững mạnh hơn. Amen.
7. Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận. Ngài
bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo
gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm
nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi những người buôn
bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc! Dù
rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi Đền Thờ, nơi tiền
đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của những người đi hành
hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là một điều bất kính, vì
chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà
Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ.
Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm. Chính tình yêu đã khiến Đức
Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ, dù điều đó sẽ đưa Ngài
đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đền thờ
ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Đền
Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh
tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng thực sự là nơi thờ phượng, nơi
lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi thánh lễ của chúng ta trở nên
máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn, một sức sống lan tỏa từ
Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần, nhưng không đủ.
Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi lẽ đó là
đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Đam mê vô độ của thân xác đã
trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!" Chúa Giêsu
hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền
thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị
xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều dẫn đến
Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn? Bạn nghĩ gì về bầu
khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp mình và gặp Chúa
không?
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần sửa gấp không?
Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người
để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền,
của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối
nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người
phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như
Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân
chúng con.
8. Uy quyền
Đấng Thiên Sai – Cố Lm. Hồng Phúc
Chúng ta thường gọi 10 giới răn là căn bản lề luật Thiên Chúa.
Người Do thái gọi đó là “Thập điều” (Decalogue) của Thiên Chúa nói lên ý muốn
cứu độ của Ngài. Mười lời đó không phải bản tuyên xưng đức tin, một bản tóm
lược luân lý, nhưng là những lời nhắn nhủ của Chúa gửi đến con cái của Ngài.
Trong mùa Chay, chúng ta hãy đến dưới chân núi Sinai, như ngày xưa dân Israel tập
họp dưới núi thánh, để nghe lời thân mật của Chúa. Chúa nói như Cha nói với
con, Cha khuyên bảo con. Tất cả Thập điều đều tóm tắt trong một câu và phải
được khắc ghi vào tâm khảm mỗi người: “Ngươi hãy thương yêu”. Hãy yêu mến Thiên
Chúa và tha nhân.
Tình thương đó, khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã tỏ ra một cách cực
độ khi chịu đóng đinh trên thập giá. Phaolô gọi đó “là cớ vấp phạm cho người Do
thái, một sự điên rồ cho người ngoại giáo”. Làm sao hiểu được tình thương của
Thiên Chúa? Yêu đến bỏ trời xuống thế, yêu đến chết trên thập giá để đền tội
chúng ta.
Thiên Chúa đã cứu rỗi chúng ta bằng phương cách chúng ta không
thể hiểu nổi.
Trong khi có người tự cho là thông thái như dân Hy lạp dùng lý
luận để tự cứu vãn, trong khi người Do thái tự cho là có thể dùng chay giới,
giữ luật lệ để vào thiên đàng thì Thiên Chúa dùng tình thương và tình thương
đến điên dại như Phaolô suy tưởng.
Tình yêu Chúa Cha nung nấu tâm can của Chúa Giêsu và bộc lộ ra
bên ngoài hôm nay bằng một cử chỉ táo bạo mà Gioan đã chứng kiến và tường thuật
lại. Đó là việc Chúa xua đuổi con buôn bán ra khỏi đền thờ. Lễ vượt qua của dân
Do thái gần đến, Chúa Giêsu lên đền thờ. Ngài thấy trước mắt trong khuôn viên
đền thờ Cha Ngài, diễn ra một cảnh hỗn loạn không thể chịu được. Người ta bày
bán chiên bò. Người ta mở bàn đổi tiền bạc. Ngài chắp giây thừng làm roi, hất
tung bàn ghế và đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ. Ánh mắt Ngài chiếu sáng và
miệng Ngài hô to: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta
thành nơi buôn bán.”
Ngài phẫn nộ để cho mọi người biết Ngài là ai.
Ngài tỏ uy quyền của Đấng Thiên Sai, như lời tiên tri Malachia
đã loan báo; Ngài xuất hiện trong đền thánh để tẩy uế nơi tôn nghiêm này. Nhà
chức trách đền thờ hiểu điều đó nên họ không vặn hỏi lý do mà chỉ đòi một dấu
chứng minh. Chúa trả lời cách khô khan: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội
trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”; “Ngài có ý nói đền thờ là thân thể Ngài.”
Ngài cho biết “Con Chiên chân thật của Thiên Chúa chính là Ngài”
(Gio. 1,29) đến trong đền thờ. Nghi lễ của đạo cũ đã quá thời. Ngài là Con
Chiên Pascal bị tế sát vì chúng ta (1Cor. 5,7-8) và sẽ dẫn đưa chúng ta vào
“trong nhà của Cha Ngài” (Gio. 14,2).
Bằng cử chỉ hôm nay, Chúa Giêsu không có ý bãi bỏ những nơi thờ
phượng, nhưng đã chấn chỉnh và nói lên bản chất chân thật của nó. Dưới con mắt
của Gioan, đền thờ của Đạo mới chính là Thánh Thể của Chúa Giêsu, rồi đây sau 3
ngày nằm trong nhà mồ, sẽ khởi hoàn sống lại.
Là người tín hữu trong Giáo hội, chúng ta có bổn phận lo cho
Chúa có một nơi thờ phượng trang nghiêm xứng đáng, vì “nhiệt thành với nhà
Chúa”. Nhưng đừng quên xua đuổi quét sạch những gì làm hoen ố tâm hồn chúng ta
là đền thờ Chúa ngự.
9. Điện
Thờ Thân Thể của Người
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Chương hai gồm hai câu chuyện: phép lạ tại Cana, như là dấu lạ
đầu tiên để các môn đệ tin vào Chúa Giêsu (2,1-11) và việc thanh tẩy đền thờ và
loan báo đền thờ thân thể Người, như là dấu lạ cho người Do thái, nhưng họ
không hiểu (2,13-25). Đoạn 2,13-25 gồm hai phần song song với nhau: - phần
2,13-17 gồm: hành động của Chúa Giêsu (c.14-15), lời của Người về nhà của Thiên
Chúa bị làm thành cái chợ (c. 16), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 17); - và
phần 2,18-25 gồm: hành động của người Do thái (c. 18), lời của Chúa Giêsu về
điện thờ mới (c.19), và việc nhớ lại của các môn đệ (c. 22). Trong phần nầy có
thêm ghi nhận việc không hiểu của người Do thái (c. 20) và lời giải thích của
thánh sử (c. 21). Phần thứ hai hoàn thành phần thứ nhất.
Theo thánh Gioan, đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
Người còn lên đó nhiều lần khác nữa (6,4; 11,15; 12,1; 13,1). Ba sự kiện: lễ
Vượt Qua, thanh tẩy đền thờ và loan báo việc sống lại liên kết với nhau rất ý
nghĩa. Mỗi dịp lễ Vượt Qua là lúc đền thờ được sử dụng cách đặc biệt để cử hành
biến cố Thiên Chúa đưa dân Do thái ra khỏi kiếp nô lệ ở Ai cập. Chúa Giêsu
thanh tẩy đến thờ là để phục hồi lại phẩm giá cho nhà của Thiên Chúa, vì những
người buôn bán trong đền thờ đã tục hóa khi làm nơi đó thành cái chợ. Trong bối
cảnh nầy, Chúa Giêsu loan báo một điện thờ mới, xứng đáng cách tuyệt đối làm
nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đó là thân thể phục sinh của Người. Muốn được thế,
Người phải chịu hủy hoại, cũng vào dịp lễ Vượt Qua (2,17; 19,14).
Điện thờ mới gắn liền với sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã đi từ một đền thờ, ieros, Giê-ru-sa-lem cụ thể, với những
gian nhà và không gian chung quanh (2,14.15) đến một không gian hẹp hơn. Đó chỉ
là điện thờ, naos, là nơi để cử hành các nghi thức thờ phượng Thiên Chúa
(2,19.20. 21). Đền thờ Giêrusalem tượng trưng cho cơ chế và quyền bính của Do
thái giáo. Chúa Giêsu không nói gì đến việc phá hủy đền thờ và quyền bính nầy,
theo như lời cáo buộc sau nầy (Mc 14,58; Mt 26,61). Việc thanh tẩy đền thờ dẫn
đến việc loan báo dựng lên một điện thờ mới chứng tỏ đền thờ cũ không cần thiết
nữa và phải được thay thế (cf. 4,21).
Việc thay thế sẽ không là xây dựng một đền thờ trong bốn mươi
sáu năm, mà trong ba ngày. Thân thể Chúa Giêsu chính là điện thờ. Người sẽ chết
và sống lại trong ba ngày. Sự chết của Người được ám chỉ trong trích dẫn Thánh
vịnh 69,10: “Nhiệt tâm cho nhà Người sẽ hủy hoại tôi” và trong mệnh lệnh “Các
ông hãy phá huỷ điện thờ này đi” (2,19). Trong khi để chỉ sự sống lại, thánh
Gioan đã cố ý dùng chữ egeiro, có hai nghĩa: dựng lên một căn nhà hay
một đền thờ, và làm cho đứng dậy, trỗi dậy. Động từ nầy được dùng để chỉ việc
Chúa Cha làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết (2,22; 21,14).
Điện thờ là nhà của Thiên Chúa, là nơi gặp gỡ giữa con người và
Thiên Chúa. Nơi đó sẽ không còn là một không gian, mà là một đấng: Chúa Giêsu
Kitô Sống Lại.
10. Bắt
đầu lại trong sự thật – Jean-Yves Garneau.
Khi sự việc hư đi
Đa số những của cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa
đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc
rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có
trẻ con trong nhà. Nước sơn trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những
chỗ nối các viên gạch hoặc các viên đá… Mọi sự đều xuống cấp một cách mau chóng
lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực khác nữa. Một tình bạn nẩy
sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi. Kết hôn: đó là tình yêu
lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa. Mọi sự không suôn sẻ nữa.
Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu bắt đầu xuất hiện. Cũng một
hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình yêu của chúng ta đối với
Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có những thói quen nhỏ ít nhiều
không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống thiêng liêng cũng có thể xuống
cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi cầu nguyện và dâng của
lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và một trung tâm buôn bán. Ở
Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải thanh tẩy Giáo hội về nhiều
mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi nhiều điều khác nữa. Thật
vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi theo thời gian xem ra không
trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc tệ hơn nữa không chịu nhìn
thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có chuyện gì cả, đó mới là trầm
trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không ổn tại cửa đền thờ. Ngôi
nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán. Chúng ta có sáng suốt như
vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc sống Kitô của chúng ta
không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện thời của chúng ta. Đó là
việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong Đền Thờ. Chúa Giêsu không
mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay, Ngài hành động. Một cách
hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì cả. Điều này đúng về mặt
luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác. Chết đối với bản thân,
móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô dạy. Roi ư? Tức là mọi
năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà trong đó chúng ta có
nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã khô cằn. Người ta bón
phân cho nó. Thế là những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi
vợ chồng trẻ không còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để
kiểm điểm lại, nói với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã
tìm lại được vẻ tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với
Thiên Chúa. Đối với Ngài, không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn
mất đi. Lầm đường vẫn còn có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt
đứt có thể nối lại được. Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với
Ngài bao giờ cũng có thể bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và
việc trước hết để bắt đầu lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình,
về con người mà ta đang trở thành. Đó là Sự thật.
11. Thánh
Đường, điểm hẹn.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có
một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng
sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng
hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại
đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn
đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới.
Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở
làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai
bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật
liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán
trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn
nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai
làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách,
dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân
chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng
biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân
làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong
cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời
chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau…
Điểm gặp gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được
giáo dân gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt
viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa
và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ
chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do đó, nhà thờ phải là điểm
hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng, là giải đáp của mọi
tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của dân Do Thái trên mọi khắp
mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng kỷ niệm dân được Thiên
Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ về miền Đất Hứa. Năm
ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền thờ. Vừa bước vào
đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai mắt: buôn bán chiên
bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật tự. Không cầm mình
được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị trường, sào huyệt
của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay đánh đuổi những
kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong sáng cho nơi cầu
nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi bút của Thánh sử Gioan,
hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn nhiều, khi
Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới hiểu đền thờ Chúa muốn
nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục Sinh sau ba ngày ở
trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn, xô đổ lật nhào bàn ghế
những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá hủy. Phá hủy sẽ không
có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ phá hủy những gì hủy
hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với Thiên Chúa và giữa
con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác, ồn ào trong đền thờ
mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ, không còn là nơi gặp
gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào huyệt trộm cướp, bóc
lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh mất ý nghĩa là
“việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn “việc của Thiên
Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất cả trong Đức
Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài làm Đức Chúa,
để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất. Trong Ngài
toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ hình
thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng vào đền thờ nhiều tiền của,
nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng
tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ được Thiên Chúa. Thành thử ra,
dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ cần đợi dịp đại lễ hành
hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình an trong lương tâm vừa
được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên lời sấm chống lại đền
thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân chúng chỉ sống đạo bề
ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước mười điều răn của
Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp, giết người, ngoại
tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi chạy vào đến trước
mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để rồi tiếp tục cái
trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta được kêu cầu
thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ ràng không chỉ
là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan niệm bổn phận đối với
Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối với anh em ngoài xã
hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ đọc kinh, dự lễ và
rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai ương hoạn nạn… cũng
chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta không thể xây dựng
những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những người đang giẫy
chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi bên lề
đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi hẹn hò gặp
gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay
chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên đới anh em
mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm hẹn, là biểu
tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà người ta
không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu là đền
thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ tế của Chúa Giêsu trên thập
giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn thay thế mọi lễ tế chiên bò
trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ mới với một phụng tự mới
trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ anh em cũng là chi thể của
thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
12. Nhà của
Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone.
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi,
nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ
chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia
đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn
nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất
trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng
được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi”. Đức
Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi
mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở
nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người
mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói:
“Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất
thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ trong câu chuyện. Chúng ta
muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng, đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà thờ, chúng ta phải coi đó
như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện vật chất, là bảo quản giá
trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi đây, nhờ Bí tích Rửa Tội,
chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với việc Rước Lễ, chúng ta đoàn
tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí tích Thêm Sức, chúng ta
được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi đây, trong Bí tích Hôn
Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây để hầu chuyện với
Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người trợ giúp và lời chỉ
bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người niềm vui, nỗi buồn của chúng
ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà Đức Kitô đã làm trong bữa
tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn Người yêu bạn, bất kể mọi
chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời. Chúa sẵn sàng tha thứ, phù
giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh nguyện Thánh Thể, chúng ta
thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng ta gọi Người là Cha trong
kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền xướng rước lễ hôm nay:
“Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim nhạn tìm ra tổ ấm để ấp
con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của con, Chúa của con – Hạnh
phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn. Như người mẹ trong câu
chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết sức làm cho nhà của Cha
chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
13. Giữ
trong sạch nhà Cha – Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một
linh mục, cha Rap (Ralph). Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại
đầy tham vọng. Cha mong muốn thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một
giáo dân đã nhận ra chân tướng của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng
không được đáp lại. Bà liền trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho
Giáo Hội, với điều kiện phải cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù
của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo Hội, nhưng cũng nói lên
một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những
con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con
người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho
mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc
tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh giác ta về tình trạng đó: “Các
con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta:
“Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt 6,21). Cũng như khi ta đặt một
đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi cảnh vật, và trong thực tế nó có
thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các việc thờ tự thì người ta dễ
hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ
xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có hương hoa, đèn nến. Những thứ đó
là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình thờ phượng. Nhưng một khi những thứ
tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con người quên cả tâm tình bên trong. Và
Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga
2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân buôn, không thích nghe tiếng sột
soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm tình quen thuộc, thân
thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha mình. Đó là cốt lõi của
phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô hữu. Vậy điều cần thiết
là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa, lo cho cuộc sống Kitô
hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn mọi dáng vẻ vật chất, và
đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô điểm Giáo đường, và mọi
sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và việc giúp con người phụng sự
Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng hiến chính bản thân mình
chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
14. Giao ước
mới – Lm. Đỗ Vân Lực
Lời hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống? Hôn ước cũng chỉ
là một lời hứa vắn tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời. Thiên Chúa cũng bị
lời hứa ràng buộc. Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng
rõ ràng có một sự khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ
lời hứa. Chính nhờ lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con
người càng được mọi người kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa
như thế nào trong khi thiết lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước
với loài người. Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn
ông qua những nẻo đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do
thái. Mười Điều Răn chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244).
“Mười Điều răn thể hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in
Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp,
nhưng thăng tiến con người. Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình
là ai trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười
Điều Răn cho Israel, Thiên Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là
ai khi đáp trả lại lời Thiên Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy
có một căn tính mới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B
1999:13). Quả thực chính nhờ giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và
trở thành người con đầu lòng của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được
lòng ưu ái của Thiên Chúa, trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng.
Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người
đến để thực hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa
phải được tôn thờ là vị Thần độc nhất. Đối với Do thái, nhận thêm một vị thần
vào bảng phong thần không khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất,
loại trừ tất cả các thần khác là cả một vấn đề. “Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là
một cách diễn tả niềm tin độc thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh
là lãnh vực tuyệt đối dành cho một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại
bang vào đền thờ, tức là chối bỏ Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm
tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của
toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng
đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất
hứa.
“Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái
tới một cuộc sống thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn
thấy bản tính Thiên Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh
và những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách
đầy thương yêu và có trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực
hành Mười Điều Răn là cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với
dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi
vậy mỗi khi nhìn đến hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng
say giữ tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò
bó hay miễn cưỡng khi giữ luật vì đó là “phương tiện duy nhất chu toàn luật
thương yêu của Thiên Chúa” (Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát
là một bằng chứng. Chính vì biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã
đánh mất nét tinh hoa cao quí nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là
phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành
những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những
lạm dụng đền thờ, cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một
Đấng “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua
đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người
đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào
hỗn loạn đó, chắc chắn Người đã phải quát lên: “Đem tất cả những thứ này ra
khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh
tẩy Đền Thờ làm Người hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng
vượt lên trên mức thường tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi
người thấy mạc khải lớn lao về bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới
thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành
động của Đức Giêsu mang tính cánh chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư
cách Thiên sai của Người” (Ga 2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau
cái chết và phục sinh của Người được trả lời thỏa đáng. “Đền Thờ ấy sẽ được một
thực tại mới thay thế là Đức Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính
nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ
trở nên trung tâm thu hút mọi người về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục
sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ
đích thực trong “thần khí và sự thật” (4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều
dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên
tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân loại (c.25; 1,47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu
Giáo hội không được thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan
Thiên Chúa trước mắt mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi
lầm quá khứ, những nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến
được với Chúa Kitô. Bởi đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử
chỉ ngoạn mục trước mắt toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn,
Thánh Linh đã thanh tẩy khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi
tiếng, nhưng để mọi người nhận biết Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga
14:6), có sức giải thoát nhân loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo
hội là một chuỗi “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn
thương đến sự hiệp nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống
lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo,
các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và
các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000).
Không phải vì những lầm lỗi ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo
hội vẫn là thánh. Hi vọng sau lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa
và con người đắc lực hơn. Mọi người có thể dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung
cách khiêm nhường của Giáo hội. Nhân loại như bước vào “thời gian hòa giải,
thời gian cứu độ cho tất cả mọi người tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm
kiếm Thiên Chúa!” (ĐGH Gioan Phaolô II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic,
19/3/2000). Đức Giáo Hoàng đã tô một nét son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các
Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các
Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính
luyến ái và những tín đồ thuộc các tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những
gia đình hay cá nhân về những lạm dụng tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y
Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu
châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không cố sức cứu người Do thái trong thời
Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
15. Con người
và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã có được một ngôi đền thờ,
để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ ấy đã sớm trở thành duyên
cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành một cái chợ, thành một hang
ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra tay dọn dẹp và loan báo ngày
tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng lòng nhân từ hơn của lễ,
nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn mạnh tới những nghi lễ
rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ giếng Giacóp Ngài đã
xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Vấn đề
không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi nọ, trong đền thờ
này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Hay nói đúng
hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi mà con người có thể
gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất cả những ai tin theo
Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa ngự trị. Như thế,
chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu tư số một là phải
lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải
là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu biết thờ phượng
Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ lúc
nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những nhà thờ cao đẹp, mà trong đó
lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ hơn nữa, có người hiện diện
trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng mà thôi, còn
cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây đền thờ cho Thiên Chúa,
nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho Ta ở hay sao? Thật vậy,
từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới hôm nay, Ta đã không ở
trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một chiếc lều và trong một
nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì trời là ngai của Ngài và đất
là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống, tuy mang tiếng là một bác thợ
mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn chính bản thân thì lại sinh
ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên trong căn nhà của thánh
Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không cả chốn tựa đầu và chết ở
trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của người khác. Sống không cần
nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục sinh liệu Ngài có cần những
đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo cũng đã đi vào dấu vết của
mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ. Thực ra đền thờ cũng rất cần
thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là cần thiết cho Thiên Chúa. Đền
thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng đền thờ thiêng liêng bằng
chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng với công việc tu bổ kiến
thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức xây dựng, trang hoàng và
tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng trở nên một đền thờ của
Thiên Chúa.
16. Thanh tẩy
Đền thờ Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ,
vĩ đại và cũng rất nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc
nhất thời bấy giờ, phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới
hoàn thành, đền thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon
phá hủy vào năm 587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon,
Giôrôbaben kiến thiết lại đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại
vương, ông cho trùng tu lại toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy,
mỗi ngày có 18.000 thợ làm việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công
từ năm 20 trước Công nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ
này cũng bị tàn phá bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài
cùng là khu dành cho người ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành
cho phụ nữ, rồi đến khu dành cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành
cho tư tế, rồi đến bàn thờ dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia
10 điều răn, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân
tộc, vừa cụ thể hóa sự hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa
việc phụng tự của cả dân tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu
nguyện cho muôn dân, và không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện.
Nhưng dần đà người ta đã ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành
nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để
phục vụ việc tế tự. Quang cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài
yêu cầu mọi người trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu xua đuổi những người buôn
bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành động này của Chúa được gọi
là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới lãnh đạo Do Thái giáo khó
chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo cho họ biết một điều rất
quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu
đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài không đuổi những người buôn bán
trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết thúc cuộc đời trần gian của Ngài?
Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải với tư cách một người hành hương
nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính
thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành
hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn
bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn ào, thành hang trộm cướp, bây giờ
chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm
dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương
thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài không sợ nguy hiểm khi phải ra tay
dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh
thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho các
trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ phản động, vì Ngài không có
chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách
tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ
việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán cho mình có quyền bằng Thiên
Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải làm một phép lạ từ trời, nghĩa
là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền thờ bằng gạch đá, nhưng
Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà là đền thờ thân thể Ngài.
Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra mặt, họ biết đền thờ đã được
vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong, thế mà bây giờ Chúa bảo phá
hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không tin lời Chúa nói mà còn cho
là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét xử, họ đã đưa điều này ra
để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho mọi người biết: Ngài sẽ
bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài dùng đền thờ làm hình ảnh
để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của Thiên Chúa, lời tiên báo của
Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị, nhưng
có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã chiếm mất chỗ của Chúa, vậy
chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng
ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa muốn chúng ta sống tự do độc
lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội gì, có tính hư tật xấu nào,
mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những thứ đó, như Chúa Giêsu đã
nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với tội lỗi chúng ta phải đến
với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để được sống trong tự do của
con cái Chúa.
17. Đền
thờ
Dân Do thái vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho
dù họ vẫn có các nơi thánh để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem,
Sinai.
Rồi sau đó, trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu
động, đó là nhà tạm với hai hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị
thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một
đền thờ tại thủ đô Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi
vì không phải Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà
cho Đavid.
Thế nhưng, bước sang triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã
được thực hiện mà không gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền
thờ Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi
trong nước hành hương về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho
đền thờ một tình cảm hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên Babilon, họ luôn hướng tới
đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên họ đã làm ngay, đó là bắt
tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là trung tâm của việc thờ
kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ vào những dịp lễ lớn.
Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng tiến lễ vật như chiên
bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng thời đóng thuế cho
đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn viên đền thờ một cái chợ,
để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy, Chúa
Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và xua đuổi phường
buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
- Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến nó thành
hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý nghĩa thiêng liêng của
đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, đồng thời
cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng liêng trước hết phải là
chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, đã trở thành
Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta sẽ dâng lên cho Thiên
Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo
hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động của bí tích và lời giảng
dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là chính tâm hồn chúng ta, bởi vì
nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm hồn chúng ta trở nên như một
gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị, đồng thời cũng chính tại thẳm
sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình cầu nguyện tha thiết
và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn xứng đáng là nơi cho Chúa
ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay, đó là khử trừ tội lỗi, vì
tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc chúng ta đang lặn ngụp
trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với chúng ta như xưa Ngài đã
nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta không còn phải là nhà cầu
nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
18. Đền
thờ Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Đền Thờ Giêrusalem hùng vĩ đã được xây cất thời vua Salomon từ
năm 967-964 trước Chúa Giáng Sinh (BC) trong thành Giêrusalem Cổ, trên đồi
Moriah (nơi được coi như Abraham đem con trai duy nhất là Isaac đến hiến tế cho
Thiên Chúa theo lệnh Chúa truyền (Stk 22, 1-18). Đền thờ này bị người Babylon
thời vua Nabuchodonosor II phá hủy vào năm 586 (BC), khi họ đến chiếm đóng
Giêrusalem và bắt người Do Thái đi lưu đày ở Babylon. Đến năm 536 (BC), người
Do Thái được hồi hương; sau đó, họ lại tái thiết Đền Thờ hùng vĩ như trước. Đến
năm 19 (BC), Hêrôđê Đại Đế cho xây cất lại hùng vĩ hơn. Đến năm 70 sau Chúa
Giáng Sinh, khi người Do Thái vùng lên chống lại sự cai trị của người Rôma, Đại
Tướng Titus đã dẫn đoàn quân Rôma đến dẹp tan cuộc vùng dậy, phá hủy hoàn toàn
Đền Thờ Giêrusalem (đúng như Chúa Giêsu đã nói trước vào khoảng năm 30: “Sẽ
không còn hòn đá nào trên hòn đá nào…” (Mt. 24, 2; Mc. 13,2; Lc. 21,6), và bắt
tất cả người Do Thái đi lưu đày khắp nơi trong Đế Quốc Rôma, và từ đó dân Do
Thái lại phải rời bỏ quê hương. Sau gần 2 ngàn năm mất nước, người Do Thái lại
tìm cách trở về và khôi phục lại quê hương là nước Israel ngày nay từ năm 1948.
Đền Thờ Giêrusalem luôn luôn là trung tâm thờ phượng của người
Do Thái. Vào dịp Đại lễ, người Do Thái ở các nơi trở về thờ phượng Chúa tại Đền
Thờ Giêrusalem thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để
dâng làm lễ vật theo nghi thức Do Thái Giáo thời đó. Vì thế, người ta lợi dụng
dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời.
Trong bài Phúc Âm Thánh lễ hôm nay (Ga 2, 13-25), Chúa Giêsu đã
phải tỏ thái độ mạnh mẽ để tìm cách thanh tẩy Đền Thờ cho xứng đáng nơi thờ
phượng: “Mang tất cả những thứ này đi nơi khác! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi
buôn bán!” Trước phản ứng của người Do Thái, Chúa Giêsu cũng dùng dịp này để
nói về việc chính Chúa Giêsu sẽ bị họ giết đi, nhưng sau 3 ngày, Ngài sẽ sống
lại.
Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá hủy hoàn toàn để chấm dứt thời
gian Cựu Ước và bước sang thời Tân Ước, và việc thờ phượng Thiên Chúa không
phải chỉ lệ thuộc vào ‘Đền Thờ’, nhưng quan trọng là thờ phượng Chúa trong
‘tinh thần và chân lý’ (Gioan 4,23-24), bằng tâm hồn và lương tâm ngay thẳng
của chúng ta do việc giữ đầy đủ các giới răn của Chúa đã được ghi rõ trong sách
Xuất Hành (Bài Đọc I: Xh. 20, 1-17): Chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa,
phụng dưỡng cha mẹ già yếu, thương yêu nhau, giúp đỡ những người nghèo khó,
bệnh tật, giữ phép công bằng và xa tránh các tội lỗi theo ham muốn xác thịt. Đó
cũng là điều chúng ta đều phải suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay Thánh để sửa đổi
các lầm lỗi trong quá khứ và canh tân cuộc sống.
Vào Thánh Đường nào chúng ta cũng nhìn thấy Thánh Giá là ảnh
tượng chính, để nhắc nhở chúng ta về những hy sinh đau khổ Chúa Giêsu đã phải
chịu để đền thay tội lỗi chúng ta, để chúng ta thấy rõ hậu quả của tội lỗi mà
chừa bỏ và xa lánh dịp tội. Vì thế, Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Cr 1,
22-25) nhấn mạnh: Ngài không rao giảng sự khôn ngoan thế gian, nhưng rao giảng
Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, dù có những kẻ cho là điên rồ.
Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta phải nhắc bảo nhau, cha
mẹ có bổn phận phải nhắc nhở con cái phải giữ thái độ xứng đáng khi đến các nơi
Thờ Phượng, đặc biệt vào các Thánh lễ cuối tuần. Ăn mặc nghiêm trang, kín đáo,
nhất là các người có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh, và các Thừa Tác Viên Thánh
Thể… Tất cả mọi người khi vào Thánh Đường phải giữ cử chỉ cung kính, nhất là
khi lên Rước Lễ, rước Chúa Trời Đất cao cả, thánh thiện vào lòng chúng ta. Nói
chung, Thánh Đường là nơi thờ phượng chứ không phải nơi để trò chuyện, không
phải nơi để khoe tài, khoe sắc, khoe quần, khoe áo!
Thánh Đường giáo xứ cũng là trung tâm thờ phượng của mỗi giáo
xứ. Bổn phận mọi giáo hữu chúng ta là chung tay xây dựng và gìn giữ Thánh Đường
luôn xứng đáng là nơi thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta, là trung tâm tinh
thần của giáo xứ, là gia đình thiêng liêng của chúng ta. Hơn nữa, khi đến Thánh
Đường, chúng ta cùng dâng lễ thờ phượng Chúa chung với cả Cộng Đoàn Đức Tin,
chứ không phải chỉ là việc cá nhân hay riêng cho mỗi gia đình. Chúng ta cùng
đọc kinh, cùng hát thánh ca, cùng hiệp nhất với nhau trong việc thờ phượng Chúa
trong một gia đình Giáo xứ đầm ấm.
Sau hết, tâm hồn mỗi tín hữu cũng là một Đền Thờ, nơi Ba Ngôi
thiên Chúa ngự trị. Luôn luôn chúng ta phải thanh tẩy Đền Thờ tâm hồn chúng ta
để xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, qua việc giữ mình sạch tội: xét mình, ăn
năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi hàng ngày; đặc biệt qua việc lãnh nhận Bí
tích Hòa Giải. Xin Chúa thương thanh tẩy, thánh hóa chúng ta trong Mùa Chay
Thánh này.
19. Thanh tẩy
Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn có những hội đường để mỗi
ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa và cầu nguyện. Đây không
phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ chỉ có một đền thờ duy
nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh thiêng thánh thiện.
Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền thờ, đến nỗi Chúa
Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết, về việc buôn bán ở đền thờ. Mỗi
năm, vào những dịp đại lễ, như lễ Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói
quen đã trở thành như một luật lệ, bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ
đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người
giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu…
Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn:
hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn
bán các thứ lễ vật đó cho những người đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì
có người mua kẻ bán, người trả người thách, lại với số đông người, không thể
nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ
phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật buộc: mỗi năm mỗi người
trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền Do thái. Đây là một thứ
thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do thái, chứ không nộp thứ
tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp rất thông dụng, vì
những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành trong khu vực đền
thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những người đến dự lễ
phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những quầy đổi tiền
trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như thế, Chúa Giêsu đau xót và
nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín hữu hài lòng, duy có nhóm
tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng ta thấy
là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con
buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn,
đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung cách thờ phượng đã bị làm cho
biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận
luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua
Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau
công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể
lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời
xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ
đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ đích thực, đó là thân xác
Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác của Ngài. Ngài sẽ bị giết
chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay, đoạn Tin Mừng này nhắc nhở
chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được coi là một đền thờ của
Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để Thiên Chúa ngự không hay
là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm kỵ: tham vọng, ích kỷ,
hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều thì ít, có lẽ đền thờ nơi
chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy, sửa chữa.
Thứ hai, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của
Thiên Chúa. Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành viên có biết lấy yêu
thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi đền thờ đã trở thành
quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có Thiên Chúa ngự trị hay
đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có tên là tiền bạc, tham
vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta là đền thờ
của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi,
những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của Chúa. Vì thế, chúng ta phải
loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám
hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa hồng ân cho chúng ta: cho
mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng, và cho gia đình chúng ta
cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị, chúc lành và ban ơn cho
chúng ta.
20. Đức
Giêsu tại Samari- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các cụm từ «đã đến giờ» và «giờ đã đến - và chính là lúc này
đây» trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2. Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí»? Thế nào là
«thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật»? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là
thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi
thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu «mới» của Đức Giêsu?
3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta
không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém,
đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa
là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ
yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không
gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa
là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi
mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền
chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình;
nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không
muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy
sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh
20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy
sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con trai duy nhất của
mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không tiếc với mình đứa
con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ
phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp
với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người
càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế,
việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới:
tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ
trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: «Đã
đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây - những người thờ phượng
đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (...) Thiên Chúa là
thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự
thật ».
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: «Đã đến giờ», «Giờ đã đến - và
chính là lúc này đây». Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ
phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm,
một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta
trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách
đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con
người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên
Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng
tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng
nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện
nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần
Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là
lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm
chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu
là: Thế nào là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật»?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng
Người phải thờ phượng trong thần khí». Thần khí (pneuma - esprit - spirit) là
tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì
ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên
Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên
Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian.
Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ
phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa
là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là
hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên
Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta
biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những
gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: «Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì
rồi» (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài
không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng
những biểu hiện bên ngoài: «Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân
ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời» (Mt 6,7). Điều Ngài mong
muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng
quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ
trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên
Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội,
hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những
hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng
để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác,
mà phải là «cái tôi» ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là
những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn
thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn
là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên
tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định
nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí
trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn
là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện
lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài
Tin Mừng hôm nay: «Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy,
và hoàn tất công trình của Người». Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa
phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương
thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên
Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình
nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình,
và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối
là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống
thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc
phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa
trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong
giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn
thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên
Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người
ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể
từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi
hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như
vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên
trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: «Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng
thờ phượng Ta thật là vô ích» (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu
mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy
họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: «Xin tha cho con như con vẫn
tha kẻ có nợ với con», nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người
khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng
làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa
rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị
ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: «Lễ toàn thiêu chiên
cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem
những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu
tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi
lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của
các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa.
Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh
cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu» (Is
1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một
cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ
phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch,
ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút
tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ
dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!»
21. "Đừng
biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán"
Các em thiếu nhi thân mến,
Có bao giờ các em đọc kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà
không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây
nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở mãi tận khung trời xa xôi nào đó không?
#ó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những nguoi đi đạo lâu
năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói
quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của mình nữa, và cũng không có một cảm
xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực nào trong những việc làm của mình.
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình
đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc
sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn
hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng,
môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi
thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để
nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự
phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ
phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu
không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng
miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Qua câu chuyện này, người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện
này dậy ta một bài học quan trọng: khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta
hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi
việc ta làm trong nhà thờ. Ta hãy đọc kinh với thái độ tin tưởng và yêu mến. Ta
hãy hát với thái độ ca ngợi Chúa thật, dù là hát trong ca đoàn hay chung với
cộng đoàn. Nếu ta đứng lên nói, hãy nói với thái độ tôn thờ Chúa. Cầu nguyện
cũng phải chân thành tập trung vào Chúa, ngay cả khi nghe lời Chúa cũng phải có
thái độ thờ phượng. Khi nào ta ý thức được như thế thì giờ thờ phượng mới có ý
nghĩa. Và chỉ những lúc đó, tiếng ca ngợi của ta từ nơi đất thấp, mới bay lên
tận trời cao được.
Hôm nay Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài đã thấy gì trong đó?
Họ đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để lợi dụng
lẫn nhau. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền nhằm lợi nhuận. Kẻ mua để dâng cúng
trong đền thờ chỉ nhằm mục đích phô trương giả hình. Ngay cả các tư tế cũng chủ
trương như thế, để họ thu lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán
trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ. Chính vì Đền thờ bị
lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi
họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Vậy ý nghiã đích thực của Đền
thờ là gì?
Thưa, Đền thờ là nơi cầu nguyện. Chuá bảo rằng
"đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán". Ngài đã tẩy chay một lối
thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của
mình. Đồng thời, khi Chuá Giêsu nói với những kẻ chất vấn Ngài: "Các ông
cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Ngài ám
chỉ đến Đền thờ mới chính là thân thể Ngài. Như vậy qua hành động thanh tẩy đền
thờ Giêrusalem, Chuá Giêsu còn cho biết thêm: sự thờ phượng đích thực của thời
Tân ước là thờ phượng Thiên Chuá trong Thần Khí và Sự Thật. Thế nên, "đã
đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chuá Cha không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem, vì Thiên Chuá là Thần Khi và những kẻ thờ phượng Người phải thờ
trong Thần khí và sự thật" (Ga 17, 23).
Ngày hôm nay, người ta vẫn có thể lạm dụng Đển thờ bằng nhiều
cách:
- Có những người đến nhà thờ nhưng lại lo ra chia trí trong
lòng. Đó là những người có xác mà không có hồn. Họ chỉ là những thây ma trơ
trẽn và nguội lạnh. Họ xem lễ chứ không dự lễ, vì họ không đóng góp tấm lòng
của mình vào việc thờ phượng Chuá.
- Có những người đi lễ vì người khác đi mình cũng đi hay chỉ vì
cha mẹ bắt phải đi. Đó là những người thờ phượng giả hình. Họ không sống những
điều mình tin. Họ lấy "vải thưa che mắt thánh". Họ chỉ che được mắt
thế gian nhưng không che dấu được Thiên Chuá. Họ đến nhà thờ nhưng không gặp
được Chuá nên đời sống họ cũng không có gì thay đổi.
- Nhưng điều quan trọng mà hôm nay sứ điệp Lời Chuá muốn nhắn
gởi chúng ta, chính là hãy chỉnh đốn lại đền thờ tâm hồn chúng ta. Tâm hồn
chúng ta có Chuá ngự trị hay không? Chúng ta đang tôn thờ Thiên Chuá hay tôn
thờ những danh lợi thú trần gian?
Muà Chay là muà mợi gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống.
Có thể nói muà chay là muà giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để
xin ơn Chuá thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu,
ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.
Lạy Chuá, tâm hồn con là đền thờ của Chuá, thế mà con đã để tâm
hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin
Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền
thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.
22. Suy niệm
của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Phép lạ hoặc những việc làm của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan
thường mang ý nghĩa biểu tượng. Dấu lạ được thánh Gioan kể lại là để nói lên
một thực tại khác về Chúa Giêsu. Thí dụ phép lạ khiến ông La-da-rô sống lại cho
ta biết Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Cũng vậy, việc Chúa lên
Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua và tẩy uế Đền Thờ là để nói lên rằng Chúa
Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ. Thiên Chúa không còn ngự trị trong Đền Thờ tại
Giê-ru-sa-lem hay tại Ga-ri-dim nữa, nhưng trong Đức Kitô, để “những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).
Thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ Mới là Chúa Kitô chắc chắn phải là một đề
tài ta cần suy nghĩ và xét lại trong mùa Chay về cách thờ phượng và cầu nguyện
của ta.
a) “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể
Người”
Khác với các sách Tin Mừng nhất lãm, sách Tin Mừng Gioan nói
Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần và việc tẩy uế Đền Thờ xảy ra ngay ban
đầu sứ vụ của Người. Đặc biệt những lời của Chúa Giêsu nói trong dịp này cũng
mang một sắc thái hoàn toàn khác. Không phải những câu trích dẫn ngôn sứ
I-sai-a và Giê-rê-mi-a, nhưng là những lời của chính Chúa Giêsu nói với mọi
người: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi
buôn bán”. Do đó lệnh truyền của Chúa Giêsu không chỉ đòi ta phải suy tư về ý
nghĩa của Đền Thờ Mới, nhưng còn đòi ta phải có những hành động cụ thể để thanh
tẩy đền thờ của Chúa Thánh Thần, tức là thân xác và tâm hồn của ta.
Thật là một hình ảnh tuyệt vời nếu ta hiểu tất cả con người Chúa
Giêsu là Đền Thờ Thiên Chúa ngự. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính
nhân loại kết hiệp với nhau trong một ngôi vị, tức là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không những Thiên Chúa hoàn toàn ngự trong Chúa Giêsu, mà còn nhờ Chúa Giêsu ở
lại với nhân loại (Emmanuel = Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Đến với loài người
qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mọi sự đổi mới. Đời sống mới của ta phải theo
lề luật mới là giáo lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đến để kiện toàn Lề Luật. Việc
phụng tự biểu lộ quan hệ giữa ta với Thiên Chúa cũng phải đổi mới. Đền thờ
Giê-ru-sa-lem không còn là trung tâm thờ phượng, nơi duy nhất người ta đến với
Chúa nữa. Nhưng từ nay, Chúa Giêsu thay thế cho Đền Thờ và là nơi thể hiện việc
thờ phượng đích thực. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy
tin tôi: đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này
hay tại Giê-ru-sa-lem... Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những
người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”.
Chỉ trong Chúa Giêsu mới có sự thật toàn vẹn và thần khí Thiên Chúa đầy tràn.
Do đó chỉ trong Người mới thể hiện việc thờ phượng đích thực. Hơn thế nữa, Chúa
Giêsu còn muốn mỗi người môn đệ phải là “người thờ phượng đích thực” và trở nên
một đền thờ sống động, hoặc những viên đá sống động để xây dựng Hội Thánh
Người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).
Giáo Hội là Thân Thể Mầu nhiệm Chúa Kitô. Người là Đầu và ta là
chi thể của Nhiệm Thể ấy. Như vậy, khi ta hiệp cùng Giáo Hội thờ phượng Thiên
Chúa trong Chúa Kitô thì việc thờ phượng đó là đích thực. Ta cũng hiểu được tại
sao Giáo Hội luôn luôn kết thúc các lời nguyện với câu: Nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con. Bởi vì nếu không nhờ Đức Kitô, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và
con người, lời cầu nguyện cũng như việc thờ phượng của ta không bao giờ có thể
đạt tới mức thập toàn được.
b) “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi
thành nơi buôn bán”
Nếu ý thức ta là đền thờ Thiên Chúa ngự, ta sẽ thấy lời nói trên
của Chúa Giêsu bắt ta phải suy nghĩ về tình trạng đền thờ của ta. Trước hết
Chúa gọi tâm hồn ta là “nhà Cha tôi” và lúc nào cũng phải là nơi xứng đáng để
Chúa Cha hiện diện tại đó. Chúa đã nhìn thấy nguy cơ có thể xảy ra cho ta, đó
là tâm hồn ta biến thành “nơi buôn bán”. Ta thử tưởng tượng lại khung cảnh buôn
bán tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những ồn ào, cãi vã, gian dối, lường gạt... đầy
dẫy trong khung cảnh buôn bán ấy và không thích hợp chút nào cho việc thờ
phượng và cầu nguyện. Sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 7:11) gọi nơi buôn bán ấy là
“sào huyệt của bọn cướp”. Thực đúng như vậy. Khách hành hương từ xa tới Đền Thờ
ít khi quan tâm vấn đề tiền bạc. Còn đám con buôn thì lợi dụng thời cơ và lòng
đạo đức của khách hành hương, tìm đủ cách moi tiền của họ để làm giầu cho mình.
Tình trạng này vẫn xảy ra tại nhiều nơi hành hương trên thế giới
hôm nay. Nếu tới Đất Thánh và Giê-ru-sa-lem, ta cũng khó mà kiếm được vài ba
chỗ có được khung cảnh cầu nguyện thích hợp. Có lẽ chỉ có Na-da-rét và núi Tám
Mối phúc là còn khung cảnh thanh tĩnh giúp ta sống lại những quan hệ mầu nhiệm
Chúa Kitô. Tại những nơi hành hương nổi tiếng như Lộ-đức và Fatima, chung quanh
Đền thánh việc buôn bán sầm uất không kém! Đó là những buôn bán bên ngoài. Còn
những buôn bán bên trong tâm hồn thì sao? Trong Giáo Hội, tinh thần buôn thần
bán thánh vẫn là điều khiến nhiều người đặt vấn đề. Ngày nay Giáo Hội Hoa-kỳ đã
bị ràng buộc trong cơ cấu hành chánh và tiền bạc, không sao tìm được lối thoát.
Không có tiền, làm sao trả lương các linh mục, thư ký văn phòng, giám đốc thánh
nhạc, giám đốc giáo lý... chưa kể những khoản bảo trì cơ sở vô cùng tốn kém. Có
những giáo phận bỏ ra cả mấy triệu bạc để thuê một công ty “gây quỹ”, đặt chỉ
tiêu cho các giáo xứ phải quyên góp cho đủ! Do đó thật khó mà tránh được tinh
thần buôn bán ngay trong những công việc đạo đức.
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là tình trạng buôn bán trong tâm
hồn mỗi Kitô hữu. Chúa Giêsu dạy ta “đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Người để cho ta nhận diện từng thứ, rồi đem “tất cả” ra khỏi tâm hồn ta. Tâm
hồn ta trước hết phải là “lều hội ngộ” để Chúa và ta gặp gỡ mọi lúc. Chúa
Giêsu, sự thật toàn vẹn và Thần Khí đầy tràn, phải chiếm hữu tất cả con người
của ta để loại trừ đi cảnh buôn bán và sào huyệt của bọn cướp. Thánh Phao-lô
cho ta thấy sự trái ngược giữa hoa quả của Thần Khí và hoa quả của tính xác
thịt, là những điều có thể gặp thấy trong tâm hồn ta. Nếu ta biết đem tất cả những
gì thuộc tính xác thịt ra khỏi tâm hồn và thay thế bằng những hoa quả tốt lành
của Thần Khí, ta sẽ là một đền thờ xứng đáng cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. “Những
việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng,
thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia
rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy...
Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ
tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng
đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,19-24).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nếu coi mùa Chay như là mùa “dọn dẹp tâm hồn”, tôi có chương
trình cụ thể nào để tẩy uế đền thờ tâm hồn tôi? Tôi phải đem “tất cả những thứ
này” ra khỏi tâm hồn tôi, vậy đó là những thứ gì?
Tôi hiểu thế nào là thờ phượng trong sự thật và thần khí? Chúa
Giêsu là sự thật toàn vẹn giúp tôi hiểu gì về Thiên Chúa? Và thần khí của Người
dạy tôi sống như thế nào?
Việc thờ phượng với tính cách cá nhân và cộng đồng của tôi như
thế nào? Tôi tham dự vào việc thờ phượng của toàn thể Giáo Hội một cách tích
cực hay hời hợt? Tôi tham dự vào đời sống của Nhiệm Thể Chúa Kitô như thế nào?
Tôi đã làm gì để đóng góp vào việc giúp cho Giáo Hội được lành mạnh thêm và
chiếu tỏa hình ảnh Chúa Kitô hơn ngay trong cộng đoàn đức tin tôi thuộc về?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.”
- dựa theo lời của thánh Têrêxa
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 62)
23. Tẩy
uế đền thờ
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha
tôi thành nơi buôn bán." (Ga 2,16)
Suy niệm:
Đức Giêsu mang lại những cái mới:
Bài Tin Mừng đặt ta giữa một loạt những điều mới mẻ do Đức Giêsu
mang lại. Tại Cana, Người mang lại rượu mới từ nước lã (Ga 2,1-12). Cái mới
được loan báo cho ông Nicôđêmô là cuộc "sinh ra bởi nước và Thần Khí"
như điều kiện để gia nhập Nước Thiên Chúa (3,5). Cái mới mà Đức Giêsu khẳng
định thực sự đã đến khi Người tuyên bố: "Giờ đã đến - và chính lúc này đây
- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha
trong Thần Khí và trong sự thật" (4, 23).
Riêng với đoạn Tin Mừng hôm nay, cái mới được loan báo lại là
chính Thân Thể Người (2,21)! Tại sao vậy? Thưa, vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa,
mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Câu Thánh Vịnh 69,10 này được trích khi tác giả
Tin Mừng Gioan đặt động từ thiệt thân ở thì tương lai (sẽ phải thiệt thân) để
chỉ về cái chết Đức Giêsu phải chịu như hậu quả của lòng nhiệt thành của Người
đối với nhà Chúa. Trong thực tế trước Thượng Hội Đồng Do Thái Giáo, Đức Giêsu
sẽ bị tố cáo "Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội
trong ba ngày, sẽ xây cất lại" (Mt 26,61). Rồi khi bị đóng đinh trên thập
giá, Người sẽ bị kẻ qua lại nhục mạ: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội
trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!" (27,39-40).
Trở lại với bản văn Tin Mừng hôm nay, điều nổi bật là cơn thịnh
nộ của Đức Giêsu. Ta đặt mình vào bối cảnh trong đó Người tỏ ra không thể đội
trời chung được với cái thế giới làm cho Đền Thờ bị tục hoá. Người nhận lấy sứ
mạng tẩy uế nơi thánh. Bản văn cho thấy trước hết là bối cảnh (2,13). Kế đến là
sự kiện (cc.14,15 và 16). Sau cùng là những suy nghĩ (cc.17-22).
Về bối cảnh, hãy coi tầm quan trọng mà tác giả dành cho đoạn văn
này. Đây là đoạn đầu về đời công khai của Đức Giêsu. Mặc dầu trước đó đã có
phép lạ tiệc cưới Cana, nhưng cách nào đó tại tiệc cưới này Đức Giêsu còn hành
động cách kín đáo. Người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không
biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết) ông mới gọi tân lang
lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước và khi khách đã ngà ngà mới
đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ!"
(Ga 2,10). Còn ở đây, ngược lại, là hồi đầu của cuộc đời công khai trong đó Đức
Giêsu hành động một cách chính thức và công khai. Thời điểm mà người chọn cho
hành động đó cũng rất quan trọng đối với đời sống phụng tự của người Do thái:
"Lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến." Độc giả nhớ rằng sách Tin
Mừng thứ bốn được đặt ăn nhịp với tiến trình của những cuộc lễ mà chính yếu là
lễ Vượt Qua về cuối đời Đức Giêsu. Chính với lễ này phụng vụ mới về đời Chúa
được khai trương. Vậy lễ Vượt Qua của người Do thái gần đến, Đức Giêsu lần đầu
tiên lên Giêrusalem cách chính thức và công khai.
Đức Giêsu nổi giận trước cảnh Đền Thờ bị tục hoá:
Thế rồi sự kiện xảy ra như thế nào? Đức Giêsu thấy Đền Thờ bị
biến thành cái chợ! Người ta đang bán bò, chiên, chim bồ câu. Đức Giêsu còn
thấy những người đang ngồi đổi tiền. Tại sao đổi tiền? Vì tiền của chính quyền
thực dân không thể xài được vào việc dâng cúng nên phải đổi nó ra tiền của Đền
Thờ thì mới dâng cúng được. Vậy Người lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ
cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Bất kể tới tiền của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra khi lật nhào bàn ghế của họ.
Ở đây ta có hình ảnh một Đức Giêsu nổi nóng. Người vớ lấy bất cứ
thứ gì, chẳng hạn dây rợ, để bện thành roi. Đó là dụng cụ Người dùng để xua
đuổi những người đang buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Làm hành vi tẩy uế đó xong,
Người mới cắt nghĩa lý do khi nói với những kẻ bán bồ câu rằng: "Đem tất
cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
(c.16)
Kế đến trong bài Tin Mừng là ba suy nghĩ như sau:
Trước hết các môn đệ nhớ tới lời Kinh Thánh "Vì nhiệt tâm
lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (c.17). Ở đây, các môn đệ
áp dụng câu Thánh Vịnh 69,10 này trực tiếp cho số phận của Đức Giêsu. Người sẽ
bị thiệt mạng do âm mưu của giới lãnh đạo Do thái giáo. Nhưng với Đức Giêsu,
hành vi nhiệt thành của Người, thuộc về đạo làm con vì Người nói: "Đừng
biến nhà CHA TÔI thành nơi buôn bán." (c.16).
Người Do thái đòi Đức Giêsu phải làm dấu lạ để chứng minh Người
có quyền hành xử như trên (c.18). Nhưng Đức Giêsu đã không làm phép lạ. Người
cắt nghĩa Tin Mừng này qui về thân thể của Người là thân thể sẽ trở nên Đền Thờ
cuối cùng của Thiên Chúa (cc.19-22).
Điều nổi bật trong bài Tin Mừng là tội được mạc khải như hành vi
tục hoá Đền Thờ của Thiên Chúa. Thay vì thờ phượng Thiên Chúa, người ta đặt
ngẫu tượng lên để tôn thờ.
Mọi tội đều là hành vi tục hoá công trình của Thiên Chúa. Con người
được Thiên Chúa dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Người. Mọi sự khác
đều được dựng nên để giúp con người thể hiện mục đích cao cả đó. Tội khiến con
người hành động ngược lại với ý định của Thiên Chúa nơi công trình của Người
bằng cách đặt ngẫu tượng lên để tôn thờ! Thư thứ nhất của Gioan nêu ba loại
ngẫu tượng đặc trưng, đó là: "dục vọng của xác thịt, dục vọng của đôi mắt
và thói cậy mình" (2,16). Dục vọng của xác thịt chỉ về những ham muốn vô
trật tự của bản tính loài người, trong đó phải kế tới dục tình đang đe dọa trầm
trọng tương lai của xã hội loài người. Dục vọng của đôi mắt chỉ về lòng tham
của con người muốn sở hữu tất cả những gì mắt thấy bất kể tới đức công bằng và
nhu cầu của người khác. Cuối cùng là thái độ cậy mình có của. Nó phát sinh từ
tính kiêu căng tự phụ. Kẻ kiêu căng luôn tìm quyền lực để thống trị người khác.
Đó là gốc gác của biết bao cuộc chiến từng xảy ra trong lịch sử.
Những dục vọng ấy sẽ trở thành ngẫu tượng khi trở nên giá trị
tuyệt đối. Chúng sẽ thay thế Thiên Chúa để điều khiển con người. Và khi ấy
không còn phải là đền thờ được xây dựng bằng đá hay bê tông bị tục hoá, nhưng
là chính con người bị tục hoá như lời thánh tông đồ Phaolô nói: "Nào anh
em chẳng biết anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong
anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ
ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em."
(1Cr 3,16-17).
Vậy cơn thịnh nộ của Đức Giêsu nói lên lòng nhiệt thành chính
Người mang nặng. Nó thúc đẩy Người dấn thân giải thoát những ai bị dục vọng kềm
kẹp. Thực ra, chỉ thân thể Đức Giêsu chịu chết nay được phục sinh mới thực sự
là Đền Thờ mới, là nơi loài người có thể phụng thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và
sự thật.
Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới:
Một cách chính xác thánh Phaolô khuyên người Kitô của mọi thời
là: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải
hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí
anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện." (Ep 4,22-24).
Vậy sứ điệp cơ bản của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống sứ điệp
của tông đồ Phaolô khi viết: "Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới.
Cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi." (2Cr 5,17)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạc khải cho chúng con
biết chính Chúa là Đền Thờ. Chúa chính là Đền thờ cao quý nhất. Xin cho chúng
con biết trân trọng và yêu mến Đền Thờ. Xin cho chúng con chúng con cũng biết
dọn dẹp tâm hồn mình trở nên trong sạch, xứng đáng là đền thờ đẹp cho Chúa ngự.
24. Chú giải
của Lm Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các Tin
Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác
biệt:
- Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức
Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản
văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến
chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm
chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay
sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin Mừng Nhất Lãm: Mc
11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo
chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi
Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin Mừng Nhất Lãm). Nhưng
dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế
đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các
Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu
chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều
thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những
người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng
những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây
liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc
11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của Tin Mừng Nhất Lãm:
bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin
Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do
2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl.
Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với
khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin Mừng Nhất Lãm
đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin Mừng Nhất Lãm
chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng Nhất Lãm thì ghi nhận
trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của
Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án
Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá
Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận
điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của
Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường
thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu
ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo
chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ
đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều
có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời
gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị
xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã
được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu,
vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư
quyết định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14):
Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian
Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17):
Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ
Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là
giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu
trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin
Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ
chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này
đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày,
tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể
hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương
lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông
phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy”
(egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần
cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại
thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud.,
15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo
dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời
điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm
là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc
28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức
Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.
-... là chính thân thể Người (21): Đền
Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của
Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21
và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh,
và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại... Họ
tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu.
Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại
(12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần
(7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã
thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với
cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã
nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho
phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không
thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv
2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc
đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng
ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên
cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn
đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng
Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản
thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không
có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là
một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc
trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ
trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm
cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành
một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng
niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền
Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng
Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là
một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự
cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu
tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại
Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất
của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại
vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định
này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương
phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho
trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo),
và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng
thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các
cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của
những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một
cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ
phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền
lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ
là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về
nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên
ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp
nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn.
Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng
phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài.
Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức
Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người
quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại
Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà
lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn
Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện
của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến...
Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người
như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên
Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức
lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha
Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn
trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là
nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà
này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã
can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ
cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ
tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang
hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch
vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói
rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại
bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên
Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ
tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh
tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến
các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh
chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền
Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt
tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”, thiệt thân vì sự nhiệt
thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng
Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu
công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên
trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối
cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ
sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy
Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền
phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực
hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các
thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào
chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề
tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do
Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha;
điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ
nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là
các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa
lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở
Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận,
mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí
Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa
thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với
uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng
Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách
làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ
mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi;
nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể
hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở thì tương
lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông
phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc
phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái
nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên
thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng
có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do
Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những
người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm
hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những
động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào
với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như
người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người
Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa
án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ
Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt
12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng
gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có
thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất.
Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu
được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức
Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho chúng ta được hiểu trước
biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn
về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng
phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các
ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ
dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù
hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức
Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ
hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người
tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất
ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do
chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo
trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các
môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các
hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu
theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng
đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái
chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn
có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa:
đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ
một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông
Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên
Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các
thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16;
10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha
vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ.
Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu
này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung
đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên
Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và
Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị
Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại
trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin
và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực
hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình
trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được
xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
+ Kết luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm
ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt
thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức
Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ
chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội
lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua
thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân
con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta,
nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ
mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi
chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không
được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho
mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có
thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ
và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân
mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm
các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói
có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà
nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa
về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô.
Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới
dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những
điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một
trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông
hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông
hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần
của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để
hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm
nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các
môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được
Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ
hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?
25. Chú giải
của Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành
Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt thành sống đạo. Trong Tin
Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức Giêsu tham dự những buổi lễ
trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22; 11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là
Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng
Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn trong đám đông, đang cầu nguyện
ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân trước của Đền thờ. Cho dù trên
thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi thức phụng tự Do Thái, nhưng về
mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích. Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc
lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này mà Đức Giêsu là thành phần; một dân
tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây
của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt Qua của người Do Thái" (câu
13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những
môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do Thái, là những kẻ “tin vào danh
Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ ‘lễ Vượt qua của người Do Thái’
đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng một mầu nhiệm khôn dò: Mầu
nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và
những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả
bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người
đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu:
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót diễn tả những cảnh này với
màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu đang nổi giận, cầm roi trong
tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền thờ". Chúng ta cần phải
vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để tìm hiểu ý nghĩa thần học
sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình như Đức Giêsu đối xử với
những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn so với những kẻ khác: Vì
bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ vật của những người như Đức
Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu
chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền không nhất thiết là những
người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các tín hữu từ xa đến, đang
cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến dâng: Như trướng hợp Maria
và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình, hẳn là rất hài lòng gặp
được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp bồ câu non (Lc 2,24). Vì
thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang Tin Mừng trên cách hời hợt,
nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ khác. Chúng ta rất dễ nổi
giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để chống lại tiền bạc, sự mua bán
trái phép, những "ồn ào của bạc tiền" chung quanh bàn thờ, xã hội
tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế phương Tây. Đức Giêsu quả đã
là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận trước vị trí quá lớn của tiền bạc
đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế! Như vậy, chính chúng ta cũng phải
hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi lòng dính bén với
tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ thường mà Đức Giêsu sử
dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi". Chúng ta quá chán với kiểu
nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm hiểu sâu xa hơn căn tính của
"con người" này, Giêsu thành Nagiarét? Trong con người đó đang ẩn
chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và Thiên Chúa, có một mối tình
yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện nơi nhà mình, trong đền
thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm phạm này, không ai được
phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó là nơi "chí
thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không ai được đụng
chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói một cách hết
sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của Người, vì Người
là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai hiểu cả, ngay
cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha
con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc phụng tự mà ta thể hiện với
Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như bò, chiên, bồ câu) mà là tấm
lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi mối bận
tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh thánh:
"Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt vào thân"
(Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa Cha" luôn thiêu đốt
Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những nhánh củi khô. Lễ vật dâng
lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi thức", nghĩa là những gì
ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản thân mình làm lễ vật và trọn
cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn đối với tôi, việc phụng tự ra
sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi ‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng
với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa nhiệt tình, nung đốt tình yêu và
làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của
Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng
mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh quang của Cha Người đã bị xúc phạm
trong việc "buôn bán trái phép" đó. Đức Giêsu quả là một con người
say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng
lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế
mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ "đền thờ" (iéron)
mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không phải là điều ngẫu nhiên,
bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử dụng chính xác từ
"đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ buôn bán; và
Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ là toàn bộ
những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các sân phía
trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói: "Các ông cứ
phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những người dịch không
tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn bé nhỏ, những quý
giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên Chúa hiện diện
(shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử hình do lời tố
cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và sẽ xây cất
lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện này vẫn hoàn
toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước đó. Đó là niềm
tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành hương, mà mỗi năm
hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy nhất" của
Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế! Phát triển như
thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh Phêrô ở Rôma đi
hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương cung thánh đường
ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không có vẻ gì của một
kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính mình
Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ "thánh điện"
(naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang Tin Mừng trên. Ta thử tìm
hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người biết Người là ai. Người
nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình thành "nơi Thiên
Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền thờ mới", là nơi
"phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu sát tế trên ngọn đồi
ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ người ta đang sát tế
nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng đại" (Ga 19,31).
Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay thế cho mọi lễ vật và
làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn trong Đền lúc đó có thể bị
xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra "con sông với dòng nước
mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ Edêkien báo trước, sẽ từ
thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã
nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và của các Kitô hữu đã kết thúc
"Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã đề cập đến đầu trang Tin Mừng
trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt để, mà cuộc giải phóng khỏi
ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh tiêu biểu. Đây là Đền thờ
mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi Thiên Chúa hiện diện không
còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là Thân mình Đức Kitô. Tất cả
phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh thân thể này. Nhưng chúng ta
cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao? Sau này, thánh Phaolô sẽ nói
với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng Côrintô: “Anh ern là Thân mình
Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng phẩm giá cao cả của con người:
"Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh
Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr 3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân xác Phục sinh" của
Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của mỗi người đã chịu phép
rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh em là Đền thờ của
Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?" (1Cr 6,19-20). Thánh
Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh mục nói với anh em
"Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại: “Amen" với niềm xác tín
anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô". Có một bản thánh ca ngợi khen
mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở nên mình thánh biết sung
sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ gìn Giao ước của
Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn định chỗ ở cho Thiên
Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son thiếp vàng",
những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra khỏi thế giới, khỏi
cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung thánh đường hay đền
thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em là Thân mình Đức
Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức Giêsu, tôi "trở
nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp Lễ Vượt qua, có nhiều
kẻ tin vào danh Người.