Tìm hiểu Lời Chúa _ thứ bảy tuần 3 thường niên

THỨ BẢY SAU CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
 Dt 11, 1-2. 8-19; Mc 4, 35-41
BÀI ĐỌC: Dt 11, 1-2. 8-19
1 Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.
8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17 Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19 Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.
ĐÁP CA: Lc 1
Đ. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm dân Người. (x c 68)
69 Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, 70 như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa:
71 sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; 72 sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước;
73 Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, 74 và cho ta chẳng còn sợ hãi, 75 để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 3, 16
Hall-Hall: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Hall.
TIN MỪNG: Mc 4, 35-41
35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia đi! "36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? "39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? "41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? "

SÓNG GIÓ CỦA NIỀM TIN
Sự cố thuyền các Tông Đồ gặp sóng gió trên biển, nhằm tiên báo cho những ai tin theo Đức Giêsu, họ sẽ còn phải gặp sóng gió. Nhưng qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, hé mở cho ta thấy sóng gió sống Đức Tin lại đưa đến vinh quang, vì cả đến “Đức Giêsu cũng phải qua đau khổ mới đi vào vinh quang” (x Lc 24, 26). Bởi đó, những chi tiết thuyền các Tông Đồ gặp sóng gió trên biển được lặp lại vào giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu:
1- Trước Phục Sinh, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng con hãy sang bờ biển bên kia” (Mc 4, 35: Tin Mừng).
Sau Phục Sinh, Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng (x Mc 16, 15).
2- Trước Tử Nạn, Đức Giêsu nằm trên thuyền của các môn đệ chở Ngài sang bờ bên kia, một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, trong lúc Đức Giêsu dựa đầu vào đằng lái mà ngủ (x Mc 4, 36-38: Tin Mừng).
Vào giờ Tử Nạn, Đức Giêsu “ngủ” trên thập giá, niềm tin các môn đệ bị dao động, các ông bỏ Thầy mà chạy trốn hết (x Mc 14, 50).
3- Trước Tử Nạn, các môn đệ thưa: “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” Người thức dậy, ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi!” Gió liền tắt, biển lặng như tờ! (x Mc 4, 38b-39: Tin Mừng).
Sau Tử Nạn, Chúa Giêsu sống lại, làm cho niềm tin các môn đệ kiên vững, không sợ sự dữ làm hại, đến như có cầm rắn trong tay, uống nhằm thuốc độc cũng không hề hấn gì (x Mc 16, 17-18).
4- Trước Tử Nạn, các môn đệ vẫn thắc mắc Thầy mình là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải vâng lệnh? (x Mc 4, 41: Tin Mừng).
Lúc Tử Nạn, người đầu tiên trong nhân loại, vị sĩ quan ngoại giáo đã chỉ huy thi hành bản án giết Đức Giêsu, khi Ngài bị đâm, ông này đã đấm ngực và hô lên: “Đích thực người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 39).
Vậy sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, đời sống Hội Thánh hay mỗi người Kitô hữu vẫn còn gặp sóng gió, nhưng lộ ra tia hy vọng dẫn đến vinh quang. Tuy nhiên ta phải nhận biết nguyên nhân nào gây ra sóng gió để phải đương đầu hoặc phải tránh. Có hai loại sóng gió:
-             Sóng gió bởi làm theo Lời Chúa ta phải đương đầu.
-             Sóng gió bởi tội gây ra ta phải tránh.

I. SÓNG GIÓ BỞI LÀM THEO LỜI CHÚA TA PHẢI ĐƯƠNG ĐẦU.
Thời Tân Ước:
1/ Đức Maria gặp sóng gió nặng nề nhất. Vì tin rằng “Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1, 45); và tin rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3, 16: Tung Hô Tin Mừng). Cụ thể Chúa đã hứa cho Đức Maria:
-             Maria được gọi là “Đầy Ơn Phúc” vì có Chúa ở cùng (x Lc 1, 28).
-             Maria được làm mẹ Con Đấng Tối Cao (x Lc 1, 32).
-             Maria là Nữ Hoàng, vì Con Bà là Vua thuộc dòng vua Đavid, triều đại Ngài vô cùng vô tận (x Lc 1, 32b-33).
Thế mà sau cuộc Truyền Tin, Đức Maria lại gặp sóng gió càng ngày càng gia tăng.
-             Ông Giuse, chồng Đức Maria định tâm ly dị (x Mt 1, 18-19).
-             Đức Maria không tìm được nơi xứng đáng sinh Con, đành phải đặt Con nằm trong máng cỏ (x Lc 2, 7. 12).
-             Vua Hêrôđê ra lệnh truy nã Con Đức Maria để giết, thế nên ngay trong đêm Mẹ phải bồng Con trốn sang Ai Cập (x Mt 2, 13t).
-             Đau đớn nhất là vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Maria chứng kiến Con bị treo trên thập giá, thì tất cả những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin đâm vào tim Mẹ, đúng như lời ông Simêon đã báo trước: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2, 34-35). Như vậy là Đức Maria đã hứng chịu Lời Chúa chúc dữ cho bà Eva sau khi phạm tội: “Bà sinh con đau” (St 3, 16).
2/ Các Tông Đồ gặp sóng gió. Sau khi Chúa Giêsu đã đánh gục thần chết, Ngài sống lại đến gặp các Tông Đồ và chia chiến thắng cho các ông: “Chúng con cầm rắn trong tay, và dẫu cho uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng con” (Mc 16, 18). Thế mà các Tông Đồ khi thi hành sứ mệnh Chúa trao, các ông vẫn bị ra tù vào khám như cơm bữa, tất cả đều phải đổ máu vì Tin Mừng để làm chứng cho Chúa!
Như vậy, chỉ tới ngày cánh chung, ta mới chiếm hữu được phúc lộc Chúa hứa hơn lòng mơ ước. Lúc đó, ta cùng chung lời với Mẹ Maria: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm dân Người” (Lc 1, 68: ĐC năm lẻ). Vì Đức Tin của người Công Giáo được sinh ra bởi Đức Tin của tổ phụ Abraham: Dù Chúa để cho ông gặp sóng gió thử thách, nhưng Đức Tin của ông rất vững mạnh, vì tin vào Lời Chúa chúc phúc cho dòng dõi ông sẽ được thực hiện, đặc biệt vào ngày cánh chung, như tác giả thư Do Thái đã nhắc đến cách sống đạo của tổ phụ Abraham: “Nhờ Đức Tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. Ông mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Nhờ Đức Tin, khi bị thử thách, ông Abraham đã hiến tế Isaac; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11, 1-2. 8-19: Bài đọc năm lẻ).
II. SÓNG GIÓ BỞI TỘI GÂY NÊN TA PHẢI TRÁNH.
Có hai loại:
-             Bởi tội xác thịt yếu đuối của con người, Chúa cho phép xảy ra.
-             Bởi tội con người đưa đến sự chết, Chúa không muốn cho xảy ra.
1/ Bởi tội xác thịt yếu đuối của con người, Chúa cho phép xảy ra. Cụ thể như thánh Phaolô, vị Tông Đồ xuất sắc nhất, cũng bị tính xác thịt nổi loạn, làm cho ông chới với, như ông thú nhận với giáo đoàn Roma: “Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự thiện tôi muốn, tôi không làm, còn điều dữ tôi ghét, tôi lại cứ làm” (Rm 7, 18-19), và ông đã năn nỉ với Chúa: “Xin Chúa đừng để Satan đâm cái dằm vào con”, đã ba lần ông van xin như thế, nhưng Chúa chỉ trả lời: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng chỉ được bày tỏ vẹn toàn trong yếu đuối” (2Cr 12, 7-10).
Sự yếu đuối về xác thịt nó là bản năng của con người, đến như vua thánh Đavid được đặt thay quyền Chúa lãnh đạo dân, mà tính xác thịt của ông đã nổi loạn, dan díu bất chính với vợ của tướng Uria, vị công thần của đất nước, rồi dùng mưu thâm độc giết Uria, để chiếm vợ ông. Thế mà ông không biết ăn năn, sám hối, ông chỉ mới nghe ngôn sứ Nathan nói: Có một người giàu bắt chiên của người nghèo làm thịt, Đavid đã thịnh nộ đòi lấy mạng nó, nếu ông tìm được đứa bất lương ấy! Ngôn sứ Nathan chỉ ngay vào mặt vua: “Kẻ đó chính là ngài!” Lúc đó, vua Đavid mới giật mình và sám hối. Dầu ông đã sám hối, tội ấy vẫn gây ra sóng gió:
"Đức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Israel và giữa thanh thiên bạch nhật.” Bấy giờ vua Đavid nói với ông Nathan: "Tôi đắc tội với Đức Chúa.” Ông Nathan nói với vua Đavid: "Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết. Còn Đavid, nhờ biết sám hối, nên Chúa không phạt ông phải chết! " (2 Sm 11, 1-14: Bài đọc năm chẵn).
Vậy “ngã vào tội là người; ở lại trong tội là quỷ” (ngạn ngữ Đức). Chúa không muốn ai ở lại trong tội giống quỷ, vì người ta được dựng nên giống Thiên Chúa! (x St 1, 26). Thế nên càng biết mình yếu đuối trầm mình trong tội, càng cần đến hiệp dâng Thánh Lễ và thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51/50, 12a: ĐC năm chẵn).
2/ Có những loại tội gây sóng gió làm mọi người phải chết, Chúa không muốn cho nó xảy ra, đó là:
-             Tội không tin vào quyền giáo huấn Chúa đã trao cho Hội Thánh.
-             Tội làm đảo lộn sứ mệnh Chúa trao phó.
-             Tội không chu toàn sứ mệnh ngôn sứ theo Quy Luật Phụng Vụ Hội Thánh đã dạy.
a- Tội không tin vào quyền giáo huấn Chúa đã trao cho Hội Thánh.
Vì Chúa muốn mọi người phải được cứu độ trong một “chuồng chiên” là Hội Thánh Ngài lập, nhất là phải tin vào Quyền giáo huấn của Hội Thánh mà Chúa Giêsu đã trao (x Mt 11, 25-26; 16, 13-19; Ga 18, 19-23; Gl 1, 8), vì không thể tìm được chân lý Đức Tin vẹn toàn ngoài Hội Thánh. Thế mà, có nhiều kẻ đã không xác tín như thế, họ đã ly khai Hội Thánh, vì thấy có nhiều gương xấu xảy ra nơi hàng giáo sĩ. Họ không nhớ Lời Đức Giêsu dạy: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3). Kẻ nào ly khai Hội Thánh là làm vô hiệu hóa lời cầu nguyện thiết tha của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin cho chúng nên một như Con ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Ga 17, 21-23). Thảm họa này tệ hơn xưa kia bà Mariam thấy ông Môsê lấy vợ ngoại giáo người Kush, nên bà không tin Chúa dùng riêng ông để nói Lời Chúa cho dân, bà nói: “Dễ chừng Chúa chỉ phán dạy qua Môsê mà thôi sao, Ngài đã không phán dạy ngang cả chúng ta đó ư?” Chúa nghe được, Ngài phạt bà bị cùi tức khắc! (x Ds 12, 1-13). Loại sóng gió này Chúa không muốn nó xảy ra vì nó chỉ làm khổ mọi người, mất vinh danh Chúa! Thế mà có ai nhận ra sóng gió đó là do bởi tội mình gây nên, để bắt chính mình phải làm theo ý Chúa qua giáo huấn của Hội Thánh?!
b- Tội làm đảo lộn sứ mệnh Chúa trao phó.
Cụ thể các Tông Đồ của Đức Giêsu vào thời Giáo Hội sơ khai được giáo dân tín nhiệm, họ bán hết tài sản góp cho các Tông Đồ để chia sẻ đồng đều cho mọi người (x Cv 4, 32-35). Quả thật, bản chất việc làm này là tốt, vì đã diễn tả thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng ai thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông Đồ mải mê công việc này mà xao nhãng cầu nguyện và giảng Lời, tức là bỏ bổn phận chính yếu mà làm việc phụ, hậu quả gây sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với nhau! Nhưng sau nhờ Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận biết mình sai lầm, các ông đã chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là Phó tế, để trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi người; còn các Tông Đồ trở về nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x Cv 6, 1-7). Với trải nghiệm trên, thánh Phaolô nhắc nhở cho môn đệ Timôthêu phải rà soát lại cách sống Đạo, vì “hình thức của Đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy xa lánh cả những người ấy” (2Tm 3, 5). Thánh Augustin mỉa mai: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi”.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Một nỗi nguy hiểm thường xảy ra nơi các giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ của công việc”. Nghĩa là cầu nguyện và giảng Lời là Chúa làm chủ công việc mình làm. Hãy nhớ ba quyền Chúa trao cho ta: Tư Tế, Ngôn Sứ, Vương Đế, khởi đi từ lúc lãnh Bí tích Thánh Tẩy, đặc biệt trong Bí tích Truyền Chức, thì phần lớn người ta chỉ quan tâm đến quyền Vương Đế mà coi nhẹ sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ. Trái với Chúa Giêsu, Ngài chỉ lo chu toàn sứ mệnh Tư Tế và Ngôn Sứ, đó là cách Ngài thể hiện quyền Vương Đế của Ngài.
c- Tội không chu toàn sứ mệnh ngôn sứ theo Luật Hội Thánh đã dạy.
Xưa kia con cháu Noe xây tháp Babel: Họ muốn xây tháp chạm Trời, nhưng không thành công, vì không chung một ngôn ngữ, thế là họ phải tản đi khắp thế giới (x St 11, 1-9). Ngày nay nhiều người Công Giáo đang bỏ Đạo, hoặc sang tôn giáo khác chỉ vì người ta đến Nhà Thờ nghe nhiều vị giảng cách tự biên tự diễn, không giảng đúng với quy định về Luật giảng dạy trong Hiến Chế Phụng Vụ:
-             Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã trích từ Kinh Thánh những Bài đọc để diễn giải trong Bài giảng (số 24).
-             Bài giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các quy tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một phần của chính Phụng Vụ (số 52).
-             Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ, nên phải có thời giờ thích hợp để giảng giải…Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi Lễ. Tiên vàn bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ, vì như thế là rao truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ (số 35).
-             Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục số 14 dạy: “Bài giảng hay bài giáo lý phải dựa trên năm nguồn: Thánh Kinh – Thánh Truyền – Phụng Vụ - Công Đồng – Giáo Luật.
Vậy giáo sĩ nào chỉ chộp một đoạn Kinh Thánh để trổ tài hùng biện, thì chẳng hơn gì Mục sư Tin Lành, còn nếu giáo dân đi dự Lễ bất cứ nhà thờ Công Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các chủ chăn giảng đúng Quy Luật trên, thì chắc chắn tháp Babel mới càng ngày càng được xây dựng rộng và cao hơn tháp Babel xưa đã được thể hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần, vì khắp mọi dân tộc trên thế giới đều đến nghe giáo huấn của thủ lãnh Phêrô, và ai cũng tưởng ông Phêrô nói tiếng địa phương của mình, đó là một cộng đoàn đang hoàn tất tháp Babel mới chạm Trời, cũng chính là được lên Trời được hưởng phúc vinh với Chúa (x St 11; Cv 2). Trái lại, mỗi giáo sĩ giảng cách tự biên tự diễn làm cho dân Chúa không thống nhất một ngôn ngữ, thì sự cố tháp Babel xưa bất thành nay còn đang tái diễn trong Hội Thánh!
THUỘC LÒNG
Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin cho những người trông đợi Chúa đừng vì con mà phải thẹn thùng. Lạy Chúa Trời nhà Israel, xin đừng để những ai tìm kiếm Ngài lại vì con mà mang tủi hổ (Tv 69/68, 7).
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH