SỰ BÌNH AN CỦA NIỀM TIN
Không có niềm tin vào Thiên Chúa, mọi bình
an chỉ là giả dối…
Một vị vua treo giải thưởng cho hoạ
sĩ nào vẽ được bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Có nhiều bức tranh được đem đến
dự thi. Số các bức tranh đi vào vòng trong ngày càng ít đi. Sau nhiều chọn lựa,
cuối cùng chỉ còn hai bức bước vào vòng chung kết. Nhà vua cân nhắc rất kỹ để
chọn một trong hai. Bức thứ nhất vẽ hồ nước yên ả, mặt hồ là tấm gương phản chiếu
thật đẹp những ngọn núi bao quanh, bên trên là một bầu trời xanh với vài đám
mây trắng nhẹ nhàng bay.
Ai cũng có cảm tình với bức tranh
đó. Nhưng cuối cùng, nhà vua lại chọn bức thứ hai, một bức tranh vẽ những ngọn
núi trần trụi, lởm chởm đá, với một dòng thác ầm ầm đổ làm tung bụi trắng xoá,
bầu trời bên trên toàn mây đen u ám với nhiều sấm chớp báo hiệu một trận mưa lớn.
Khi ngắm kỹ bức tranh thứ hai, người
ta mới hiểu cái lý của nhà vua: Đằng sau dòng thác có một bụi cây nhỏ mọc lên từ
khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đậu trên mép tổ mớm cho
mấy chú chim non. Bình an giữa giông tố!
Ở trên đời, phải sống giữa vạn vật
thay đổi luôn luôn, như giông như bão, người ta thấy rõ cái sự mỏng manh, sớm nở
tối tàn của phận người. Nay còn mai mất nên câu chúc bình an luôn nằm trên môi
mỗi khi gặp nhau. Nhưng người ta có thể tìm kiếm bình an ở đâu?
Có bình an của thế gian và có bình
an của Đức Kitô.
Những người không tin vào Thiên Chúa
thì bám vào sự bình an giả tạo của thế gian, của quyền lực và tài sản. Đó là
bình an của người hưởng thụ hơn là gieo vãi, sẵn sàng đầu hàng hơn là hy sinh,
chiến đấu...; bình an của người rất ngại nói đến phục vụ, dấn thân, quên mình.
Nhưng không có niềm tin vào Thiên
Chúa, mọi bình an chỉ là giả dối: “Ở bên
ngoài đầm, đay mọc được chăng? Chỗ không có nước, sậy nào vươn nổi? Khi hãy còn
non được cắt đem về, nó đã ra khô héo trước mọi thứ cỏ." Đó là số phận của
mọi kẻ lãng quên Thiên Chúa, niềm hy vọng của phường gian ác cũng tiêu tan như
vậy. Nơi tin tưởng của nó như sợi chỉ treo mành, chỗ an toàn của nó khác chi tấm
màng nhện.” (G 8,11-14).
Chỉ có bình an Đức Kitô đem lại là
bình an thực sự và vững bền. Bình an đó khác với bình an thế gian, và là một ân
sủng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy
ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.”
(Ga 14,27)
Khác với bình an thế gian, bình an Đức
Kitô đem dựa trên niềm tin vào tình Chúa yêu thương. Niềm tin đó là chỗ dựa vững
vàng cho mỗi chọn lựa của con người trong cuộc đời vốn nhiều bất trắc, trong cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa điều thiện và điều ác, giữa cái lợi vĩnh cửu
và cái lợi chóng qua, giữa làm con Chúa và làm tôi ma quỉ: “Tôi đã tin cả khi
mình đã nói: "Ôi nhục nhã ê chề!"
Đã thốt ra trong cơn hốt hoảng: "Mọi người đều giả dối!" (Tv
115,10-11).
Đó không phải là sự bình an để an
nghỉ, mà để chiến đấu và chiến thắng sự ác, tội lỗi và ma quỷ bằng cái chết cho
ý riêng mình và sống theo ý Chúa: “Áp-ba,
Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều
con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36).
Niềm tin vào tình yêu Chúa là ân huệ
Chúa ban, nhờ đó người ta hiểu và thấy được cái giá trị vĩnh cửu cho mỗi chọn lựa
của mình.
Niềm tin đó nâng đỡ từng bước chân
Abraham trong suốt hành trình đi sát tế người con yêu dấu. Khi giơ tay sát tế
Isaac là lúc Abraham nhận ra Chúa vẫn ở bên cạnh và đồng hành với ông trong
tình yêu thương, nhận ra cái phúc lành lớn lao dành cho ai đặt trọn niềm tin nơi
Chúa.
Cũng niềm tin đó được nâng đỡ bởi cuộc
biến hình của Đức Kitô đã giúp các tông đồ hiểu, đón nhận và bước theo Đức Kitô
tử nạn và phục sinh, đi trong bình an. Sự bình an hôm nay vẫn đang chiếu toả
trong đời sống của những ai tích cực sống niềm tin của mình, những người chịu
nhiều thua thiệt để cùng chết và cùng sống lại với Đức Kitô: “Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn
lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm”
(Tv 131,2-3).
Trên những cửa sổ của một cửa hiệu dịch
vụ tang lễ ở thành phố San Francisco có treo các bức màn màu vàng sậm in hàng
chữ: “Tại sao bạn lại phải kéo lê cái mạng
dở sống dở chết của bạn, trong khi chúng tôi có thể chôn cất bạn chỉ tốn có
chín mươi tám đôla?”
Tin vào Chúa là một cuộc chọn lựa
quyết liệt, để sống cho ra sống. Trong niềm tin không có chỗ cho một tâm hồn dở
sống dở chết, vì “đến như chính Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.” (Rm
8,32)
Sao tôi còn lưỡng lự, so đo, lựa con
đường dễ đi hơn để đáp lại tình yêu trao ban tất cả của Thiên Chúa?