Các bài
suy niệm LỄ THÁNH GIA - năm B
Hc 3,3-7.14-17a/ St 15,1-6; 21, 1-3;
Cl 3,12-21/ Dt 11, 8.11-12, 17-19
Lc 2, 22-40/ Lc 2, 22. 39-40
Lc 2, 22-40/ Lc 2, 22. 39-40
MỤC LỤC
27. Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
28. Thánh gia thất là gương mẫu... catholic.org.tw
29. Là gương mẫu của mọi gia đình Lm. Carolô Hồ Bạc Xái
30. Xây dựng gia đình Kitô hữu Lm Giuse
Đinh lập Liễm
31. Sống thánh thiện trong đời sống... Lm.
Phêrô Lê văn Chính
32. Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu Linh
Mục Inhaxiô Trần Ngà
33. Một gia đình tuyệt vời Linh
mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi
34. Sống hạnh phúc gia đình Linh Mục
Anphong Trần Đức Phương
36. Thánh gia Sưu tầm
1. Những nhân vật
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân
vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn
tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel,
Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu,
chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có
thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung
của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ
chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội,
Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung,
Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung
lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay,
chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở
mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho
những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục
đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền
thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là
vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là
thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh
tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy
khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã
ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu
xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn
phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các
ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta
không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ,
Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin
của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin
của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng
ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng
Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến.
Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa
Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ
tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở
nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn
phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta
can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là
những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng.
Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là
chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón
nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả
tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
2. Gia đình nhân loại
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu
thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những
bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của
chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài
để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới
cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại
được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải
trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế
gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã
đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng
rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân
riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và
đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với
cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một
dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất
để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên
Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên
quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó
một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải
để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu
khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau.
Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như
một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài
muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng.
Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun
xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan
hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh
em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng
theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính
là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý
tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi
của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội
và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm
ấy.
3. Giáo Hội cỡ nhỏ
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng
như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể
thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh
hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng
ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và
chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã
bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy,
mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và
yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã
đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây
không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ
là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín
hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư
tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo,
người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha
mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với
Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái,
hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi
người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều
hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự
trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải
lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến
một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ,
do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái
cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của
lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc
thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở
nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi
thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài.
4. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của
đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối
bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh
gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng
phê bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia Trung-Hiếu"? Chỉ có một
thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả
Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia Trung-Hiếu". Viết như thế
chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý
kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì
hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm
thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh
gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm
giảm giá trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ
thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi
Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm
có ba đấng thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm
những người phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì
các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh
nhận bí tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh
vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa
Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma,
Ga-lát... là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí
tích hôn phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một
tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II
gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công
giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội
Thánh tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công
giáo số 1657, gia đình "là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của
người cha, người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình", "là cộng
đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và
đức mến Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu
ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia
đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra
trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp
với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật
hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa
theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất
của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria
và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi
người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ
thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến
và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã
yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như
thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải
hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã
làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là
thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia
đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện.
5. TÌNH YÊU TRONG GIA ĐÌNH
1. GIA ĐÌNH LÀ HÌNH ẢNH CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng
gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải
là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong
đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và
kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi
nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì "Tập
Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của
mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi
đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự
hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành
viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với
nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên
của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau.
Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ
thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung
thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không
yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành
hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức
Phật kể ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội khổ", nghĩa là khổ vì
không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia
đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành
viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây
nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ,
thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích
kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha,
biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi
thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng
thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù
hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng
bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó
mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục
chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho
mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục,
mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa
quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn
mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình
được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của
mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên
trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi
người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều
hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình
thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con
người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình
yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con
người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau
khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động
lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được
nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,
7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế,
muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với
Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng
mình "là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được
tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và "được thông phần bản
tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương
(x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là
hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta
cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống
không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và
sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu
thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh
phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa,
chính là sống thánh thiện.
5. Gia đình là trường thực tập yêu thương – JNK
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và
thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong
gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô
điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên
thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập
hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở
nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy
sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ
mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì
các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi.
Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình
yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ
động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu
này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi
hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con
người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối
tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một
tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và
phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được
trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong
môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự
nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác
và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn,
vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu
mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi
yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế
khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có
trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên
khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho
con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột
thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta
không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người
khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính
cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt
với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ ! Rất có thể chỉ là giả tạo
để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được ! Vậy, các bậc cha
mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó
là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở
thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi
người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều
hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
6. Gia Đình - Con Đường
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông
cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha,
mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời
sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn
dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề
thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia
đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây
giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia
đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp
đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con
đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để
dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ,
chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng
Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha
thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được
tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt
đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội
đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát
đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả
những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật
hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền
Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh
Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ
bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5,
17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê
Na-da-rét, "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát
và đứng lên đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi
Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen
siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng
phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình,
sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái... mà ta thấy bàng bạc
trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính
trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, "càng
lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai
trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm
có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có
trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con
đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng
không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
7. Gia Đình Thánh
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng
muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi
hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời
chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự
dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác
thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ
mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày
trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào
con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ
tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu
hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi
nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời
thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ
không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì
mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón
nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế
nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ
sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia
luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ
tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình,
thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn.
Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy
sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con
người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa
đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một
gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời
gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là
được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên
đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông
thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian,
tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi
chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể
thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà
bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu
súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên
đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại
không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được
vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn
thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy
để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của
Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là
những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình
thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để
sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen.
8. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
(Trích website ‘Giáo Phận Thái Bình’)
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường
thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm
mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như
vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống
lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế
nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những
sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực
tế là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc
rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục
trong hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều
đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành
những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con
cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris
Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính
họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo
dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù
vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy
linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển
hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là
trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã
hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta
hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường
thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm
mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như
vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời
sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng.
Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn,
những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo.
Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải
qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia
đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong
chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường
chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi?
Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của
Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn,
xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau?
Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức
Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse
đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn
vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng
kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép
cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì
nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các
ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ
nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ
được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết
bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa.
Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm
ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải
trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu
nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng
lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho
Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi
xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý
Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi
người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình
phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là
tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người
con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng
lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia.
Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi
tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên
thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo
tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia
đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông
đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng
thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ
cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”.
Người Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình,
làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết
nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng
cạn” là vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau
là vì: Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì:
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết
tuyệt hảo” (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành,
không kiêu căng, không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy:
Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói
gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa
Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều
này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong
những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số
1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân
trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta
hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc
gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc
chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta
sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình
yêu Chúa muôn đời. Amen.
9. Gia đình của tôi ơi!
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn
lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành
động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn
năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn
lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng
của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng
nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu
tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội
Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã
không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn
cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô
cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho
tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh
tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo
động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên
thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa
gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn
khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác
nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ
và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn,
đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi
và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình,
nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse
Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài
vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy
nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm
cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện.
Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các
ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse
Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu
vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công
việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để
cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói
của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để
tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã
có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình
này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse
bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một
cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt
để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình
của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà
lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse
đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và
yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống.
Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người
không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa
kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là
chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo
vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng,
thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người
trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian
nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm
để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi
được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê
bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong
việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ,
tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng,
Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở
thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng
bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và
chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải
thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và
đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh
Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong
khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn
các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và
tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta
tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình
mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né
sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu
trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình
trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc
đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia
đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau
nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và
không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ
biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một
gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể
nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi.
Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công
việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái,
khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ
ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình.
Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với
nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình
Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà
biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận
hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái
gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình
chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh
diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ
là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen.
10. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những
sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn,
không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng
hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở
về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng
tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự
kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi
đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét
rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và
Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai
vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc
thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là
một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả
như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý
niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà
Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã
tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị
của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của
nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức
Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên
tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm
tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường
đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới,
nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng,
biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan
trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu
có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần
tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người
đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần
với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho
niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này
liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện
trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc
lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô
tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những
người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con
Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân
loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi
chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên
Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức
Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi
người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên
một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa
con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia
đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.
11. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố
Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ
những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu
nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là
yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những
người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ
tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải
cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều
tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình
nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha
mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu
hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con
trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao
trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi
phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa
Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài
cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh
Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào,
đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày
bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của
con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích
thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn
bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những
kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm
tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được
đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế
không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm
người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người
thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng
đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của
những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động.
Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt
Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã
nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực
ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể
Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm,
khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa
Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của
Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là
những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và
thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối
liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương
đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi
là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người
con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của
Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu
Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương,
tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi,
nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha
thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia
đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình
thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng
đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét
là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình
Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học
nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm
quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi
đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết
của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý
nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên
Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc
làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu
biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho
chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con
cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy
thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những
cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc
cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng
mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về
mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và
sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể
tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn
cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những
giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều
phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để
được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt
20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có
trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa.
Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như
con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân
danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của
Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại
và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh
phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
12. Mái nhà lý tưởng
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức
Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất.
Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở
thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc.
Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một
lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi
đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết
rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón
nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và
tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh
của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu
khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con
đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ
thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn
điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là
khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải
cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo
những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên
Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của
Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương
nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác
định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào
việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ
biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong
gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng
lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương.
13. Dâng Chúa trong đền thờ - R. Gutzwiller
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị
tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái
lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp
thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này
là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của
Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính
bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt
chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà
theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế
và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng
Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều
sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả
trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để
được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy
vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn
độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính
chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên.
Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân
loại đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà
cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua
một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng
một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất
cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người
đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống
đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ
ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai
bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa
gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang
hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc
quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài
phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê,
người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân
loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như
những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu
sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi
nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có
một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ
lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người
thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy
Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi
do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn
lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’.
Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ
già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể
như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài
lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về
với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã
nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công
việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh
‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’.
Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo
chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản
giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày
thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’.
Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ
quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta
nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’.
Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại
không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng
của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu
đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều
tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’.
Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ
trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét
bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là
núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các
tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi
Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho
Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ
hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên
Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con
bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm
dấu gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức
mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải
quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên
như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên
Chúa. Với tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự
suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và
nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu
độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ
Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản
kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu
tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái
bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân,
kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều
tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn
thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những
nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình
yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình
thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ
đau khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng
với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của
nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những
gì nói về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước
trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả
dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những
người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này.
Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn
bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là
người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
14. Gương mẫu Thánh Gia
“Theo luật Môsê… cha mẹ dâng con cho Chúa”.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai
viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy
báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới
và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp
đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo
như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa
giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng
được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra
Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn
kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em
bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên
đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó
là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó
thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon
và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như
các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên
báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình
dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần
cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con
hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm
lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống
như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần
soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã
được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc
phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế,
được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu
kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài,
thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã.
Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan
nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở
về Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn
thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần
thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình
thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha
trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi
người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong
xã hội.
15. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi Giêsu
Đề tài "gia đình" là một đề tài xưa như trái đất, mà
cũng rất thời sự như "tình yêu", "tình yêu và tuổi trẻ",
"dự bị hôn nhân", "thăng tiến hôn nhân", vân vân và vân vân...
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật - giống nào theo giống đó -
có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương tác dụng để "sinh sôi
nẩy nở" (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu trời lẫn biển khơi. Riêng
loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng "sinh sôi nẩy nở và
nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn loài" (Kn 1,28-31). Đó là
"tính xã hội" của muôn loài nói chung, của loài người nói riêng = xã
hội loài người thành hình.
Quả thật "không ai là một hòn đảo" (Thomas Merton),
mặc dầu dưới một góc độ nào đó, "mỗi người là một hòn đảo" (Carl
Rogers). Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva [và cả hài nhi Giêsu? -
ai muốn kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết thảy chúng ta, ai cũng có
lổ rốn. Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất của mối tương quan giữa các
tạo vật, giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống người? = nhân tố của xã hội
loài người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta
trong một gia đình - một gia đình rất đặc biệt, có thể nói rằng gia đình duy
nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với ý định của Đấng Tạo
Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình của nhân
loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới để đạt đến sự
viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca hát: "Vinh Danh Thiên
Chúa trên trời - Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Và chúng ta cũng
biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của chương trình "tạo dựng
mới" mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm
tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có "hợp đồng hai
chiều" giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Augustinô đã nói:
"Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Thiên
Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của chúng ta". -
Ai không muốn kiểu "hợp đồng hai chiều" này thì "thương lượng
lại" với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, là Cha rất nhân từ
hằng yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) - Người không để chúng ta
thiệt thòi trong "hợp đồng hai chiều" này đâu! Trái lại, như một nhà
giáo dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho chúng ta, không chỉ bằng
Lời giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ thể của chính Ngôi Lời
ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt như chúng ta: gia đình
Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô nàng thùy mị Maria đã phải
đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng với Thiên Chúa để bắt đầu
thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất chấp mọi dư luận thế gian
trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh chàng Giuse đã phải ký kết
hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo con mắt trần tục, phần thua
thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào "nếp sống gia đình" (nếp sống gia đình
trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên
sứ, nào là "Người sẽ làm vua", nào là "Người sẽ cứu dân độ
thế"... hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn tầm thường để Maria sinh ra
"vua cả trời đất" mà cũng chẳng ai thèm cho!
Ngày "vua cả trời đất" sinh ra, họa chăng có vài mục
tử nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3) nhà hiền sĩ từ phương Đông
tò mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá "ngôi sao lạ" vừa xuất
hiện trên bầu trời.
"Hoàng Nhi" vừa thôi nôi mã đã có người tìm giết cho
bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông đã ký kết với Thiên Chúa:
dẫn "hiền thê" và "Con đầu lòng" đi trốn sang Ai-Cập, nơi
mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt làm nô lệ...
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn, nghĩa là chưa có
"green card" hoặc "thi nhập quốc tịch", Giuse lại phải tiếp
tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với Thiên Chúa: đem
"hiền thê" và "Hoàng Nhi" về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia đình Giuse-Maria-Giêsu đến
sự "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" thật kỳ lạ, vượt xa mọi
tư tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa "khôn" lắm! Người biết thế nào chúng ta
cũng so đo phàn nàn về "hợp đồng hai chiều" mà phần thua thiệt - dưới
con mắt trần tục của chúng ta - bảo đảm chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm
trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ
Isaia báo trước: "Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các
ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi... Vì trời cao
hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các
ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi." (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta, gia đình
Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng - chỉ một lần lúc Giêsu lên 12 tuổi
(tuổi "có trí khôn" theo quan niệm thời bấy giờ?), Thiên Chúa hé mở
cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương mẫu, một nếp sống trông
rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của lương
tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn "suy niệm trong lòng", nhận ra
Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn "ở nơi nhà Cha" (Luca 2:49),
tùng phục cha mẹ, và "lớn lên [bình thường như mọi người] càng thêm tuổi,
càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người
ta" (Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa "trêu" con
người!
Nhưng "vui mừng và hy vọng" thay! Chương trình tái tạo
muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta đã thành tựu = gia đình
Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần 2000 năm nay, biết bao
nhiêu gia đình - cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những gia đình trong ý nghĩa
trọn vẹn của gia đình - đã noi theo gương Thánh Gia làm chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia đình chúng ta có muốn theo
gương các vị tiền nhân, ký kết "hợp đồng hai chiều" với Thiên Chúa để
mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em chúng ta đạt đến sự viên mãn của
"Bình An dưới thế cho người Chúa thương" không? - Nhờ ơn Chúa hợp với
tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta,
chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong "hợp đồng" này.
16. Hạnh phúc gia đình - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có những nỗi khó khăn nào?
Và ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn ấy?
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai nhiều nhất? Tại sao?
3. Để gia đình được hạnh phúc, mọi người trong gia đình cần có
tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
1. Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về thánh Giuse với tư cách chủ
của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực nhọc vất vả vì gia đình của
mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức Maria mang thai, một cái
thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người thì lại chính thức là
của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai trò của ngài không phải
dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa đời, thánh nhân luôn luôn
phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện ra trong giấc mơ, để khỏi
nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn ông khác. Cuộc đời đâu phải
lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với niềm tin ấy. «Cũng có lúc
mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử thách nhiều phen, nhất là
những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức mình như tình huống của
bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ, khó khăn cứ dồn dập xảy
tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh phải đưa Maria – đang
mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam, từ Nagiarét xứ Galilê
đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng Đế Augústô (x. Lc
2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới 120km, và đương nhiên
phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người nghèo thời đó, có thể
chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu cũng gặp khó khăn, chẳng
mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con trẻ Giêsu – mà Giuse tin
là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ gia đình, chắc chắn Giuse
không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo nàn và bất lực của mình!
Nhưng nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu, đang chuẩn bị đưa hai mẹ
con hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng lại trong giấc mơ – buộc
phải đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng đường chim bay từ Bê-lem tới
biên giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình lần này chắc chắn vất vả hơn
lần trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất
khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở, việc làm tạm thời để nuôi sống cả
gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa
cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải bao bọc, che chở và nuôi sống gia
đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên người. Đối với Đức Giêsu, câu «công
Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất đúng khi áp dụng cho cha nuôi của
mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi Giuse phải có rất nhiều
tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách tốt đẹp. Nếu Giuse và
Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc của Giuse sẽ được bù
đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria. Nhưng theo niềm tin Công
giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời, nên tình yêu đầy tính
thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria phải hết sức lớn lao.
Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người chủ gia đình hết sức
gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt chước Giuse cũng sẽ
làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến mức nào, tùy thuộc vào
tất cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách đối xử của hai vợ chồng
đối với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên phải thực hiện những điều
Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như
thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ
đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là
điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo
chúng ngã lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng, thì theo sự thường, nghĩa
là trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm trong gia đình tùy thuộc
vào người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh Phao-lô hàm ẩn những điều
kiện trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người trước đó người chồng cần phải
tỏ ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối xử độ lượng, không cay nghiệt
với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực
bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh. Người vợ có cảm thấy được chồng
yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi
nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng. Nói chung, tâm lý của mọi người là
chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể phục và yêu mến mà thôi. Người vợ
không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người chồng không nên lấy quyền làm
chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép buộc vợ phải phục tùng mình.
Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một chế độ độc tài nho nhỏ trong
gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một cách bất công, tất nhiên – như
một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là khi người chồng trở nên yếu
thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất nữa. Lúc đó người chồng không
thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương, người vợ cũng cần phải tỏ
ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu dàng, ngọt ngào, biết
chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm tròn mọi bổn phận của
mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng. Mình không dễ thương thì
dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là dễ đem lòng yêu thương những
phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi phụ nữ là dễ yêu thương
những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ có thể yêu thương một
người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể phục? Và làm sao người
đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể mình? Do đó, để gia đình
hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình phải có một điều gì đấy,
một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái trong nhà nể phục. Có thể
chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần nhiều. Nhưng càng nhiều thì
càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là lòng độ lượng, bao dung, và sự
hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc, một phần rất lớn là vì
Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để Maria kính phục. Có
thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại trong yêu thương của
người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết cho hạnh phúc của cả
gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
3. Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là bí quyết gây hạnh phúc
gia đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của hạnh phúc gia đình là cái
tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng coi cái tôi và ý riêng
của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu khi thấy cái tôi và ý
muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới. Ai cũng bị cái tôi và
ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn của người khác vốn
cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý kiến của mình được
mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến cái tôi và ý kiến
của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống chung do đó chẳng
hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người khác hạnh phúc,
nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến của họ được tôn
trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi để đặt nặng cái
tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh tôi. Nếu
người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, và
thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm nhất để được hạnh
phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc của mình. Như thế
tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải có một ai đó trong nhà
biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để quan trọng hóa cái tôi của
người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động, làm cho những người khác
trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc gia đình mới bùng lên.
Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng giờ trong đời sống gia
đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải là chính bạn, là người
ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay chồng? Thật vô phúc cho
gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi động tình yêu thương ấy
hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là người đứng đầu gia đình
Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người làm chủ gia đình để gia
đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm chủ trong các gia đình
Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ cái tôi của mình để
thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác trong gia đình. Xin
cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết luôn tỏ ra dễ thương,
dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc gia đình. Và xin cho
mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức Giêsu luôn kính trọng
và vâng phục cha mẹ mình. Amen
17. Tiến dâng cho Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình. Ngôi Lời
làm người chấp nhận có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương
giao vợ chồng, nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng chúng
ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau, đi chung với nhau trên những con đường, chia
sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui, trong thời gian Đức Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem. Đoạn đường cam go đối với
người gần ngày sinh nở. Thánh Giuse cũng đã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai
Cập, rồi lại đưa về làng cũ. Có lần cả hai phải vất vả mấy ngày tìm con trong
âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cả gia đình thánh lên Đền Thờ lần
đầu tiên. Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật Chúa. Luật dạy người mẹ phải
tẩy uế sau khi sinh con. Đức Maria vui lòng giữ luật ấy, dù Mẹ biết Đấng được
Mẹ sinh ra là Đấng Thánh. Luật dạy phải chuộc lại đứa con trai đầu lòng vì nó
thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu chẳng những đã được chuộc lại, mà
còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Ngài đã tập
làm người. Mái nhà là trường học đầu tiên. Thầy cô đầu tiên là cha mẹ. Đức
Giêsu lớn dần về mọi mặt thật hài hòa. Bé Giêsu, anh Giêsu, chú Giêsu, Ông
Giêsu...
Ngài lớn lên trong dòng thời gian. Thời gian là ánh mặt trời làm
cho trái chín. Nhờ lao động với Cha nuôi mà Ngài trở nên vững vàng và đủ sức
khỏe để đảm nhận sứ vụ. Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài thêm khôn ngoan. Dù Ngài
là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn học hỏi nơi bạn bè, kinh sư,
nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình thân với Cha. Những lời
kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ. Nagiarét đã thành trường huấn luyện Đức
Giêsu trở nên người biết sống cho người khác, và nên vị tông đồ tuyệt vời cho
Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm này. Bài học yêu thương,
cảm thông, tha thứ, bài học phục vụ, quên mình, khiêm hạ xin vâng...
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một Thánh Gia, để mỗi người
con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu là những mối đe dọa mà gia
đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu dựa vào đâu để vượt qua những
khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có những người vợ, người chồng
"đủ tiêu chuẩn". Theo ý bạn, đâu là những tiêu chuẩn mà một bạn trẻ
cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nagiarét,
Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng
Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành
nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi
hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình
sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh
những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con thánh
thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
18. Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia
đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì
các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời
sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì
gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ
khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của
thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe
lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều
người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua.
Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một
huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria
và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta
cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân
loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng
tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh
hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia
đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia
đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau,
vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh
bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba
volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất.
Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu,
cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ
trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi
chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển
được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại
về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử
tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương
diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái
gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá
trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc
biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết
thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất
là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình
được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta
cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống
thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn
có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những
nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính
mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp
gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn
vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
19. Tầm quan trọng của đời sống gia đình
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan
trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa
Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của
Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong
trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình
quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn
thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu
bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta
dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia.
Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất
bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng
về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái
tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức
thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và
cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo
giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo
hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách
Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa
(St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho
người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất
đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình,
có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia
đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân
xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ
Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse
đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã
đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse cung phụng cho gia đình
thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia
đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời
sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia
đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình
Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu là thánh, mà còn
tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người
Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách
Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều
đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn
mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng
ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình
nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô
khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy
những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn
nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu
gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia
đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia
đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho
mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những
gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và ta cũng cầu nguyện cho sự
thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
20. Dung mạo
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày
kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc
thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa
cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các
nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng,
người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn
một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một
phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để
thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các
họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính
ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của
người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn
phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng
nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng
chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng
mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như
gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh,
có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và
hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra
Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời
mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì
thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon
và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã
được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh
Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền
thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh
niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền
tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã
hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia
thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh
Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống
cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người
hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn,
và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis
Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình
ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn
sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp
cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng
nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức
mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới
biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn
là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông
nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về
thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì
nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền
giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia
đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của
những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục
càng lớn lao”.
21. Giáo hội nhỏ
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa
Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy
theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để
nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và
đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm
tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và
lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền
tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy
sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh
thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình
gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng
nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không
vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu
biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là
tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy
sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một
Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với
nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn
nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm
lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia
đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật
là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của
lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta
ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp
quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất
tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và
nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng
không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một
thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại
ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như
vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc
đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức
tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội,
Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương
sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất,
vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi
các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài
luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các
người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin
của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con
cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và
sống như vậy.
22. Vai trò của gia đình
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị
lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị
cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một
cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở
một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một
chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích
hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và
bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể
hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây
đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta
ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần
của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên
Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản
thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có
người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối
được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý
tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định.
Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm
bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có
một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng
cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của
mình. Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi,
mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương
quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng
ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu
không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi
buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên
đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong
đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có
trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không
phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta
không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình.
Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự
hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh
Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức,
trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn,
chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc
dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn
có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một
bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại
với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời.
23. Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được
bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ
của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố
cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông
bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con
mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn
biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và
cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà
nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông
đáp: “Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy”
Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi!
hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta
là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa
tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ
luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành
người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng
năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày
này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái
đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với
bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu
ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh
thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người
sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay
cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm
hôm nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng
phục các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ
mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong
thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết
của Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời
đối đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức
Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt
đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ,
trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người
thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám
năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều
chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần
trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn
Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ
một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ
hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế
nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công
việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi
nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách
dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải
quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để
cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất
hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối
gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình,
ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi
cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh
Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta
rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả
những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
24. Thánh Gia
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta
là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống
trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những
ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình
thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất
vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là
chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai
mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem
để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi
khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh
ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân
phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại
của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để
giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay
hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong
đời sống xã hội: gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người
được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò
đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng
chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng
hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm
đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia
mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không
ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ
sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để
nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến
sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy
không phải là con bác thợ mộc và Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ,
Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung
quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao
giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối…
Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã
sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như
thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh
gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy
dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng
phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu
ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50
của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được 50
tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều
nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như
hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu
thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương
còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi
tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một
thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho
thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của
mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa
là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho
ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý
Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền
đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại
dương cuộc đời.
25. Lớn lên
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo
nhau bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn
xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa kêu: “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha
phương cũng phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học
nghiên cứu cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm
nhận xét giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm
nay:
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược.
Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với
nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng
rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia
đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng
thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi
lo vơi!”
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau
chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay
cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc
lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống
chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta
mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống
hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những
người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có
nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời
lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng
phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn!
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc! Quéc!” Am thanh vang
dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay.
Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng
giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha
lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau! Trong
cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác
giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng
một kinh nghiệm như sau: “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng,
học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ
tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng
này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp
ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi
cho rồi!” Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói
mỉa mai: “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba
Hoà thượng không có nước uống!”
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao
giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt! Luôn luôn có 4 hay
5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng
đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh
chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê
hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình
tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống
đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho
đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào
một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong
gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị
em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương
mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi.
26. Chú giải của Noel Quesson
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê... tiến dâng
như Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền...theo
như những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường
làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5
lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là "Con
Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm
sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc
quyền". Người hành xử "như mọi người" không có gì phân biệt
Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi
thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình hóa ra
không", một “kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ.
Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng
thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của
"hai chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức
Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan.
Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của
buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình
"trong hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại
làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được
nhận biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ,
giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37).
Như thế là chúng ta dang dừng lại trước " trang cuối cùng"... kết
thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang "chu toàn lề
luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không
cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là "cuộc trở
lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người" như vị ngôn sứ loan báo
(Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao "! Không
khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng
đạo... Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi,
sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca,
không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức
Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu
biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc
"nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ
của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: "Ta sẽ chừa
lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:" một số nhỏ "còn sót lại
(Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho
những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn
quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già
"góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân,
vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà
chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở
nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những
dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng Mêsia của Chúa... ơn cứu
độ dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân ngoại... vinh quang của
Israel...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ
"vinh quang", "quyền lực"! Thì Ngài lại xuất hiện trong
thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết
đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh
Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự
khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo
khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề
ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến "hình dạng bề
ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ tấn phong cách công
khai của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người": Những tước hiệu mà hai
người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói
thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của
Thiên Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "... "ánh sáng"...
"Vinh quang"... "Sự giải thoát" Giêrusalem... Lạy Chúa, xin
ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc
nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, "đức tin của cha
mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng
Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những "tước hiệu” mà
ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm
sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc
nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ
ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa... và dâng
của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày "nghi
thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở
đây là (“parastènai": "dâng hiến"), cũng chính là từ mà Phaolô
sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký
của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã
chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ
tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa" (Rm
6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở
nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy
hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này
chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá... và mọi Kitô
hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình!
"Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy Chúa, khi thông hiệp với
Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc
trên chỉ là một ("tiến dâng con" và "hiến dâng của lễ"),
Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều
kích "vượt qua" của trình thuật này: "Tất cả các con trai đầu
lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta
hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập.
Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con
trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu
máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày cứu độ giải phóng này,
mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở
lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một
vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc
lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật
được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến thánh" cách trọn vẹn!
Và việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn mươi", thời gian tròn đầy..
và sau này còn có một "ngày thứ bốn mươi" nữa, để kết thúc mùa phục
sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh
biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt
qua khác cũng sẽ diễn ra "ở Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì
đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến
toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa,
ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những
thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao
Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà
thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là "nội dung” thần học, là
"ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan
điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn
một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ
tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là
lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả
tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý
người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là "tin vui cho
người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem
ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến" cho Thiên Chúa... điều đó không đòi hỏi
những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới,
lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và được thánh hiến... Những người
nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay
được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu hiệu”, một "dấu hiệu bị
chống báng", một "dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận". Thiên
Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận " dấu chỉ
tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm
núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả". Như thế mỗi
người phải tự quyết định trước trường hợp "Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài,
nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là
được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng "Thẩm phán vũ trụ”, Đấng
phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin
nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì
trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn
lên, thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở
về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng.
Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm
người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người
sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập
sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành... Người sẽ tiến bộ.