CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA
NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN B
MỤC LỤC
30. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
31. Chúa thương
chữa người bệnh cùi catholic.org.tw
32. "Sạch
và dơ" Lm
Carolo Hồ Bạc Xái
33. N gười anh
em phung hủi Lm Giuse Đinh lập Liễm
36. Chúa Giêsu
chữa người bị JKN
37. Nếu Thầy
muốn... Noel Quesson
38. Hậu quả đáng
sợ của tội lỗi Linh
Mục Inhaxiô Trần Ngà
39. Đối với
Thiên Chúa không ai... Achille Degeest
40. Ai là người
đồng thời ... Mở Ra Những Kho Tàng
1. Phong cùi
Theo luật Do Thái, những người phong cùi không được sống trà
trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình, không được động chạm tới
họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách, để tóc dài, không cạo
râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên để những người khác
tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ phần xác mà còn đau
khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô đơn và tuyệt vọng.
Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm nay, chứng bệnh này vẫn
còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao người bệnh
qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy đến tìm gặp Chúa Giêsu,
vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để được khỏi. Niềm hy vọng
duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi đó, anh đã quỳ xuống, sụp
lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận anh một cách nhân từ,
chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng tư tế để được chứng
nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của Chúa, chúng ta nhận
thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết: Ngài coi mọi bệnh
tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi tai ương của
chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu đã đặt tay
trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết bao những kẻ
bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài.
Tình thương này không phải chỉ được biểu lộ với những người đau
khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ phần hồn, tức là những kẻ tội
lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để kêu gọi những kẻ tội lỗi. Một
người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công
chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy, Ngài không ngần ngại ngồi ăn uống
với những người mà bọn biệt phái liệt vào hạng tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đồng
thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, cho tên trộm
lành và nhiều người khác nữa.
Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời của cha Đamiêng, vị tông
đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria.
Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình
nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời,
sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.
Như chúng ta đã biết, phong cùi là một chứng bệnh nan y và ghê
sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù còn sống nhưng thực sự
chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối. Đó cũng chính là hình
ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta
trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có một
vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, chúng ta hãy
bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa, xin Ngài xót
thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa là hãy chạy
đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng ta sẽ được
chữa lành, được tha thứ.
2. Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người
Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô
uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và
lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề
luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc
phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả
về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta
hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc
bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được
lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được
lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội.
Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh
vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí
còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình
bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh
này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa
Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài,
muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ
nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã
làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã
không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người
bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho
việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có
những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật
vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng
ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng
tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi
bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là
mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội
lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng
ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng
ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó,
chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn
đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
3. “Hãy sống đẹp cho nhau”
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn
ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một
lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong
cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ
xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy
cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành
khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được
một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc:
“Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo
một đồng nào trong túi”. Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà
còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói: “Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho
tôi một món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà
còn coi tôi như người anh em của ông”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng tường thuật lại một cử chỉ
đẹp mà Chúa Giêsu đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào
thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa
tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu
nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ.
Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân
thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn
xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh
cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ
nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được
cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn
lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống
tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh
tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người
khác, được tôn trọng và yêu thương.
Có ai đó đã từng nói rằng: “một lời nói hay không bằng một cử
chỉ đẹp”. Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc
sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống
đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc
sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử
đẹp với nhau.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu
nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì
tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn
đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử
thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô
lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta.
Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như:
sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể
“khôn nhà dại chợ”, sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta
không thể sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình
chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh
và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với
nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ.
Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng
ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành
cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng,
Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho
anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những
nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết
dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những
hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng
nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen.
4. Đức
Giêsu- Đấng chữa lành mọi bệnh tật
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên
khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần
lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu
làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ,
một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.
1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều
Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh
phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay
người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm
(HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi.
Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ
thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh
này.
Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là
một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người
bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ
những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu
diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt.
Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như
vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được
phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau,
nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.
Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của
người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta
thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là
thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội
làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất
bình an mất vui và không được hạnh phúc.
2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong
được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi
bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta
có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như
niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể chữa tôi!”
Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời
giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa
tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi
chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ,
nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm
như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh
đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta
nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào
Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được
nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta
qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã
đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức
Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh
tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa
không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức
Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết
con người lại với nhau và với Thiên Chúa.
3) Đức Giêsu không chỉ là một con người
Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong
cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người?
Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa
nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi
người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta
sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ
của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai
nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được,
thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân
tướng của Ngài mà thôi.
Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên
tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi
muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta
biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri
trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong
cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ
cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không
chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy,
và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra.
Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất
đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người,
Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con
người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ.
Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi
tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh
tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.”
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở
điểm nào? Xin chia sẻ?
2. Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc
gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm
được điều này không? bằng cách nào?
5. Niềm vui tròn đầy.
(Suy niệm của John W. Martens - Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ)
Vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi (
Mc 1,45)
Trong tác phẩm “Bàn về sự nhiễm uế và tội lỗi trong nền văn hóa
Do Thái cổ đại”, tác giả Jonathan Klawans đã nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm
uế do tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự nhơ uế mang tính luân lý gồm những
tội như ngoại tình và giết người, hàm ngậm những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn
sự nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục bao gồm những tiến tình tự nhiên, như
việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v..
Những quy trình tự nhiên này không liên quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh
phong hủi, là một trong những bệnh ngoài da vẫn được người ta xem như một thứ
nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo tập tục thời bấy giờ mà thôi.
Cho dù một người mắc bệnh ngoài da, như những người bệnh phong,
sẽ không bị kết án là có tội, nhưng theo sách Lêvi “ người đó vẫn bị coi là nhơ
uế bao lâu còn mang bệnh tật trong người. Họ phải sống một mình, tách khỏi lều
trại nơi cộng đồng sinh sống (Lv 13,45-46)”. Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi
còn bị cắt đứt sự tương giao hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống
tôn giáo. Những sự nhiễm uế khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ
kéo dài một thời gian ngắn, thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng
nhiễm uế do bệnh cùi có thể trở thành vĩnh viễn suốt cả một đời người.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi một người phong hủi đi tìm kiếm
và đến gặp Đức Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh ta trở lại hòa nhập với cộng
đồng. Qùy gối trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin tha thiết với một ước muốn
giản đơn “ Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Mặc dù bệnh nhân
không nài ép Chúa với một cung điệu ai oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ
mong ước với một động thái xác quyết và tin tưởng, vì “ Ngài có thể làm việc
này”. Đây là một thái độ biểu tỏ đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền
năng của Đức Giêsu và tín thác nơi lòng trắc ẩn của Ngài.
Đức Giêsu chạnh lòng thương đối với bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn
từ Splanchnizomai trong tiếng Hy lạp, diễn tả một tình cảm sâu xa, một sự
thương cảm và yêu thương dạt dào. Trái tim của Đức Giêsu đã lay động trước hoàn
cảnh bi thương của người bệnh và Ngài giơ tay chạm vào anh ta. “Ngài nói: Tôi
muốn, anh hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi biến mất và anh ta được lành
sạch (Mc 1,42)”. Khi chạm vào người cùi, Đức Giêsu có làm điều gì sai trái
không? Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù bệnh cùi là căn bệnh lây lan,
và luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân là một sự nhiễm uế, nhưng sự
nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi Đức Giêsu chạm đến người cùi
để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi phản khoa học, khiến dễ bị
lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự nhiễm uế. Động thái này có
nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận tuân thủ lề luật và Ngài
không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào.
Sau khi bệnh nhân đã hoàn toàn được lành lặn, Đức Giêsu nghiêm
giọng đuổi anh ta đi ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng “ Đừng nói gì với ai cả,
nhưng hãy đi trình diện tư tế và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những
gì Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết (Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức
Giêsu được thể hiện không phải bằng một cái ôm hôn thắm thiết để chúc mừng anh
ta, vì anh được trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng, Ngài nói với người được
chữa lành là hãy đi thực hành những gì mà luật Môsê dạy bảo, như đã viết trong
sách Lêvi 14,1-32. Bệnh nhân sau khi được lành bệnh, phải thực hiện điều luật,
để được đón nhận trở lại hội nhập với cộng đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra,
như sách Lêvi đã dạy, và sự kiểm tra này kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang
trên đường để tái hòa nhập, và lúc Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn
chưa có thể trở lại với cộng đồng một cách hoàn toàn lúc bấy giờ.
Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nghiêm giọng bảo anh ta đừng nói gì
cho ai biết? Có phải thực sự Đức Giêsu mong muốn người bệnh đã được chữa lành
phải câm lặng tuyệt đối hay không? Có phải bệnh nhân sau khi được lành sạch sẽ
không nói cho vị tư tế biết ai đã chữa lành cho mình?
Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là mời gọi mọi người tiến vào Vương
quốc Nước Trời, thế thì tại sao Ngài lại nghiêm cấm người vừa được chữa lành do
quyền năng của Ngài lại phải câm nín? Người được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn
không thể im miệng được. Anh ta ra đi và bắt đầu công bố cho mọi người, quảng
bá rộng khắp tin vui mà mình mới được lãnh nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp
Đức Giêsu ngày càng đông đến mức độ Ngài không thể công khai vào thành nào, mà
chỉ có thể ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành ( Mc 1,45) .
Dường như có sự mâu thuẫn và đối kháng giữa chỉ thị của Đức
Giêsu cấm người bệnh đừng nói gì với ai, với sứ mệnh quảng bá Vương quốc Nước
Trời. Trong Tin mừng Marcô, chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đã nói như vậy.
Các học giả kinh thánh gọi đó là “Bí mật Thiên Sai”. Một đàng, Đức Giêsu mời
gọi mọi người hãy bước theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh nhân một cách
công khai, một đàng lại có vẻ như Ngài muốn bịt miệng các chứng nhân, cấm họ
nói bất kỳ điều gì. Có phải đây là một sự đánh đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu
khởi xướng, hay chỉ là một kỹ xảo chơi chữ theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử
dụng?
Các học giả cho chúng ta thấy thái độ phản ứng của bệnh nhân
được chữa lành nói lên câu trả lời cho vấn nạn này. Niềm vui Tin Mừng vọt trào
nơi tâm hồn những con người mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến, phải được công bố và
được nhân rộng. Niềm vui đó cần được sẻ chia, cần được quảng bá rộng khắp cho
mọi người. Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay đã chu toàn những gì lề luật
đòi hỏi, nhưng anh ta biết rằng mình không thể câm lặng, ôm giữ cho riêng mình
niềm vui sung mãn và ngập tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm sự vui mừng lớn lao
vì được thụ lãnh quyền năng chữa lành của Đức Giêsu, anh ta ra đi và nói cho
mọi người biết. Đây là hình mẫu và là chân dung của một nhà truyền giáo đích
thực, mà mỗi người chúng ta cần phải sao chép.
6. Giơ tay đụng vào – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo…”
Kể từ cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được trong khóa học BISA VIII
tại Bangkok - Thái Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm Thìn, tôi đã có một cái nhìn
rất khác về ‘phép lạ’ Đức Giêsu chữa người bị phong hủi.
BISA (Bishops’ Institute for Social Action) là khóa học dành cho
các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học
Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC
(Federation of Asian Bishops’ Conferences) tổ chức. Khóa VIII na7m đó có sự
tham dự của khoảng 30 giám mục, 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18
Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại
diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài học tập liên quan đến các di dân
và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần, bốn ngày dành cho chương trìnhthực
nghiệm (immersion program) và bốn ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận.
Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi
thực tế trong một môi trường xã hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có
02 giám mục, đi làm việc tại một trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for
AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong miền đông nam Bangkok - Thái Lan, gần biên
giới Kampuchia. Công việc của chúng tôi là cùng với các y công và y tá của
trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS đang trong giai đoạn cuối. Một trong các
công việc tôi được trao là thay tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS
hoàn toàn bại liệt.
Việc phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một
thứ phong hủi ghê tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ bẩn nhất của thân xác họ,
đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc tự nhiên trong mình như
muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên nhiều lần
trong đầu tôi lúc đó chính là: “Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!” Phải,
Thiên Chúa trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng chạm trực tiếp tới tình trạng kinh
tởm dơ dáy tột cùng của thể xác, nhất là của tinh thần con người (trường hợp
Người giơ tay đụng vào người mắc bệnh phong cùi ghê tởm ở đây chỉ là một chút
điển hình!). Và Người làm hành đông này không có bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào
như tôi lúc đó, nào là khẩu trang, bao tay cao su, nào là các thiết bị y tế,
nước sát trùng… và cả các tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất mà Người được
trang bị và sở đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời cũng chính là điều tôi hoàn toàn
thiếu thốn) đó là ‘Người chạnh lòng thương’! Thế đấy, tình yêu nhập thể thực
quá cụ thể và chạm tới những ngõ ngách cùng tận và tăm tối nhất của kiếp người.
Điều mà Đức Giêsu đã làm với người phong hủi xưa, Người sẽ còn tiếp tục làm mãi
với từng con người nhân loại chúng ta, đặc biệt những ai cùng khổ bất hạnh,
bệnh tật kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân lý; bất cứ ai Người cũng chạm
tới được miễn là họ biết ‘quỳ xuống và van xin…’ như người phong hủi xưa.
Và cũng từ trải nghiệm này tôi còn được học thêm một điều nữa,
đó là việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn
mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại
được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may kéo dài cuộc sống, ngược lại bệnh
nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng
không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân
niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh
nhân AIDS mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một số họ đã bắt đầu
tỏ ra có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB (lao phổi) nặng,
bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi được tôi ân cần
đút cơm và trò truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã…
Và bác sĩ cho biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả quan hơn.
Thế đấy, tác giả Mác-cô viết: ‘Người chạnh lòng thương, giơ tay
đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi
anh, và anh được sạch…’ ôi sao mà xác thực quá! ‘Chạnh lòng thương’ còn quan
trọng hơn nhiều việc Đức Giêsu lấy quyền năng mà làm phép lạ… Nói cách khác,
chính ‘chạnh lòng thương’ mới là phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp
nỗi khát vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi
tình trạng bị mọi người hắt hủi, và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi
sự tiến trình hoàn toàn biến mất.
Ôi, sức mạnh của lòng thương xót thật vô song, và mong sao mọi
linh mục của Đức Ki-tô không những hiểu được điều này mà còn tham gia tích cực
vào quyền năng này nữa!
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng,
không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận được, nhưng vì đã biết
tín thác vào lòng Chúa xót thương. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu
đuối phần hồn phần xác (sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!), con vẫn mừng vui
khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự ghê tởm, thấp hèn và tội lỗi của
con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức sống bất tận.
A-men.
7. Tôi muốn anh được sạch
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng
hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi.
Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh
mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã
làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không
chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa
Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm
đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung
hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt
trong trình thuật nầy.
Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước
mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh
bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện,
và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại
không những thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã
hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến
với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và
ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể
luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: “Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy
ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể
làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng
phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và
chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch.
Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay
đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền
năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa
(Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa
Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô
uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng
đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của
ông mà chữa ông lành:”Tôi muốn, anh sạch đi!”.
Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là
để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa,
biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông
lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với
Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công.
Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh
nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao
trong ông, khiến ông chỉ có một cách là “rao giảng” kèrussò, tin mừng ấy
cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ
ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau
ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36).
Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con
người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót,
nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con người.
8. Chữa người phong cùi – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi
lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng
tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào
một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà
không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau.
Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi
người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ.
Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn
thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi
tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác
này.
Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và
hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa
rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một
bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà
con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không
còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa.
Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa
mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào
xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang
thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn
thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại.
Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần
trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho
người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ
trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa
là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm
thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục
khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác
độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng,
ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay
biết.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của
chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng
ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
9. Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm:
Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên, phải vừa đi vừa kêu
lên: “Ô uế ! ô uế !” để người ta biết mà tránh xa. Người phong phải ở một mình,
phải ở một chỗ bên ngoài trại… Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ
lây lan của bệnh phong và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư
tế, phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày, và phải dâng
những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch, mặc dù
theo truyền thống Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh, đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến
chính phận người hẩm hiu của anh, dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh
khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế. Trái
lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả
giá.
Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành. Khi người khỏi
bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ
tu. Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn… Nhiều nữ tu đã hiến
dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong, đụng đến những vết thương tàn
phế nơi thân xác họ. Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người
phong, ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp
nơi, và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương
thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức
sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu
tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con
tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời
nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu
của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
10. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa – Yvon Daigneau.
Mở đầu.
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các
trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là
Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để
giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ.
Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay
mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với
chúng ta.
Bệnh tật.
Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không
đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những
liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước
sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách
nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại
giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền
lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội
lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh
là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là
Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến
ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin
một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu
tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một
khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại
người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người
bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn
như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành?
Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức
của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một
việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố
anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh
tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ
anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được
tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc
này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên
dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này
qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi
đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.
Người phong cùi.
Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của
Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi
người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình
hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối
xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới
để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như
trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một
cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất
chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.
Kết luận.
Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự
sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi,
những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh
tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa
Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
11. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
BỆNH PHONG TÂM HỒN
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa
lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ
không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài
đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi
đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai
tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh
phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người
bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà
còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh
khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn
trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục
sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi
dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào
thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì
thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp
những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi
những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân
thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh
rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh
nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm
hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh.
Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay
anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm
thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị
bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương
vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức
Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã
hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia
anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần
của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh
được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao.
Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết
thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai
thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ
xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao
năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ
an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ
anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi.
Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc
cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng
danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời
sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong
vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm
hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa
đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong
kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền
da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được
khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây
bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa?
Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa?
Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu
chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
12. Muốn và có thể.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta. Những thùng quyên
tiền của Mẹ mang dòng chữ: “Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của
bạn”.
Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ. Theo luật Cựu
Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu người ấy cũng phải la
to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46). Bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng
tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống mà như chết.
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt. Anh tự ý
đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van xin của anh thật là một
lời xin mẫu mực. “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài. Anh để cho
Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh lại phó thác
số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của
Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh: “Nếu Thầy có thể
làm được gì...” (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh. Chỉ cần
Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh đã đụng
rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn.” Phép
lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức
Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh. Ngài không kinh
tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các
vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế. Chính lòng
thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh đã mạnh dạn đến với
Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật. Ngài bảo
anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường, được
chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh lấy lại phẩm giá,
ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi. Người
phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài
thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871, người
phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa
hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong: những cô gái
lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập, những người có tiền án hay
thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình, vì nói cho
cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự
do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người
phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây
bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị
coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày đón nhận những
người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày con không thể nào
kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có những ngày mà yêu mến người
khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của
bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn đó, xin
hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con
quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho
chính Ta”
13. Người bị loại trừ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng,
bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét
theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm,
người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng
bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp
đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong
cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở
những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để
cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước
để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm
như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi
làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác
lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành
bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy
chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.
Anh chị em thân mến,
Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do
Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người
phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ
xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa
Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến
người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến
mất, người phong cùi được lành sạch.
Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển
biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp
đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa,
người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.
Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ
chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị
chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô
lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ
có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn
vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi
và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được
nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch,
cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại
trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất,
không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa
và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm
Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh
phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi
người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong
cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng
không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón
đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như
luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có
vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị
chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…
Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của
Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người
mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình
trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc
sẵn sàng quên mình vì mọi người.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh
em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế,
chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi
đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo
khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm
Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh
em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho
chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa
Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng
chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa
Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên
trời.
Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean
Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm
làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những
bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng),
trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội,
nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình
yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang
lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.
Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm
u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi
vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của
ngài, ngài đáng được gọi là: “Cha của người phong cùi”.
Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo
được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta
xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta
đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc
với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc,
hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập
trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm
nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ
Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng
trong trái tim của Ngài.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn
và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa
và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được
hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi
người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.
14. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Trần Ngà)
Thời Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng
bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết
phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ
về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách
ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi
người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời
bằng cái chết cô đơn thảm hại.
Bài trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn
tả phần nào tình trạng thương tâm đó: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo
rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó
ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một
nơi riêng bên ngoài trại.” (Lêvi 13, 45-46)
Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giêsu.
Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác
hại cho người lỗi phạm không thua kém.
Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín
hữu vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như
thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giêsu cũng chuyển
thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu như thế.
Bí tích thánh tẩy làm cho “người tín hữu trở thành chi thể trong
Thân Thể Chúa Giêsu” (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của
Chúa Giêsu được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong
từng chi thể.
Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra
khỏi Chúa Giêsu như cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt
lìa cơ thể.
Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô
héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa
không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả
thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi
người.
Chúa Giêsu cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi “người bị phong hủi đến gặp Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van
xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu chạnh
lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức,
chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.” (Mc 1, 40-42)
Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa
chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giêsu nghiêm cấm anh tiết lộ
danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào
kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận.
(Mc 1, 42)
Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị
cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia
đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.
Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng “cành lìa cây”, “cánh tay
bị cắt lìa cơ thể” do tội lỗi gây ra, Chúa Giêsu lập nên bí tích giải tội để
nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người
tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho
cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày qua ngày, Chúa Giêsu vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về
như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc
trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con
chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giêsu như người
mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và
tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin
cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho
chúng con.”
15. Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn
láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng
trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu
và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối
rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu. Cuối cùng người tân tòng bèn
thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn:
Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ.
Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm
nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà
mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả
những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.
Tình cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người
phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô,
nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi
người biết điều đó…
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải nói cho mọi người biết
những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy lưu ý tới hành
động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế, trái lại Ngài đã giơ
tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh của anh biến mất.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ tay ra đụng tới chúng ta và
chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng
đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành những ung nhọt tội lỗi. Ngài
đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao ban Thánh Linh và gia tăng sức
sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn
chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng
ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau phần hồn cũng như phần xác. Ngài
giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp họ thánh hóa cuộc sống gia đình…
Chính vì thế, chúng ta có thể mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ
Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn năng, đã làm cho tôi muôn
việc trọng đại. Là những người cha người mẹ, chúng ta phải nói cho con cái biết
những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia đình chúng ta nữa.
Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, cũng phải nói cho những người
tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời sống, những gì Chúa Giêsu đã
làm cho chúng ta.
Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng chúng ta
biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm thay đổi để chúng ta được
trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
16. “Vì loài người chúng tôi”
“Ngài chạnh lòng thương, giơ tay sờ vào anh ta”
Như bị một ma lực cuốn hút, người phong cùi cứ rẽ đám đông xấn
tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ quát mắng, ngăn cản anh.
Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón và sờ vào anh ta. Theo
phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn còn như vậy), bệnh nhân
phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn, thị tứ, nơi những “người lành”
cư ngụ. Họ bị coi là “kẻ xấu xa” vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này
vì tội lỗi của mình. Họ bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang
vất vưởng như những bóng ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn
thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không
muốn “dây với người hủi”. Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta.
Khi đôi tay nhân lành chạm vào làn da “sượng sần và tê điếng”, lạ thay và cũng
cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai
nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp
các tư tế.
Đây là một thủ tục cần thiết để người phong có thể hội nhập lại
xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia đình anh, bạn bè anh, bà con lối
xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu người phong khỏi bệnh, Chúa còn
trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối với người phong là anh ta không
được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này xem ra mâu thuẫn với việc phải đi
bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội nhập xã hội trở lại. Đương sự đã
không thể giữ miệng được lâu. “Vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và
tung tin đó khắp nơi”. Anh đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì
anh đã được cứu độ, được giải phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức
Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài
là ông thầy lang mát tay, Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần
chúng. Cho dù làm cho người ta hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một
điều dễ dàng.
Thánh Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa là những “dấu chỉ”,
Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình, hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa
đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa
đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang, người trừ qủi, người giảng thuyết,
mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng của con người chúng ta, và để
cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn thường tuyên xưng: “Vì loài người
chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
17. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có
thể chữa tôi”.
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia,
gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa của bác to hay nhỏ?
- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi;
nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.
Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên
Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng
Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể
trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.
Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại
người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà,
không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn
hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta
biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với
họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly
đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền
cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy
có thể chữa tôi”.
Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa
Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người
phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt
như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết
rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng
tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm
vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa
đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động
này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và
đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng
tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể
phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón
nhận.
Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng,
chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc
sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người
anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.
18. Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì những cử chỉ nhỏ bé lại có thể
giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một con người. Những điều lớn lao
chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con người. Còn những điều nhỏ nhoi
lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại nơi một con người. Chúng ta có
được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức
Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong hủi, trước khi chữa lành cho
anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh
này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại
khẳng định được nhân cách và giá trị của con người.
Ngày nay, người ta không còn sợ hãi bệnh phong hủi như trước
đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà được điều trị kịp thời, thì họ
có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong
Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong những căn bệnh đáng sợ
nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối
với chúng ta ngày nay.
Người mắc bệnh phong hủi bị cấm không được sống chung với cộng
đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây nhiễm. Những người phong hủi cũng
bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ bị coi là những kẻ không
tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc với họ. Do đó, họ là những kẻ
sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người ruồng rẫy, khinh miệt và
người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng rẫy, khinh miệt nữa. Nếu
muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ nghi thanh tẩy, trước khi
được chấp nhận trở lại với cộng đồng.
Đức Giêsu biết tất cả những điều này. Tuy nhiên, Người đã vượt
qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu cho phép người phong hủi
lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà không ai ngờ. Người tiến đến
gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa lành cho anh. Tại sao Người
lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm đó cho thấy lòng thương
xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề xã hội, kẻ tội lỗi và
người đau khổ.
Người đụng chạm vào người phong hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất
cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự bản thân họ đã tinh sạch. Sự không
tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự tinh sạch của tâm hồn. Người đụng
chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng không được khinh miệt bất cứ ai, và
coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn thể xác của họ. Người
đụng chạm vào các thương tích của con người, không phải để cho các thương tích
đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ khử chúng ta ra khỏi
người đang bị đau đớn.
Đối với người phong hủi, cử chỉ đơn giản đó mang ý nghĩa của cả
một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là tự thân
căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào
người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa
đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch, vô giá trị, không là gì cả, chỉ
là một con người bỏ đi mà thôi.
Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao, và có cảm xúc đối với
những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như sau;
“Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong hủi của người phong hủi, sự
tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự mãn của những kẻ sống theo lạc
thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu có, sự thèm khát có thể dẫn con
người đến tình trạng uống cả những giòng nước bùn lầy”.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương xót của chúng ta. Người
thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi người chúng ta đều có khả
năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng ta thường không sử dụng đến
khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng này trong sức mạnh của chúng
ta, để tiếp cận được với những người đang phải chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh
bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê
vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt
về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận ra được cách cư xử, mà một
cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội
ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những người phong hủi (sống ngoài
lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử của Đức Giêsu đối với họ. Vậy
chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ con người, mỗi người chúng ta
đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa tội, và chúng ta cần phải loan
truyền tin vui.
19. Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh
phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc
phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như là những người không
thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ
phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người
đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời
của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch
nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta
không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to
lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng
những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ
không xua đuổi anh.
Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép
anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi
này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người
không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi
đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào
anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem.
(Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản,
cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự
biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều
e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một
vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy
nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi
được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc
biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi.
Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác
về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu
và kẻ chết.
Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng
đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm
thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn –
do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ
rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn
thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch”.
Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi muốn”. Và Người đã chữa lành
cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành
lặn.
Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng
nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc
một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư
xử của các bác sỹ và y tá.
Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của
Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm
cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh,
nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà
Người đã cư xử với anh.
Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một
người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc
tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những
người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids…
Những điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh
ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông
truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào.
Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của
Thiên Chúa nữa.
20. Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm
nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và
trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại,
chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người
ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho
tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng
cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối
dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng
giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng
thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của
chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh.
Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải
chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập
tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây
lan của nó.
Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào
trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn
ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu
vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội
là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly nước.
Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và
xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên
trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng
Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia
ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại
thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh
phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.
Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng
chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc
phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng
Chúa.
Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta
phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid
ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó
thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.
Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế.
Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng:
Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.
Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích
của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội
chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.
Có một người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và
nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi
cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy trong nhân loại có con hay không?
- Thưa, có.
Thế là người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú
tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn
năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.
21. Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu
được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn
nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa
số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn,
thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân
xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu,
noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ
nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất
nước.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000
năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những
kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc
quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi
cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải
kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc
bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống.
Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi
đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho
phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào
Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho
Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng
tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:
- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.
Tất cả ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được
làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là
Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.
Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài
đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ
những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng
thương xót trào dâng.
Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với
những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm,
thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những
người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc
bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở
nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc
đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta
phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho
anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu
thương và chăm sóc của chúng ta.
22. Bệnh phong
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông,
trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở,
răng rụng… Một hôm, Đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các
linh mục ở Âu Châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ,
đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau
này được tặng thêm biệt danh “Tông đồ người phong”.
Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và
giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức
giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: “Các con thân
mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn
sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các
con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?” Cả nhà thờ xôn xao, thì
thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ
từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến
gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như
những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người
thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức
giám mục: “Thưa đưc cha, họ làm gì vậy?” Đức cha trả lời: “Họ nói họ không thể
tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ
trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh
đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem
cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: “Không, cha đẹp quá, cha
không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá”.
Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha
Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm
họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ
rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha
cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi,
trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của
cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng
nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: “Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?” cô
cháu trả lời: “Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy”. Qua mắt
được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi
lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình
yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em
gặp một người phong cỡ nặng chưa? Mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy
Hòa, Bến Sắn… anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì
là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người
đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai
trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn
giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị
kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được
ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó
trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ,
đi đâu người đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên “dơ, dơ” để mọi người biết mà
tránh xa… Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại
dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần
cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.
Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người
phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm
như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng
niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh
đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin:
“Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chúng ta hãy để ý
câu anh nói “Nếu Ngài muốn”, anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền
năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh
biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn
tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng
ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương
xót của Chúa.
Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến
nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể
là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm
đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa
như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào
đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói “Tôi muốn, anh sạch đi” vừa cầm tay
bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những
người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật
lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của
chúng ta.
23. Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng
không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình
bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người,
đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng
nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm
thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc
công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là
tẩy chay.
Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người
tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với
cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của
họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là
do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ
rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn,
nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những
thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều
đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.
Có những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ –
phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ.
Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ,
hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như
việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.
Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng
bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng
đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó,
bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người
phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người
phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả
mọi người ruồng bỏ.
Khi chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử
với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù chúng ta không ý thức về điều
đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh
tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng
những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những
hậu quả trầm trọng lâu dài.
Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong
hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ
và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi
người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây
nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.
Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng
thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho
phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ:
Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh
một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ
bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước
khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy
mặc cảm nơi anh.
Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh.
Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều
thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác
rằng con người mình có giá trị.
Mỗi người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của
mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là
con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm
việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó,
thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy
nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng
nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận
chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để
biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi
đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm
lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó,
chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên
Chúa.
24. Đức Giêsu chữa một người phong hủi
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành
sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với
hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh
không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học
của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành
động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được
bệnh phong hủi.
2.- Bố cục
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc.
43-44);
3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).
3.- Vài điểm chú giải
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã
nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng
là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói “chữa lành”
nhưng là “được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một
lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga’ (“nó đánh”) và nega’ (“đòn
đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb
26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is
53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt;
8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội
của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành
cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và
chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng
nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có
Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với
cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn,
như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta
còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là
chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis,
partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna,
lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong lòng”.
- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu
biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy
định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức
mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT)
(43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ
do cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một
việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do
đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người.
Động từ embrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương
(TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann:
sent him away with the stern warning).
- để làm chứng cho người ta biết (“để
làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này nhắm đến
dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu
như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện
tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa
minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít
sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế
chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh
này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người
phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn
lệnh truyền về bí mật thiên sai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc
ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được
người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của
người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể
làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền
lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước
đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào.
Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được
thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này
ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào
lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh
em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói
về chuyện mình được chữa khỏi.
* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã
rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu
càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân
chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức
Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý
nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa,
thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
+ Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm
là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về
quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu
độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến
cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một
trái tim biết thương cảm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý: không
ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng
ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi
để Ngài định liệu:”Nếu Ngài muốn”.
2. “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất
tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không
muốn tin vào sự tốt lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh
tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng thời khẳng định đức
tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó
đức tin mới cho thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành tâm
hồn và than xác.
Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người đã
dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin tinh tuyền, được sống
trong tình yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm
nhường cách khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy trọng kính
trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin, đức tin này chắc
chắn trong mọi hoàn cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh
Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).
3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục vụ. Như
Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc
nỗi khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người
Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì thiếu thốn (đi tìm
sự nể trọng của người khác).
4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi
làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban
muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang
nhận được những ân huệ lớn lao nào.
25. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Minh Thông
TẠI SAO NGƯỜI ĐƯỢC CHỮA LÀNH KHÔNG GIỮ LỜI ĐỨC GIÊSU CĂN DẶN?
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giêsu chữa một người
mắc bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn
lặp đi lặp lại bốn lần từ “sạch”, trong đó 3 lần là động từ katharizô:
“sạch” (Mc 1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos “sự sạch” (1,44).
Người mắc bệnh phong “muốn được sạch” và Đức Giêsu “muốn anh ta được sạch”. Hai
ước muốn gặp nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu nói anh ta đi
trình diện tư tế, để xác nhận “sự sạch” (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế,
bệnh phong hủi làm người ta trở thành “không sạch” và bị cách ly khỏi xã hội.
Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương quan của người bệnh với người khác bị
cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ tình trạng “không sạch” trở thành “được
sạch”, từ tình trạng “tương quan bị cắt đứt” trở thành “có tương quan với người
khác”?
Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giêsu
lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế,
nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giêsu căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người
được chữa lành lại đi “rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giêsu không thể công
khai đi vào thành” (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn
có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ
lùng của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì
trước khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3)
tại sao không làm theo lời Đức Giêsu căn dặn.
1. Hành động trước khi được chữa lành
Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức
Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức
Giêsu, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: “Tôi muốn, anh hãy
được sạch” (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế,
việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía.
Ba động tác về phía người mắc bệnh phong hủi là “đến với”,
“quỳ xuống” và “van xin Đức Giêsu” bằng một lời nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi sạch” (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng thực hiện
ba bước, trước hết Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người
phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: “Tôi muốn, anh hãy được
sạch” (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ
“muốn” (thelô) và động từ “sạch” (katharizô). Như thế, “ước muốn được sạch” của
người bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện với một người
vừa “muốn chữa lành”, vừa “có khả năng chữa lành”. Nếu “không muốn” và “không
xin” thì chẳng có gì để nói, nhưng nếu “muốn” và “van xin” mà không gặp được
“có khả năng” thì cũng không có gì xảy ra.
Bản văn vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: “Đến với
Đức Giêsu” và “van xin Người”. Đây là hành động “cầu xin” dựa trên niềm tin,
bởi vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao
“ước muốn” và “khả năng chữa lành” của Đức Giêsu. Người là Đấng có quyền năng
làm cho người mắc bệnh phong “được sạch”, nghĩa là làm cho một người bị loại
trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan với mọi
người trong cộng đoàn.
2. Phản ứng sau khi được chữa lành
Sự hội nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự
đảo ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến
chỗ trở thành người rao giảng về lời của Đức Giêsu. Người thuật chuyện cho
biết: “Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời
ấy” (1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của
anh ta: “...đến nỗi Người (Đức Giêsu) không thể công khai đi vào thành, Người
đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người”
(1,45b).
Người mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ
của Đức Giêsu: “Rao giảng” (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác
giả Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao
giảng (kêrussô) trong các Hội đường.” Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành
đi “rao giảng nhiều nơi”, còn Đức Giêsu, Người lại không di chuyển để “giảng dạy”
mà “ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người”
(1,45b). Chi tiết: “Người ta từ khắp nơi đến với Người” cho thấy kết quả lời
rao giảng của người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng.
Đầu đoạn văn, người phong “đến với Đức Giêsu” chứ không phải Đức
Giêsu đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giêsu lại không thể công khai vào
thành, vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi “đến với
Đức Giêsu”. Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu
và được Người “chữa lành bệnh tương quan”, thì người ấy sẽ phản ứng bằng cách
“rao giảng về Đức Giêsu” và làm cho “nhiều người khác”, “đến với Người”. Điều
lạ trong bản văn là “lời rao giảng thành công” của người được chữa lành là do “không
giữ lời Đức Giêsu”.
3. Ý nghĩa của việc “không vâng lời” ở Mc 1,44-45
Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu đã làm gì và nói gì
với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi
chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được
sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ”
(1,44).
Người được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giêsu dặn.
Đức Giêsu nói “Coi chừng, đừng nói gì với ai” thì anh ta lại “loan truyền lời
ấy cho cả thành biết”. Đức Giêsu bảo “hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng
những gì Mô-sê đã truyền” thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của
lễ mà đi vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được chữa
lành. Tại sao anh ta không giữ lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có ý
nghĩa gì?
Lời dặn của Đức Giêsu có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về
tư cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng
chú ý là việc người được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giêsu trong đoạn
văn mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau:
(1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giêsu cho mọi
người, nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức
Giêsu, ngược lại, lời rao giảng của người được chữa lành đã làm cho “mọi người
đến với Đức Giêsu”.
(2) Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giêsu vào thành, đi rao
giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời
rao giảng của người được chữa lành, Đức Giêsu có thể giảng dạy mà không phải đi
đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động
đến với Đức Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người.
(3) Điều tích cực thứ ba của việc “không giữ lời dặn của Đức
Giêsu” là cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm
sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa
lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời
mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức
Giêsu. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã
kéo đến với Đức Giêsu, để cũng “được sạch” tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập
tương quan với Đức Giêsu và tương quan với người khác.
Đề tài người được chữa lành “không giữ lời Đức Giêsu dặn” (Mc
1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong
những kiểu hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: “Càng
cấm, càng nói” đã được phân tích phần nào trong bài viết: “Bí mật công khai”.
Cấm không được nói mà ai cũng biết!
(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html).
Chi tiết “không vâng lời Đức Giêsu” trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc giả biết hai
thông tin:
(1) Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành
có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải “trình diện tư tế, và tiến dâng
những gì Mô-sê đã truyền” (1,44).
(2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời
đại), họ được mời gọi hành động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng
để mọi người từ khắp nơi đến với Đức Giêsu.
Kết luận
Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn:
(1) “Tương quan” và “hội nhập cộng đoàn”, “hội nhập xã hội”; (2) Thể hiện niềm
vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng “lời ban sự sống” đã đón
nhận để mọi người đến với Đức Giêsu.
Con người có thể “cô đơn” và “đơn độc” ngay giữa đám đông. Có
những người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại
có thể bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở
thành những người “bị tách rời khỏi cộng đoàn” hay “tự mình cắt đứt tương quan
với người khác”. Bài Tin Mừng dùng hình ảnh “bệnh phong hủi” để diễn tả “tương
quan bị cắt đứt” giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu để
được Người chữa lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời
mời gọi độc giả hãy “đến với và van xin” Đức Giêsu. Người sẽ chữa lành họ, vì
Người là “Đấng muốn chữa lành” và “có khả năng chữa lành”. Nghĩa là Đức Giêsu
có khả năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn
và bước vào tương quan tốt đẹp với người khác.
Đồng thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm
vui và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan
với Đức Giêsu và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy
những ai được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giêsu để
mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức
Giêsu. Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để
không phải mọi người đến với mình, nhưng để họ “đến với Đức Giêsu”, “lắng nghe
Đức Giêsu” và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu, bước
vào tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra
đi rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh
nhận cho những người xung quanh mình./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html
26. “Tôi muốn, anh sạch đi!”
Vài hàng sơ lược
Trong đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe Mác-cô kể lại câu chuyện
người bị bệnh phong xin Chúa Giêsu chữa lành. Trước khi đi vào đoạn Phúc Âm,
chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội Do-thái, để hiểu được tình trạng và
hoàn cảnh của người bị bệnh Phong thời đó. Theo Cha Cantalamesse thì sách Lêvi dạy
rằng, người nào bị nghi mắc bệnh phong, phải được đưa tới một vị tư tế, vị này,
sau khi khám xét, “tuyên bố người đó là dơ.” Để làm cho những sự việc ra xấu
hơn, người phong đáng thương hại, bị loại khỏi tình bạn con người, chính người
bịnh phải làm cho kẻ khác tránh xa mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy
hiểm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu
lên: “Ô uế! Ô uế! “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng
ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46)
Về điều này, Rudolf Pesch giải thích rằng: “Những người bị bệnh
Phong được coi là kẻ bị ô uế, những người đáng chết. Họ phải xa lìa với xã hội,
phải tự động cách ly với xã hội. Dù luật lệ trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt,
nhưng sự cách ly người Phong ra khỏi xã hội không được làm triệt đở ở khắp mọi
nơi công cộng. Người bệnh Phong không được bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Nhưng trong các làng mạc, họ không bị cách ly hoàn toàn. Với những điều kiện
đòi hỏi nhất định, hình như người ta cũng có thể để cho người bị bệnh Phong
bước vào đền thờ. Dù thế nào, thì người bệnh Phong vẫn bị coi là những người bị
Thiên Chúa xa cách.
Như vậy ai có thể chữa cho người bị bệnh Phong? Theo Adolf Pohl
thì: “Việc chữa lành khỏi bệnh Phong được coi như là sự Phục Sinh từ cõi chết.
Và người ta chỉ có thể chờ mong Thiên Chúa làm điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en,
trong sách thứ 2 các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành cho người bị bệnh Phong, thì
ông đã thốt lên rằng: “Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại
sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?”
Ngoài ra, nói chung chung về bệnh Phong, theo Cha Cantalamesse
thì “hai nhân tố lạ lùng đã góp phần gia tăng sự ghê tởm trước bệnh phong, đến
nỗi biến nó thành biểu tượng của sự bất hạnh nhất có thể giáng xuống một con
người, và cô lập những nạn nhân vô phúc tội nghiệp trong những con đường vô
nhân đạo nhất.
Nhân tố thứ nhất là sự xác tín rằng, cơn bệnh này lây lan đến
nỗi làm nhiễm độc bất cứ ai có thể đã tiếp xúc với người bệnh; nhân tố thứ hai,
cũng không có cơ sở, vì bệnh phong là hình phạt vì tội lỗi.
Nhân vật đã góp phần hơn hết thay đổi thái độ và luật pháp đối
với những người bệnh phong là Raoul Follereau (1903-1977). Trong năm 1954 ông
đã thiết lập Ngày Thế Giới Bệnh Phong cổ võ những đại hội khoa học và cuối
cùng, trong năm 1975 đã thành công để luật pháp thu hồi sự kỳ thị những người
bệnh phong. Ngoài ra, có một câu chuyện rất cảm động về tấm lòng của ông Raoul
giành cho người Phong: “Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến
đến bên cạnh một cô gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ.
Nhưng lạ thay, cô gái lại không chịu chìa tay ra đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ
ngàng, vị giám đốc bèn giải thích: Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không
cho phép bệnh nhân bắt tay khách. Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ
cấm bệnh nhân bắt tay khách, nhưng đâu cấm khách hôn bệnh nhân phải không? Vừa
nói, ông Raoul vừa tiến đến ôm hôn cô gái cùi. Mọi người sững sờ. Trong phút
chốc cả đám người cùi nhào đến bên ông. Và một tiếng thốt lên trong nghẹn ngào:
Hôm nay, tôi cảm thấy chúng tôi là người.”
Trở về với đoạn Phúc Âm, chúng ta có thể phân ra như sau: câu
40: Cuộc gặp gỡ giữa người Phong với Giêsu, và người bị Phong mở lời xin được
chữa lành. Câu 41: Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị bệnh Phong được sạch. Câu
43-44: cấm không được loan truyền tin chữa lành, mà chỉ đến trình diện các tư
tế. Câu 45: Dù bị cấm nhưng người khỏi bệnh vẫn lên đường loan báo tin vui.
Suy niệm
- Câu 40 kể là có một người bị bệnh Phong đến gặp Giêsu. Người
bị bệnh Phong trong đôi mắt của người Do-thái, là người có tội với Thiên Chúa,
đời sống của họ xa cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf Pohl như đặt mình vào trong
thân phận của người Phong và tự nói với mình rằng: “Tôi không hợp với Chúa. Tôi
không xứng đáng có tương quan với Chúa.... Tôi không phải là con cái của Chúa,
mà là con cái của thế gian. Tôi chỉ được “trang điểm” bởi một “lớp phấn Kitô
hữu” rất mỏng. Trong cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ lẫm. Tôi
không còn thật nữa: “Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên Chúa? “Chẳng
lẽ con người lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?” (Gióp 4, 17)
Chính người Phong hủi đó hôm nay lại đến với Giêsu. Trong khi
mọi người đều xa lánh anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên đường. Vâng, chỉ có
Giêsu thì không chạy trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh ta đến với mình.
Cha Cantalamesse giải thích rằng: “Chúa Giêsu không sợ lây, Người để kẻ
phong đến với Người và quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó: trong một thời đại
khi người ta tưởng rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã lây nhiễm rồi,
Người giơ tay và đụng vào anh.” Chúng ta đừng tưởng tất cả sự này là tự nhiên
và không bắt Chúa Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia sẻ trong sự này,
như trong nhiều điểm khác, những xác tín của thời đại Người và của xã hội Người
đương sống. Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh thì mạnh trong
Người hơn là sự sợ bệnh phong”
Khi đến gần Giêsu, người Phong quỳ xuống dưới chân Chúa và mở
lời van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Thái độ quỳ xuống dưới chân ở đây đúng là thái độ kêu xin khẩn nài. Chúng ta có
thể thấy ở đoạn khác: “Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa
thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người” (Mc 5, 22) hay “Thật
vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người,
liền vào sấp mình dưới chân Người.” (Mc 7, 26). Thái độ của anh bạn Phong
không chỉ nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì
còn nói lên niềm tin tưởng của anh vào Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng,
anh đã nói: “Nếu Ngài muốn”, chứ không nói như người cha có con bị bệnh
câm: “Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9, 22). Tâm tình của anh
bạn bị Phong hàm chứa một niềm tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng.
Phải chăng anh ta tin rằng, Đấng có lần nói với mình: “Con là con yếu dấu của
Cha”, sẽ không bao giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu chữa anh?
Phải chăng, với thái độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với Chúa rằng:
“Lạy Chúa! Xin thương xót con, con không giấu Chúa những vết thương của con,
Chúa là bác sĩ, con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con thì khốn khổ”
(“Confessions,” X,39).
Ngoài ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều nữa, là anh bị bệnh
Phong trong câu nói kia, đã nhắc đến hai từ “Ngài” và chỉ có một từ: “tôi”.
Chúng ta thấy qua lời xin trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf
Pesch thì quyền năng của Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có
muốn sử dụng quyền năng của mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm
tình của sách Khôn Ngoan 11, 23: “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì
Chúa làm được hết mọi sự”, chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu.
- “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi
muốn, anh sạch đi!” (câu 41) Lời kêu xin của ang bị bệnh Phong
thúc đẩy Giêsu mạnh đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động liên tiếp. Ở đây chúng
ta chú ý đến 4 động từ: (1) Người “chạnh lòng thương”. Theo Adolf Pohl
thì các tác giả nhất lãm không bao giờ dùng từ chạnh lòng thương này để chỉ về
sự thương hại, sự tội nghiệp cho bất cứ con người nào. Từ “chạnh lòng thương”
như diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm
giác tội nghiệp của Giêsu, mà diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên
Chúa là tình yêu. Vâng, với ĐTC Biển Đức, thì trong câu chuyện này “Chúa
Kitô là “bác sĩ” chân thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai xuống
thế gian hầu chữa lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần bởi
sự tội và các hậu quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta
Chúa Giêsu Đấng, lúc bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến
mình để rao giảng và chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những
dấu lạ vô kể Người thực hiện cho người bệnh xác nhận “tin mừng” Nước Chúa. Tin
Mừng hôm nay tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với hiệu quả
lớn cường độ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong một cuộc
đối thoại kỳ lạ: Người phong nói “nếu ngài muốn, ngài có thể chữa tôi được
sạch”, Chúa Giêsu trả lời “Tôi muốn, anh hãy sạch”, tay Người đụng vào mình anh
và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42).” Hành động thứ hai (2) Người
“giơ tay”. Theo Rudolf Pesch thì hành động này biểu tượng cho sức mạnh và động
từ (3) “đụng” vào anh là biểu tượng cho việc truyền sức mạnh của Chúa Giêsu lên
trên người bị bệnh Phong. Vâng, sức mạnh của tình yêu, sức mạnh đem lại sự chữa
lành. Chúng ta cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu đối với nhạc mẫu của Phê-rô: “Người
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.”
(Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động (2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: “Cử chỉ
này của Chúa Giêsu, Đấng giơ tay và động tới thân mình đầy vết thương của kẻ
kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của
Người, Chúa Kitô là “tay” Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân loại có
thể được giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết, hầu trỗi
dậy bằng cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv 39,
2-3).”
Tiếp theo ba hành động kia là lời nói (4)”Tôi muốn, anh sạch đi!
“ Đây là lời có sức chữa lành. Lời có sức chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên
tiếng với con gái ông Gia-ai: “Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”,
nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 41) hay Chúa
Giêsu đã thốt lên “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra” để chữa lành cho người vừa
điếc vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34).
- Sau 4 hành động của Chúa Giêsu, thì điều gì đã xảy ra? “Lập
tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (câu 42) Điều xảy ra
đúng như ĐTC vừa nói ở trên, là phục hồi sự sống cho anh bị bệnh Phong “cách
dồi dào” (Ga 10,10), sự sống trọn vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn,
chúng ta để ý tới từ “lập tức”. Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh
của Giêsu. Ngoài ra, động từ “biến” thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập
vào và rồi lại biến đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không
thể so sánh được với những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh
được sạch rồi. Một tin vui thật lớn!
- Tin vui này có được phép loan truyền rộng rãi ra không? 43 Nhưng
Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với
ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng
những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”(câu 43 và
44)
Nếu anh mới được chữa lành khỏi bệnh Phong không được phép nói
với bất cứ ai về việc Giêsu chữa cho mình, thì không đúng, vì theo câu 44 anh
phải đi trình diện nơi các tư tế, để họ chứng thực anh được khỏi bệnh, như anh
mù trong phúc âm Gioan. (ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh niên đã được thanh sạch
khỏi bệnh Phong cần được xã hội đón nhận, cần có được một chỗ đứng hẳn hoi.
Tương quan với Chúa và tương quan với người khác luôn đi đôi với nhau. Sau khi
trình diện nơi các tư tế xong theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14, 1-9), thì anh cần
phải dâng lễ vật như Mô-sê đã truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và 21tt). Và như vậy
người ta sẽ biết về sự thanh sạch của anh. “Người ta” ở đây chỉ số nhiều, theo
Adolf Pohl nghĩa là những tư tế ở Ga-li-lê-a mà anh ta trình diện, và những tư
tế ở Giê-ru-sa-lem nơi anh ta dâng của lễ.
Như vậy phải hiểu làm sao điều Chúa Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch
thì anh không nên nói về việc anh được chữa lành, mà qua chính sự trình diện và
nghi thức dâng của lễ theo luật Mô-sê, anh sẽ được chứng thực khỏi bệnh. Ngoài
ra, theo các nhà chú giải, thì vì Chúa Giêsu còn phải thi hành sứ mạng của
Ngài. Nếu danh tánh của Ngài mà bị rao truyền khắp nơi, có thể Ngài bị cản trở
không tự do đi lại được nữa, và qua đó ảnh hưởng đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng
của Ngài. Chúng ta có thể thấy được hậu quả về điều này, khi đọc câu 45. Sau
khi anh ta tung tin ra, thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được
nữa. Mặt khác, sự nghiêm cấm này liên quan đến chính thân phận của Chúa Giêsu:
Trong Ngài chính Đấng Tạo Dựng và công trình cứu rỗi đang hiện diện. Vâng,
Giêsu không phải là một tiên tri, mà là một Tiên Tri trọn hảo. Ngài là Con
Thiên Chúa : “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1,
11) Và điều này không được phép tiết lộ ra. Vì nếu người Do Thái, dân đang
trông chờ Đấng Messia, mà biết được, thì có lẽ chương trình của Chúa Giêsu sẽ
chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng, chương trình của Giêsu, Đấng Messia đích
thực, đâu có hợp với sự mường tượng và mong đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ
chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận ra ngay.
Như vậy, anh thanh niên được thanh sạch đã không giữ lời nghiêm
cấm của Giêsu. Một cách nào đó chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, vì trước
một phép lạ, một ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính bản thân mình, anh ta không
thể nào câm lặng không rao truyền về vị thầy thuốc tốt lành tài ba. Ở đây,
Mác-cô một cách nào đó đã cố ý làm nổi bật việc tung tin của anh thanh niên này,
như là một cách rao giảng Tin Mừng, giống như người thanh niên được Chúa Giêsu
chữa lành khỏi bị quỷ ám trong chương 5, 18-20: “Khi Người xuống thuyền, thì
kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho
phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi
điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Anh ta ra đi và
bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho
anh. Ai nấy đều kinh ngạc.”
Tham khảo
- Về sự chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài huấn dụ của ĐTC Biển Đức
XVI trình bày lúc trưa khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ cửa sổ văn phòng
ngài với hàng ngàn người tập hơp trong Quảng Trường Thánh Phêrô. VietCatholic
News 13/02/2006
- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng
Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin Mừng Chúa Nhật VI TN: Những bệnh phong hủi mới
của xã hội VietCatholic News 11/02/2006
- Rudolf Pesch,
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg,
Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus
Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1.
29. Chú giải của Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ
khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết”
lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống
nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình
thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con
người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm
cho tôi được sạch”.
Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con
người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm
một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm
và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh
không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công
giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của
thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người
phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống
mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả
những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa
tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: “splagknisteis” có nghĩa là
động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và “orgisteis” có
nghĩa là “nổi giận”. Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ “nổi giận”
nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu
nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai “câu dịch” đều
có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao
Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là
có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta?
Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một “phản ứng rất nhân bản”!
Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là “hiện thực”, đi tới tình trạng chấp nhận
cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy
Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã
bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... “Thực ra điều
đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước
nỗi đau khổ của con người”. Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng
thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi
điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính “Thiên Chúa hiện
hình cụ thể”. Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta
rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác
hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước
“vấn đề sự dữ”, họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện
diện của Thiên Chúa.
“Động lòng thương”. Kiểu nói này ta có
thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa
vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng
chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương
tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng “làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho
ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng
ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể “hoàn
hảo” được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn
hảo. Thế gian không phải là “Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã
không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian “không phải là Chúa nếu không
Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó,
Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn “hữu hạn”, rõ ràng
“không phải là Chúa”. Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình
trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng,
khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào “thế
gian này”. Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và
bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban
cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống
lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người “nổi
giận”, đã khơi dậy “lòng thương xót” của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một
số người bệnh, như là một “dấu chỉ” báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự “sẽ
được hoàn tất” (Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến “bàn tay”. Ở đây, đối với một
người phong hủi, một người “không ai được sờ động đến”, thì cử chỉ của Đức
Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve
họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ,
họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: “Nhơ! Nhơ!”: Thế mà ở đây, Đức
Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người
phong hủi.
Người bảo: “Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh”.
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một “cử chỉ” và “bằng một lời phát biểu:
Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác,
và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên
trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó.
Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân
xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức
Kitô”.
Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát
biểu: “Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản
văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong
hủi đã không nói: “Nếu Ngài muốn điều đó”, nhưng là nếu Ngài muốn”. Và Đức
Giêsu cũng không đáp lại: “Tôi muốn điều đó”, mà là “Tôi muốn”. Điểm quan trọng
muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ “điều đó”, những quyền năng thuộc
nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô
lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một “hình
phạt của Thiên Chúa”, Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng
(2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ
dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai
chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa,
chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói
đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra
khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế,
người ta coi đó là “biểu tượng” của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi!
Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận” và
“lời” của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn
con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế
giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm
những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động “chữa lành” của Đức Giêsu
đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại
hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng
ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta
cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: “Người cho anh ta ra về với lời
cảnh giác nghiêm trọng”). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu
cho ta ở đây, không phải là hạng người “nhu mì”, mà các bức ảnh thuộc thế kỷ
trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi
buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: “không gì hết”,
“không với một ai cả”.
Đó là “bí mật Thiên Sai” nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại
tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ,
vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi
một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng,
Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết
những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng
vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng
sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các
phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một
thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt
để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn
và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về
bản chất của công cuộc “giải phóng” con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện!
Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại .
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì
hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được
lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến
gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội.
Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người
sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành
người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga
15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra;
đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những
nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. “Lời” được công bố trên đây là một thuật ngữ,
được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin
Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt
mình lại trở nên “kẻ cứu độ” người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công
bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu
khí cô tịch, cho những “nơi hoang vắng”. Người thực sự là hình ảnh của Thiên
Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một “Thiên Chúa
ẩn giấu”.