KHOẢNG
CÁCH THẾ HỆ
“Trong các quốc gia
dân chủ, mỗi thế hệ là một bộ lạc mới (people).” (Alexis de Tocqueville)
Chuyên viên
kinh tế Văn Khánh tâm sự với bạn bè: “Năm
nay mình hơn bốn chục tuổi rồi mà ông bố vẫn coi mình như còn con nít. Có chuyện
vui chia sẻ với cụ thì cụ sẵn sàng dồn cho mấy lời khuyên bảo, mà chẳng bao giờ
để ý tới cách thức mình đã giải quyết khó khăn”…
Bà mẹ của cô
con gái 29 tuổi tới thăm cháu ngoại. Bà tự động dọn dẹp phòng của cháu, thay đổi
hướng giường, nói là nằm thế này để tránh gió độc. Trước khi ra về, bà còn dặn
con gái là phải ăn uống thế này thế kia cho có nhiều sữa. Và chớ có cho cháu
ngoại của bà ăn nhiều rau cải kẻo nó đi tướt...
Thực là lòng
cha mẹ thương con cháu như trời như biển. Chăm lo cho con từ lúc nằm ngửa, phơi
chim, cho tới khi trưởng thành, nên ông nên bà.
Vậy mà cũng có
con than phiền, bảo rằng chẳng để chúng yên, xía vào đời tư của chúng, coi
chúng như còn thơ dại.
Các cụ coi có tức
hay không cơ chứ!!!
Vâng, đó là những
cảnh ngộ thường thấy trong mọi xã hội. Người ta nói tới khoảng cách giữa người
già và người trẻ ngoài xã hội, giữa cha mẹ và con cái trong gia đình.
Sử gia kiêm
chính khách Pháp Alexis de Tocqueville (1805-1859) có nói: “Trong các quốc gia dân chủ, mỗi thế hệ là một bộ lạc mới (people).”
Tại các quốc gia Âu
Mỹ, có 4 lớp thế hệ được nêu ra:
-
Thế hệ cựu chiến binh sinh
ra từ 1922-1943, tôn trọng truyền thống và sống thích hợp với hậu quả của Thế
chiến I.
-
Thế hệ trẻ em bùng phát,
(babyboomers), nhiều lý tưởng, sanh từ 1946-1964
-
Thế hệ X, tự lập, thành thạo
kỹ thuật mới, rất linh động, sinh từ 1965-1979,
-
Thế hệ Y, millennis ra đời
trong thời gian 1980-1994 có thái độ lạc quan, tự tin, thực tế, đa dạng và nghĩ
tới cá nhân nhiều hơn.
Danh từ
Generation Gap, Khoảng Cách Thế Hệ được dùng tại các xã hội Âu Mỹ vào thập niên
1960. Mỗi thế hệ cách nhau từ 20-30 năm là thời gian trung bình để trẻ em lớn lên và
thành người lớn thực thụ.
Tự điển Oxford
định nghĩa generation gap là sự khác biệt về
“thái độ” (Attitude) giữa
những người ở thế hệ khác nhau. Thái độ bao gồm sự suy nghĩ và thấy thế nào về
một sự việc hoặc một người nào đó. Như là:
-
Sự khác nhau trong quan điểm
về nếp sống hoặc thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa lớp thanh niên và lớp người
già.
-
Khác biệt tuổi tác, giữa
những người ở giai đoạn khác nhau của cuộc đời.
-
Khác biệt thế hệ, giữa những
người sinh trưởng trong thời gian khác nhau, hình thành trong điều kiện xã hội
khác nhau.
Khoảng cách tạo
ra những khác biệt về tâm lý, hành động, và đối xử.Vì họ không hiểu nhau, có những không giống
nhau về chính kiến, kinh nghiệm và bản chất.
Thực ra, chuyện
này cũng chẳng có gì mới lạ. Nó đã hiện diện trong nếp sống con người từ lâu,
nhưng rõ ràng hơn kể từ khi có những tiến bộ về khoa học, kỹ thuât.
Thái độ người già
Thuở xưa, khi
nhu cầu đời sống được đáp ứng bằng sức lực và sự khôn ngoan của con người, thì
người già, nói chung, được trọng nể vì kinh nghiệm của họ.
Với tuổi đời, họ
tích lũy được những hiểu biết về canh tác săn bắn, về cách sống, về sự đối
phó với khắc nghiệt của thiên nhiên, về quan hệ xã hội cũng như về văn hóa, nghệ
thuật. Các kinh nghiệm này rất cần thiết cho con cháu, mới vào đời, cho nên vai
trò của họ được coi như kim chỉ nam cho giới trẻ trong việc mưu sinh, lập nghiệp.
Ngoài ra, họ
cũng là người nắm giữ tài sản gia đình giòng họ, có quyền sắp đặt, phân
phát cho nên sự nhờ vả, tôn trọng của giới trẻ đối với họ là điều dễ hiểu.
Trong xã hội,
có những tôn-ti-trật-tự, kính-trên-nhường-dưới, nuôi già, dạy trẻ, kính già,
già để tuổi cho. Cha mẹ nào cũng muốn con cái theo
gương cha mẹ, để “chẳng giống lông cũng giống cánh” và để
giữ sự kế tục, danh dự dòng họ. Mà nói đến kế tục thì nhiều cụ thấm nhuần Nho học
đều muốn ‘hãy nối tiếp, làm theo và không
được thay đổi” những gì tiền nhân để lại.
Do đó, cha mẹ
nào cũng thích khuyên nhủ, dậy dỗ con cái. Có nhiều lý do được nại
ra để trao cho con những kinh nghiệm từ bản thân của họ. Vì đã biết rõ con từ tấm
bé khi con chưa biết gì, nên cứ giữ ý kiến là con bây giờ cũng còn non dại.
Vì lo lắng cho
con, sợ con phạm lầm lỗi.
Vì muốn cho là
mình còn cần thiết cho con cái.
Vì nghĩ rằng
khuyên con vẫn còn là trách nhiệm và quyền hạn của cha mẹ.
Và cũng vì vẫn
muốn kiểm soát con cái.
Tuy nhiên, phải
vô tư mà thấy rằng, kinh nghiệm của người
già có thể có tính cách chủ quan, cá nhân về một lãnh vực nào đó. Vậy mà nhiều cụ cứ
cho là có thể áp dụng trong mọi trường hợp, vào mọi thời điểm với hoàn cảnh
khác nhau. Do đó họ khư khư bảo vệ ý kiến mình, không chịu chấp nhận ý kiến của trẻ,
có thể hợp thời đại hơn.
Ngày nay, khoa
học kỹ thuật quá tiến bộ, bất cứ kiến thức mới nào cũng dễ dàng tìm kiếm qua
báo chí, internet, do đó giới trẻ cũng bớt lệ thuộc vào giới già ở học hỏi kinh
nghiệm. Khi đưa ra ý kiến, nhiều khi các cụ có thái độ gia trưởng,
truyền lệnh. Thay vì “nên thế này thế kia” thì họ lại “bố mẹ muốn như vậy.”
Họ cũng đa nghi, cho là ý tưởng của giới trẻ không có căn bản nên không chịu bàn giao công
việc, trách nghiệm…
Họ cũng không muốn thay đổi, đảo lộn những sinh hoạt mà họ đã quen thuộc
từ nhiều năm. Thực ra có thể là họ không thích ứng được với hoàn cảnh mới, kỹ
thuật mới và không theo kịp với mức độ nhậm lẹ của sự việc. Từ đó, hành động của
các cụ quá đắn đo, dè dặt.
Không ít cụ rất
dễ xúc động, có mặc cảm tự ty, cho rằng mình bây giờ đã về hưu, bớt lợi
tức, đâu còn quyền uy đối với con cái. Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi
đó. Giờ đây đổi đòi, con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Chúng tự do lựa chọn phối
ngẫu tương lai rồi thông báo mẹ cha. Đám cưới chúng giới hạn số bạn bè mình được
mời. Muốn tới thăm cháu, phải hẹn trước. Rồi các cụ hờn dỗi, tủi thân vì nhiều chuyện
vẩn vơ, không đâu.
Thái độ giới trẻ
Bản chất giới
trẻ cũng có một số điều cần lưu ý, như là:
-
Có thể nông cạn về lẽ sống
-
Nhẹ tình cảm gia
đình, quê hương, cội nguồn dân tộc.
-
Nhiều hoài bão, không thỏa mãn với cái đã có.
Trước hết, phải
thừa nhận là con cái bây giờ có nhiều điểm thuận lợi hơn cha mẹ già. Các con có
kiến thức cao, suy luận thực tế, khoa học hơn, tính tình cởi mở, dám nghĩ dám
làm việc khó, việc lớn
Các con khỏe mạnh hơn, nhiều nhiệt huyết hơn, có thể làm nhiều việc trong một thời gian
định sẵn. Tầm nhìn của con cái thoáng rộng và thực
tế hơn. Họ có nhiều dự
tính cho tương lai và luôn luôn nghĩ tới sự tranh đua, phấn đấu.
Đối với cha mẹ,
các con cũng có một cái nhìn hơi e ngại dè dặt, ít thổ lộ, ít tiếp xúc. Lý do
là văn hóa giáo dục khác biệt. Một bên nghiêm khắc, kín đáo, một bên ồn ào cởi
mở. Một bên dùng những ngôn từ “thời đại” mà phía kia, mù tịt, chẳng hiểu ất
giáp gì. Như là “phần mềm, ổ cứng”… trong máy computer.
Tuy nhiên, con
người dù tài ba đến mấy chăng nữa cũng phải có nguồn gốc, có cha mẹ:
“Con người có bố, có ông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
Vì thế cũng nên
luôn luôn nhớ câu “uống nước, nhớ nguồn”, dù cha mẹ có không hoàn hảo, vẹn
toàn.
Vả lại:
“Tuổi già hiu hắt ngọn đèn
Trước cơn gió lớn, sức bền còn không.”
Và:
“Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.”
Nhiều cháu có
thể có cả một kho tàng kiến thức nhưng nếu được kết hợp với sự thấu đáo, kinh
nghiệm, với sự khôn ngoan của mẹ cha thì kiến thức của mình sẽ đạt được nhiều
thành công hơn.
Các cháu nhiều
sức lực, trí óc tươi trẻ nên hành động nhanh nhẹn hơn. Nhưng “đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá, mà
quàng phải dây.” Cha mẹ chậm chạp, nhưng đôi khi chậm mà chắc.
Một số cháu cứ
nghĩ rằng cha mẹ già yếu, trở thành vô dụng.
Thực ra già vẫn
còn sức mạnh của sự già: sức mạnh của kiên nhẫn, tôi luyện từ nhiều chục năm
lăn lội trường đời. Họ vẫn còn khả năng làm việc, nhưng để hoàn tất, họ cần thời
gian lâu hơn. “Có còn hơn không”, phải
không các cháu?.
Nhìn chung
Nói ra thì nhiều,
nhưng đi vào thực tế, phải công nhận là có một khoảng cách dài ngắn, những khác
biệt nào đó giữa các thế hệ khác nhau trong cộng đồng, giữa cha mẹ, con cái.
Khác biệt về suy nghĩ, hành động, về quan niệm sống, về cách diễn tả tình cảm,
tâm trạng.
Sông có khúc,
người có lúc thì mỗi lứa tuổi cũng có đặc điểm, cá tính của mỗi thế hệ, mỗi lớp
tuổi.
Không nên coi khác
biệt đó là mâu thuẫn gây trở ngại cho hài hòa gia đình, xã hội mà là một lẽ đương nhiến trong đời sống, có
già có trẻ. Tre già sát cánh măng non. Cũng như có âm thì có dương, có sáng thì
có tối, có tốt phải có xấu.
Chẳng nên tìm cách
xóa bỏ cách biệt mà nên “biết người biết mình”, để hòa hợp chung
sống.
Thích nghi, chấp
thuận với khác biệt của nhau, miễn là những khác biệt này không mang tính cách
hủy hoại lẫn nhau.
Giúp nhau gọt
rũa khác biệt cho dần dần ăn khớp với nhau.
Sẵn sàng lắng nghe nhau,
phân tích dị biệt, bàn cãi thẳng thắn rồi chấp nhận nhau.
Tổng kết các điểm
đã thông cảm, thỏa thuận thành đường lối chung cho đại gia đình.
Mọi người nên
nghĩ đời sống là một cái vòng luẩn quẩn, như diễn tả của bác sĩ Milton
Greenblatt (1914-1994), nhà tiền phong Hoa Kỳ vể chăm sóc sức khỏe tâm bệnh:
“Trước hết, chúng ta là con của cha mẹ
Rồi là cha mẹ của bầy con
Sau đó sẽ trở lại làm cha mẹ của cha mẹ
Cuối cùng là con của bầy con »
Để mà thông cảm,
chung sống với nhau.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức www.bsnguyenyduc.com