THỨ HAI SAU CHÚA NHẬT
I THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: Dt 1, 1-6
1 Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;2
nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên
Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật
muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực
của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì
vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên
trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các
thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
5 Thật vậy, có bao giờ
Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha
đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. 6
Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần
của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.
ĐÁP CA: Tv 96
Đ. Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi. (x. c 7c)
1 CHÚA là Vua hiển trị,
hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! 2b Bệ
ngai rồng là công minh chính trực.
Trời xanh
tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người. 7c
Chư thần chư thánh, phục bái Chúa đi!
9 Chính bởi vì Ngài, muôn
lạy CHÚA, là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Mc 1, 15
Hall-Hall: Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng. Hall.
TIN MỪNG: Mc 1, 14-20
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng
của Thiên Chúa. 15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh
là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. 17
Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những ngư phủ bắt người" (Bản dịch của NTThuấn). 18 Lập
tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người
em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người
liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê- đê ở lại trên thuyền với
những người làm công, mà đi theo Người.
HIỀN THÊ CỦA ĐỨC KITÔ
PHẢI “ĐẺ”
(x. Mk 1, 2)
Khát vọng
sinh con của một phụ nữ có chồng là bản năng của họ, cụ thể như bà Anna, dù
được chồng là ông Encana yêu bà hơn người vợ thứ của ông là bà Pơninna, dù bà
này được Chúa cho sinh con, còn bà Anna thì vẫn son sẻ. Thế nên lúc nào bà Anna
cũng khóc, không chịu ăn uống, đến nỗi ông chồng phải dỗ ngọt: “Anna, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao
lòng em rầu rĩ vậy? Vì đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai hay sao?”
(1Sm 1, 8: Bài đọc năm chẵn).
Ngày hôm
qua, chúng ta mới mừng lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, nhắc cho ta trong Bí Tích
Thánh Tẩy, ta đã được trở nên Hiền Thê của Chúa Kitô (x. 2Cr 11, 2). Thì khát
vọng sự sống của người Kitô hữu cũng phải sinh con cho Thiên Chúa hơn nhu cầu
của bà Anna.
Để xứng
đáng là Hiền Thê của Chúa Kitô “đẻ” con cho Ngài, ta phải ý thức sống ba điều
sau:
-
Vượt qua mọi rào cản loan báo Lời Chúa để diễn tả sức bật của
Tin Mừng.
-
Đón nhận Tin Mừng do Hội Thánh rao giảng, là được trực tiếp gặp
Chúa Giêsu.
-
Ai thuộc về Chúa Kitô, phải quy tụ muôn dân về cho Chúa để họ
được giải phóng.
1/
VƯỢT QUA MỌI RÀO CẢN LOAN BÁO LỜI CHÚA ĐỂ DIỄN TẢ SỨC BẬT CỦA TIN MỪNG.
Thánh sử
Marco ghi: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng
của Thiên Chúa” (Mc 1, 14: Tin Mừng).
Động từ nộp được dùng ở đây nhằm nói về cái
chết của ông Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê cắt đầu, vì ông này rất can đảm ngăn
cản vua Hêrôđê không được cướp vợ anh mình! (x. Mc 6, 17t). Cái chết của Gioan
Tẩy Giả đã trở thành biến cố tiên tri cho mọi người biết Đức Giêsu cũng như các
môn đệ của Ngài đều phải chết vì chân lý.
Thực vậy,
ba lần Đức Giêsu báo trước cái chết của Ngài cho các môn đệ, Ngài cũng dùng
động từ nộp:
-
Con Người sẽ bị nộp
cho người đời (x. Mc 8, 31).
-
Con Người bị nộp cho
các thượng tế và ký lục (x. Mc 10, 33).
-
Giuđa, môn đệ phản Thầy, cũng nộp Thầy cho dân ngoại với giá 30$. Đó là giá mua một nô lệ (x. Mc
14, 21).
Vậy mà
khi Đức Giêsu vừa nghe tin ông Gioan Bt đã bị giết chết vì bảo vệ chân lý, vì
không muốn ai phạm tội. Sự cố kinh hoàng ấy đã không làm cho Đức Giêsu run sợ
chạy trốn; trái lại Ngài đến miền Galilê bắt đầu giảng Tin Mừng. Hành động đó
như một người nhảy vào cuộc chiến, bởi vì miền Galilê đang đặt dưới quyền cai
trị của Hêrôđê Antipa, một kẻ rất độc ác, ông này là em của vua Hêrôđê Ankêlaus.
Ông Ankêlaus được đế quốc Roma đặt cai trị miền trung Samari và miền nam Giuđêa
nước Do Thái vào năm thứ 4 trước Công nguyên, đến năm thứ 6 sau Công nguyên, ông
bị Roma truất chức và trao quyền cho Philatô làm tổng trấn. Mà ta biết ông
Philatô không phải là kẻ ác như Hêrôđê Antipa, bằng chứng là trong cuộc xử án
Đức Giêsu, ông chỉ muốn tha, ông biết những đầu mục Do Thái chỉ vì ghen tức mà
nộp Ngài cho ông (x. Ga 19). Thế mà khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan Bt mới bị
Hêrôđê Antipa cắt đầu, Ngài không lui về miền Nam dưới quyền Philatô để giảng
dạy, mà Ngài lại can đảm lên miền bắc Galilê. Điều này tác giả Tin Mừng Marcô
xác quyết cho chúng ta rằng: Ông Gioan chỉ là “cây đèn cháy sáng” (x. Ga
5, 35), cây đèn đã bị người ta thổi tắt, thì Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính”, tất
yếu ló rạng chiếu sáng (x. Lc 1, 78). Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa toàn năng,
thế mà Ngài cũng bị giết vì hết lòng loan báo Lời Cha để đưa loài người vào
đường sự thật dẫn đến sự sống! Sau cái chết của Đức Giêsu, các Tông Đồ cũng vì
nhiệt tình rao giảng Tin Mừng mà phải ra tù vào khám như cơm bữa, mà các ông
vẫn không sợ! (x. Cv 4, 1-22). Đặc biệt ông Saulô, kẻ chỉ tôn thờ Thiên Chúa
qua Luật Môsê chứ không theo Giáo Lý của các Tông Đồ, nên ông đã tỏ ra hung ác
ôm áo động viên nhiều người ném đá Stêphanô đến chết, rồi sau đó ông còn xông
vào các tư gia bắt được ai theo đạo Chúa, là ông xiềng xích đưa về Giêrusalem (x.
Cv 7. 8. 9), nhưng nhờ lời cầu nguyện của Stêphanô, ông Saulô đã trở nên Tông
Đồ Phaolô xuất sắc của Chúa Giêsu, mà hơn 20 thế kỷ nay chưa ai sánh bằng (x. 2Cr
11, 5).
Những
chứng từ trên đây đã nói lên sức bật của
Tin Mừng như một lò xo, càng bị nén, sức bật càng mạnh. Bởi vì có nhờ Tin
Mừng mới làm cho con người được giải phóng cả hồn lẫn xác, và được chan chứa
niềm vui, đến nỗi tử thần không cướp mất sự sống hạnh phúc của họ. Bởi thế “kẻ nào sợ chết, suốt đời làm nô lệ” (Dt
2, 15), và “lòng mến trọn hảo thì xua
đuổi sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi có liên quan đến hình phạt” (1Ga 4, 18).
Vậy sức
bật của Tin Mừng làm cho những Hiền Thê trung tín của Đức Kitô, họ giống như
thác nước đổ xuống (người Kitô hữu bị bách hại), nó vẫn tiếp tục chảy, nếu gặp
khối đá chặn, nước tụ lại dâng lên vượt chướng ngại chảy tiếp; hoặc người Kitô
hữu nhiệt tình sống Tin Mừng cũng giống như cây lúa xạ, nước lũ càng dâng lên, lúa
càng trồi cao, nước lũ dù mạnh cũng không vùi dập được cây lúa xạ yếu ớt! Đúng
như Lời Kinh Thánh nói: “Dân Chúa càng bị hành hạ, họ càng thêm đông
đúc và lan tràn khắp nơi, khiến những kẻ đã gây ra tai họa, phải khiếp sợ”
(Xh 1, 12).
2/
ĐÓN NHẬN TIN MỪNG DO HỘI THÁNH RAO GIẢNG, LÀ ĐƯỢC TRỰC TIẾP GẶP CHÚA GIÊSU.
Trong thư
Do Thái (1, 1-6; Bài đọc năm lẻ), đã xác tín cho chúng ta: Mỗi khi ta tham dự
Phụng Vụ, đặc biệt là dự Lễ, ta được “trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng dạy, người
giảng chỉ là cái loa Chúa dùng. Chúa Giêsu là Đấng dùng Lời quyền năng của mình
mà duy trì vạn vật. Bởi vì chính Ngài đã dựng nên vũ trụ. Thì chắc chắn các phép
lạ Đức Giêsu làm mà tác giả Marco ghi lại chỉ là hình bóng ơn cứu độ vô cùng
phong phú, Chúa ban cho những ai có tấm lòng biết nghe và đem ra thực hành rồi
loan báo cho đồng loại.
Đó là lý
do khi Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ mệnh ngôn sứ, Ngài lên tiếng kêu gọi mọi
người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”
(Mc 1, 15: Tung Hô Tin Mừng). Đúng lý ra Ngài phải kêu gọi mọi người: “Hãy tin vào tôi là Đấng Cứu Độ như các ngôn
sứ đã loan báo trước”. Nhưng Tin Mừng còn là Cơ Thể thứ hai của Chúa Kitô, âm
thầm và dễ dàng len lỏi vào hết mọi tâm hồn con người; còn nếu Ngài nói: “Tin vào tôi”, thì lúc ấy chỉ có một số
người đồng thời với Ngài được biết; ngày nay, chỉ có những người Công Giáo được
rước Lễ mới có quyền gặp Chúa Giêsu Phục Sinh trong Bí tích ThánhThể mà thôi. Nhưng
“tin vào Tin Mừng” thì bất cứ loại
người nào cũng đón nhận được.
Vì Tin
Mừng là Cơ Thể thứ hai của Chúa Giêsu, nên giáo huấn của Hội Thánh trong Hiến
Chế Mạc Khải số 21 dạy: “Phải tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa
Kitô, đặc biệt là Lời Chúa trong Phụng Vụ”, vì “Chúa Giêsu hiện diện cách thiết thực khi chúng ta đọc Thánh Kinh trong
Hội Thánh, nhất là trong Phụng Vụ” (Hiến Chế Phụng Vụ số 7).
3/
AI THUỘC VỀ CHÚA KITÔ, PHẢI QUY TỤ MUÔN DÂN VỀ CHO CHÚA ĐỂ HỌ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG.
Nhìn vào
cơ cấu của Tin Mừng Marco trong chương 1: Sau khi Đức Giêsu thắng Satan: “Ngài ở giữa các dã thú, chúng không làm hại
được Ngài, và các Thiên thần đến hầu hạ Ngài” (x. Mc 1, 12-13: Tin Mừng). Tin
Mừng chiến thắng đó, Đức Giêsu muốn chia sẻ cho cả loài người, vì loài người
đang bị quyền lực sự ác thống trị, cụ thể sau khi vua Hêrôđê cắt đầu ông Gioan,
thì Đức Giêsu lớn tiếng kêu gọi mọi người: “Thời
buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”
(Mc 1, 15: Tin Mừng).
Để làm
cho Tin Mừng giải phóng sớm bao trùm tâm hồn mọi người, Đức Giêsu muốn mọi
người phải tiếp tay với Ngài là làm Tông Đồ cho Ngài, khởi đi từ Bí Tích Thánh
Tẩy (x. Mt 28, 18-19), nên Ngài chọn một số người, Ngài không chọn những người
nhàn rỗi, nhưng là những người đang vất vả làm việc chính đáng để nuôi sống gia
đình, phục vụ xã hội, cụ thể như ông Simon và ông Anrê đang quăng chài bắt cá;
cả hai anh em Giacôbê và Gioan đang vá lưới, tất cả phải bỏ nghề, bỏ việc đi
theo Ngài để “bắt” muôn người về cho Ngài (x. Mc 1, 16-20: Tin Mừng).
Chính vì
vậy mà giáo huấn của Công Đồng Vat. II dạy chúng ta: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng
cho thế giới, cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế” (Hiến Chế Hội
Thánh số 35).
Việc loan
báo Tin Mừng đem lại hiệu quả tuyệt vời. Cụ thể:
-
Chỉ cần Lời Chúa được công bố là thần ô uế bị xua trừ (x. Mc 1, 23t).
-
Đức Giêsu có mặt tại nhà mẹ vợ ông Phêrô, Ngài động đến bà, tức
khắc cơn sốt nặng biến mất, bà chỗi dậy phục vụ các Ngài (x. Mc 1, 29).
-
Thế rồi đủ các bệnh nhân đến với Ngài, tất cả đều được lành mạnh
(x. Mc 1, 32t).
Đức Giêsu
nói với những người Ngài tuyển chọn: “Các
anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành ngư phủ đi bắt người”
(Mc 1, 17: Tin Mừng).
Đức Giêsu
hữu ý sử dụng động từ “bắt”, tiếng
Hy Lạp là “zogreo”. Bởi vì ai có quyền bắt, thì người ấy cũng có quyền tha. Như
vậy, các môn đệ của Đức Giêsu dùng Lời để quy tụ, để “bắt” người ta quay về
với Chúa. Ai tin vào Chúa Giêsu mà biết sám hối và xin theo Ngài, thì các môn
đệ có quyền mở cửa Thiên Đàng cho họ vào, như Lời Chúa Giêsu đã nói với các môn
đệ: “Dưới đất, anh em cầm buộc những gì, trên
trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi điều gì, trên trời cũng
tháo cởi như vậy” (Mt 18, 18).
Vậy khi
ta đã ý thức mình là Hiền Thê của Chúa Kitô, thì ta phải làm ứng nghiệm lời
ngôn sứ Mikha 1, 2: “Đến thời “Đẻ” phải
sinh con” (Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn), không phải là những người sống
bậc gia đình mới đẻ con Thiên Chúa, vì “Người
làm cho đàn bà son sẻ thành mẹ đông
con vui cửa vui nhà” (Tv 113/112,
9). Cũng vì lý do đó mà Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia nói: “Nếu ngươi chỉ làm tôi trung của Ta, để tái
lập các chi họ Giacob, để dẫn đưa những người Israel sống sót (sau lưu đày) trở
về, thì vẫn còn quá ít, vậy Ta đặt ngươi
làm ánh sáng muôn dân, đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất” (Is 49, 6).
Có như thế ta mới “làm người phục vụ Đức
Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên
Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa, mà trở nên một lễ phẩm đẹp
lòng Thiên Chúa” (Rm 15, 16). Bởi vì ta đã cất lời kêu gọi: “Chư thần chư thánh phục bái Chúa đi” (Tv
97/96, 7c: Đáp ca năm lẻ), và thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, con sẽ dâng lễ tế tạ ơn Ngài” (Tv 116/115, 17a: Đáp ca
năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Đức Giêsu nói: “Mẹ và
anh em Ta là những người nghe và làm theo Lời Thiên Chúa” (Lc 8, 21).