Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN - A
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN - A
9. Hãy làm những gì Chúa muốn Charles E. Miller
16. Chu toàn trách nhiệm Lm. Carolo Ho Bac Xai
17. Vì người đã trung tín trong việc nhỏ Lm. Phêrô Lê văn Chính
18. Phải tính sổ với Chúa catholic.org.tw
1. Việc nhỏ
Booker Washington là một người Mỹ da đen vĩ đại nhất.
Ông là một nhà giáo dục, một nhân vật cải cách và một văn sĩ nổi tiếng. Năm 16
tuổi, ông đã phải đi bộ gần 800 cây số để xin học. Thế nhưng, vì các lớp đã
đông đủ nên ông bị từ chối. Ông nhận chân quét phòng tại trường. Ông đã làm những
việc hèn hạ này một cách hết sức chu đáo, thành thử ông dành được cảm tình của
ban giám đốc nhà trường. Người ta dành cho ông một căn phòng nhỏ của sinh viên.
Chính tại căn phòng nhỏ này, ông đã chăm chỉ làm việc cho đến khi trở thành một
giáo sư nổi tiếng, và sau này trở thành người sáng lập học viện Tuskegee. Từ một kẻ nô lệ,
ông đã trở nên người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời vào năm 1915.
Phải chăng cuộc đời ông là sự thực hiện
trọn vẹn lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Ai trung
tín trong việc nhỏ, thì sẽ được trao phó cho những công việc lớn. Nói cách
khác, chúng ta hãy làm những công việc nhỏ một cách cẩn thận và chu đáo, rồi
thì những dịp thuận lợi hơn, to tát hơn sẽ đến với chúng ta. Kinh nghiệm trên,
sự thật trên quả là điều quan trọng trong đời sống thường ngày cũng như trong đời
sống thiêng liêng.
Trước hết là trong đời
sống thường ngày: Xiết chặt một chiếc đinh ốc nơi bánh xe
có thể cứu được nhiều người trên chuyến xe tốc hành. Thu lượm rác là điều cần
thiết cho sức khoẻ của một cộng đoàn. Rửa sạch chén đĩa sẽ giết được nhiều vi
trùng. Hãy làm những công việc này và hàng trăm công việc nhỏ bé khác nữa của
cuộc sống thường ngày một cách tốt đẹp và chúng ta sẽ làm được những việc lớn
lao hơn, khi thời cơ mỉm cười với chúng ta.
Tiếp đến, trong lãnh
vực thiêng liêng cũng vậy. Chúng ta hãy làm tất
cả những gì mình có thể để giúp đỡ gia đình Chúa là Giáo Hội nơi trần gian. Chẳng
hạn như là những người thợ, chúng ta có thể dành dụm tiền bạc hay công sức để
giúp ích cho giáo xứ trong những công việc chung. Chúng ta có thể trồng những
luống bông nhỏ để chưng trên bàn thờ. Chúng ta có thể dâng hiến tài năng và thời
giờ, góp phần vào việc giáo dục đạo đức cho các em nhỏ. Chúng ta có thể thăm viếng
những người đau yếu bệnh tật để an ủi họ. Chúng ta có thểm tham dự những sinh
hoạt của ca đoàn để dâng tiếng hát ca tụng Thiên Chúa, cũng như làm cho bầu khí
phụng vụ thêm phần sống động.
Trong tất cả những công việc nhỏ bé và tầm
thường ấy, nếu chúng ta thi hành một cách cần cù và trọn vẹn, thì chúng ta cũng
sẽ được Chúa ân thưởng như lời Ngài phán: Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, bởi
vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, thì Ta sẽ trao phó cho ngươi những công
việc lớn. Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chu toàn
vì lòng yêu mến Chúa, thì những công việc nhỏ bé và tầm thường ấy sẽ trở thành
những sợi chỉ vàng, dệt nên cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta có một
giá trị to lớn trước mặt Chúa.
2. Hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Dụ ngôn được trình bày dưới hình thức một
chuyện kể. Về văn mạch của đoạn 25,14-30 xem bài chú giải phúc âm Chúa nhật
XXXII Thường Niên A. Dụ ngôn có thể phân chia thành ba màn: 1/ Ông chủ trao tài
sản cho các tôi tớ (25,14-15); 2/ Các tôi tớ hành động với những nén bạc được
giao (25,16-18); 3/ Ông chủ tính sổ sách (25,19-30).
1/ Dẫn nhập. Ông chủ
trao tài sản cho các tôi tớ (25,14-15)
Dụ ngôn nói đến một người giàu có trước
khi đi xa, giao cho các tôi tớ những nén bạc để sinh lợi. Với liên từ đầu câu 1
“cũng thế”,
hôsper, và gar liên kết dụ ngôn nầy với dụ ngôn trước, và có chung chủ đề là một
trách nhiệm được giao phó và phải hoàn thành. Dụ ngôn nói đến sự vắng mặt của
người chủ. Một người sắp sửa ra đi, apodçmôv, (c. 14) và ông đã ra đi,
apedçmçsen (c. 15). Trước khi ra đi ông giao cho các tôi tớ ông các nén bạc để
sinh lợi trong thời gian ông vắng mặt. Talanton, theo nguyên ngữ là một đơn vị
đo lường. Ở đây là một số lượng tiền bạc đo bằng một talent (x. 18,24). Một
talent có thể bằng 6.000 đồng bạc, và một đồng bạc là lương một ngày công. Chủ
đề người chủ giao cho người quản lý trông coi tài sản của mình tìm thấy trong một
số dụ ngôn. Tuy nhiên trong dụ ngôn nầy, nhấn mạnh đến việc sinh lời tài sản ấy.
Tài sản giao cho các tôi tớ nầy không phải là nhỏ. Khi trao, paradidômi (c.
14), cho họ, không thấy nêu lên lý do của việc nầy. Sang phần hai, mới biết mục
đích của việc trao tài sản là để sinh lợi. Động từ “sinh lợi”, kerdainô, được
dùng đến 4 lần khi nói đến hành động của hai người tôi tớ đầu tiên (cc.
16.17.20.22). Kerdainô, ”kiếm được” do đầu từ công sức (x. 16,26; 18,15). Số tiền
đã được giao tùy theo khả năng riêng của từng người. Người chủ biết rõ khả năng
của các tôi tớ mình.
2/ Các tôi tớ hành động
với những nén bạc được giao (25,16-18)
Nén bạc được giao cho 3 người tôi tớ:
người năm nén, người hai nén và người một nén. Trong đoạn nầy các động từ đều ở
thì bất định (aorist), diễn tả sự nhanh chóng của các hành động. Dụ ngôn không
nói họ làm gì với các nén mạc, mà chỉ nói cả hai người tôi tớ đầu tiên
çpagasato en autois, “làm việc với những nén bạc ấy”, và kiếm được những nén bạc
gấp đôi. Người nhận 5 nén sinh lợi thêm 5 nén. Người nhận 2 nén sinh lợi thêm
hai nén.
Người thứ ba có hành động nghịch lại
(c.18). Liên từ “nhưng”, de, chỉ hành vi tiếp sau sẽ trái ngược. Việc đào đất
và chôn dấu nén bạc trong đó chỉ sự cất giấu an toàn (x. 21,33; 13,44). Người nầy
không muốn nén bạc của ông chủ không sinh lợi, mà chỉ lo giữ khỏi mất đi.
3/ Ông chủ tính sổ
sách (25,19-30)
Sau một thời gian dài chủ trở lại. “Một
người” ở câu dẫn nhập, bây giờ được xác định là “kurios”, ông chủ/Chúa (c. 19).
Tương tự như trong dụ ngôn 10 trinh nữ (25,11[2x]), từ kurios thường được dùng
trong phần hai của dụ ngôn, lúc có tính cách quyết định. Synairô logos, “tính sổ” cụm từ lấy từ ngôn ngữ thương mại, rất
giống với việc vua tính sổ (x. 18,23.24), và chỉ sự phán xét cánh chung.
Lời lẽ của hai người đầu tiên rất giống
nhau (cc. 20-23), chỉ khác chữ số nén bạc. Cả hai người tôi tớ đều được gọi là
“ngay thẳng” và “trung tín” (cc. 21.23) vì họ đã hoàn thành bổn phận được đòi hỏi.
Lời khen ngợi nầy tương tự với câu 24,46. “Phúc cho tôi tớ nầy đang làm như vậy
khi chủ trở về”.
“Hãy vào hưởng vui mừng của chủ ngươi” (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng nói đến
việc “vào Nước Trời” (5,20; 7,21; 18,3) vào sự sống (18,8-9; 19,16). Và ở đây
nói đến niềm vui. “Niềm vui” liên quan rất mật thiết với những điều thuộc về
Thiên Chúa: thấy ánh sao dẫn đường (2,10), tìm được kho tàng Nước Trời (13,44),
thấy Chúa sống lại (28,8). Nói tóm, “vào trong hoan lạc với chủ ngươi” là vào
hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Khác với hai người tôi tớ trước, người
tôi tớ thứ ba bắt đầu bằng lời phê phán ông chủ để biện minh cho việc mình đã
làm (25,24-30). Sklçros, “cứng”, “cứng lòng (19,8), nghĩa bóng là “khắt khe”,
“ác nghiệt”, “không thương xót” (x. 1 Sam 25,3). Gặt nơi không gieo. Thu nơi
không vãi. Hai câu song song và đồng nghĩa (gặt = thu; gieo = vãi). Như thế theo
lời người tôi tớ nầy, ông chủ là người kiếm lợi nhuận cách bất chính. Và người
tôi tớ nầy sợ không thể sinh lợi được như đòi hỏi của ông chủ, nên đã chôn giấu
nén bạc nơi an toàn. Người nầy đã đưa lại nguyên vẹn cho chủ một nén bạc, không
thêm không bớt. Hành động như thế, người nầy đã làm như người đã thắp đèn và để
dưới đáy thùng (5,15).
Lời của ông chủ tiếp theo rất dài
(25,26-30). Đáp lại ông chủ lập lại lời không phản đối lời người tôi tớ nói về
ông, và ông không phải đối điều nầy. Ông còn chỉ cho người tôi tớ cách làm lợi
nén bạc mà không phải nhọc công (c. 27). Ông gọi người tôi tớ nầy là ”bất hảo”
và “lười biếng” (c. 26). Từ “bất hảo” áp dụng cho con người (7,11; 12,34). Người
tôi tớ nầy bị gọi là “bất hảo”, ponçros, theo nghĩa là người nầy đã không suy
nghĩ như người chủ (x. 20,15) và không hành động như chủ muốn (x. 18,32).
Oknçros, thông thường được dịch là “lười biếng”, nhưng ở đây có thể có nghĩa là
“ngần ngại”, “sợ hãi”. Do sợ sinh lợi không thành, mà người nầy đã không dám
kinh doanh với nén bạc của mình.
Vì người tôi tớ tỏ ra “vô dụng” với
nén bạc được trao, chủ đã lấy lại nén bạc ấy, và trao cho người thứ nhất (c.
28). Các động từ trong câu 29 ở thể thụ động có Thiên Chúa là tác nhân. Người
đã có lại được thêm và người không sinh lợi được nén bạc được trao, mất luôn cả
điều họ đang có. Và người nầy chịu hình phạt nặng nề, vì đã không làm theo ý chủ
(ném vào nơi tối tăm 8,12; 22,13; khóc lóc và nghiến răng 8,12; 13,42.50;
22,13; 24,51; x. Lc 12,47).
Người tôi tớ không độc lập với chủ của
mình, nhưng ở trong tương quan phục vụ với chủ. Người tôi tớ không làm theo ý
riêng, mà ý muốn của chủ. Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa vì do Người
tạo dựng. Mỗi người tùy theo khả năng được ban cho mà phụng sự Thiên Chúa hết
tâm hồn.
3. Sự tham lam của cải tỏ lộ ra
(Suy niệm của Nữ tu Barbara E. Reid OP.
- Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Khá lắm, anh đúng là
tôi tớ tài giỏi và trung thành” (Mt 25, 21).
Khi con người sống trong một định chế xã
hội với hệ thống kinh tế đầy những bất công, chúng ta có thể làm được những gì?
Có một thời, người ta đã xuống đường ở Mỹ, chiếm phố Wall, như một động thái phản
kháng, và gióng lên hồi chuông báo động về những bất công nơi hệ thống tài
chánh tại đất nước tư bản này. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cũng phác vẽ hình
ảnh về một cơ chế xã hội khi con người phải hứng chịu những bất công trước một
thực tế phũ phàng, đó là người giàu càng ngày lại càng thêm giàu, và những người
nghèo khổ càng ngày càng trở nên cơ cực hơn.
Bài Tin Mừng thuật lại câu truyện, một
nhà phú hộ trước khi đi xa, đã trao phó tài sản mình cho những đầy tớ để họ
sinh lợi. Người nhận năm nén, người nhận được hai, và người đầy tớ sau cùng chỉ
nhận một nén bạc. Từ ngữ “nén bạc” dịch từ hạn từ talenton trong tiếp Hy Lạp,
là một đơn vị tiền tệ để giao thương hoặc để định lượng tài sản lúc bấy giờ.
Trình thuật hôm nay phần nào khác với câu truyện dụ ngôn được Thánh Luca kể lại.
Trong Tin mừng Luca, ông chủ chỉ thị một cách rõ ràng cho các đầy tớ phải đầu
tư kiếm lợi, còn nơi Matthêu, ông chủ không ra lệnh trực tiếp, nhưng trong thâm
tâm ông cũng muốn các đầy tớ quản lý tài sản của mình cách khôn khéo lúc ông vắng
nhà. Trong lúc người phú hộ đi xa, hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi gấp
đôi với số bạc được trao phó. Vì thế cả hai đều được ông chủ khen ngợi và trao
cho những trách vụ to lớn hơn. Còn người đầy tớ thứ ba lại đem nén bạc đi chôn
giấu. Anh ta không làm cho nén bạc sinh lợi, nhưng cất giấu đi như một phương
cách bảo đảm an toàn theo thói quen thời xưa (xem Mt 73,44): Dụ ngôn kho tàng
được chôn giấu trong ruộng). Tên đầy tớ này đã bị ông chủ khiển trách nặng nề
và phải lãnh nhận hình phạt.
Chìa khóa quan trọng để ta có thể hiểu dụ
ngôn, đó là chúng ta phải đặt mình vào trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đức
Giêsu đã không sống trong một xã hội theo hệ thống tư bản, và vào thời đó, người
ta chưa quen đầu tư để sinh lợi như hiện nay. Thay vào đó, người ta nghĩ rằng mọi
người đều được xã hội phân định tài sản. Tài sản của ai tăng lên do sinh lợi
đương nhiên là rút tỉa từ người khác. Một nông dân bình thường chỉ cần đủ những
chi tiêu để nuôi sống bản thân và gia đình. Những người có nhiều của cải và chỉ
lo tích trữ cho mình vẫn bị coi là những hạng người keo kiệt và gian ác. Vì vậy,
trong dụ ngôn, người đầy tớ thứ ba dẫu sao, cũng là một con người đáng trân trọng,
chỉ vì anh ta đã chối từ cộng tác vào hệ thống tài chính chỉ để làm tăng thêm lợi
nhuận cho ông chủ, trong khi những người khác lại bị thiệt thòi.
Dụ ngôn có thể là một lời cảnh báo trước
lối sống an nhàn trưởng giả nơi những con người bị lôi kéo vào một hệ thống
kinh tế đầy bất công như hiện nay. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng khích lệ các học
trò của mình phải can đảm phản kháng lại những tham lam một cách vô lối như một
dạng bất chính, và đó cũng là một hình thái rõ ràng của tội ác. Câu cuối trong
dụ ngôn mời gọi chúng ta phải cảnh tỉnh khi đối mặt với những ai khuyến khích
làm giàu và biến mình trở nên những con người đầy quyền lực với tiền bạc dư giả.
Dụ ngôn cũng khuyến mời chúng ta phải tìm cách cùng nhau chống lại những hệ thống
kinh tế bất công, một hệ thống không cổ xúy tình tương thân tương ái, mà nạn
nhân điển hình là người đầy tớ thứ ba trong câu truyện Tin mừng hôm nay.
Đọc dụ ngôn theo nhãn quan này, chúng ta
thấy rằng ông chủ đi phương xa, không phải là một hình tượng ám thị về Thiên
Chúa. Dụ ngôn cũng không khuyến khích chúng ta phải biết sử dụng của cải vật chất
Chúa ban để phát huy đến độ sung mãn. Điều này là một việc quan trọng mà các
Kitô hữu phải thực thi, khác với cách hiểu của đám đông khi nghe Chúa Giêsu giảng
lúc bấy giờ. Nén bạc, theo hạn từ Hy Lạp, không hề mang một ý nghĩa ẩn dụ hay
biểu trưng. Nếu hiểu sai, chúng ta sẽ làm mất đi chiều kích cánh chung nơi
trình thuật.
Theo mạch văn trong Tin Mừng Matthêu,
đây là dụ ngôn cuối trong ba dụ ngôn nhấn mạnh về sự trung tín của các môn đệ Đức
Giêsu trong thời gian mong chờ Ngài lại đến. Những người đầy tớ đang rên xiết
trong nỗi khiếp sợ mỗi lúc một tăng cao, khi họ sống dưới quyền một ông chủ keo
kiệt, một ông chủ dã tâm đã trừng phạt cách ác độc những ai không chịu đi vào hệ
thống làm giàu cho riêng cá nhân của mình. Trái lại, các môn đệ Đức Giêsu, khi
tín thác vào Thiên Chúa, vào đấng không phải là một ông chủ ác độc, nhưng là một
Người Cha tốt lành luôn yêu thương chúng ta bằng cõi lòng nhân ái và khoan hậu
của Ngài, chúng ta sẽ làm việc cho sự công chính và những giá trị của Vương quốc
Nước Trời, ngày hôm nay, và ngay bây giờ để chờ đợi sự viên thành cánh chung
mai sau.
4. Tôi tớ trung thành
Tất cả chúng ta đều là những người tôi tớ
của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã trao gửi. Những nén bạc ấy chính
là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm lại, là tất cả những gì
chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng thế, tất cả không phải là của riêng
chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta vay mượn trong
một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Những sự anh em có, há
chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao? Và nếu đã nhận lãnh, thì tại sao anh em lại
tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì thế, chúng ta không được toàn
quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng
hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè chén say sưa có hại
cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác mình, hay tự ý đi tìm cái
chết.
Với linh hồn, chúng ta phải cương quyết
chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng ta phải dứt
khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa,
nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa.
Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là một
ngày kia chúng ta sẽ phải tính sổ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng ta không
biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào
giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi
chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.
Thế nhưng, đó lại là một sự kện chắc chắn,
như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp
bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đã là người thì ai cũng phải chết.
Đó là qui luật chung của muôn đời. Và
sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật công bằng và
chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự đều được ghi
chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che dấu
nổi.
Chính vì thế, chúng ta phải quyết tâm
làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đã trao gửi, bằng cách thực
hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó chính là những vị trạng sư âm
thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước tòa án tối cao của
Thiên Chúa.
Đồng thời, bằng cách trung thành với những
công việc bổn phận của mình, tùy theo vai trò, tùy theo đấng bậc, tùy theo chức
vụ mình nắm giữ trong cuộc sống.
Và sau cùng, bằng cách sử dụng thời giờ
một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã được cân đo đong đếm. Hãy sử dụng
thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu chúng ta quản lý
tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút tính sổ cuộc đời.
Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định số phận đời đời của
chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến đâu chăng nữa, cũng sẽ lìa bỏ chúng ta,
chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng:
Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy
vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng
đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong khi đó anh bạn thứ
đã cùng đi với người ấy đến trước tôn nhan Chúa, trình bày những lý chứng và cứu
thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người bạn thứ nhất là tiền bạc vật chất.
Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. Còn người bạn thứ ba, luôn
trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động bác ái yêu
thương.
Hãy làm cho những nén bạc Chúa đã trao gửi
được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không phải
là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng vui và hạnh phúc.
5. Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn
Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người
chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt
25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu
độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người, và nếu
thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ không phải
là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của
ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều cần thiết; nhất
là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, đang muốn gởi tới
tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời sống Tin Mừng của
tôi.
Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới
đoạn Tin Mừng Luca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều
(xem Lc 7,36-50), trong đó Đức Giêsu khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên
là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của
chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được
tha ít thì yêu mến ít”.
Trước hết số yến bạc có là năm, hai, hay
một (NB: dụ ngôn này trong Luca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận được
một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19,11-27)
mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy thì, của cải
đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa
đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và nhiều điều khác nữa;
thế nhưng Kitô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ trao ban cho chúng ta một
thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu tha thứ, và nén bạc này thì
mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giêsu Kitô đã dùng cả cuộc đời Người
để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Kitô hữu tìm thấy chính là ‘ơn
cứu độ’ Chúa ban. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều tự biết mình đã nhận được số yến bạc
tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội và trong suốt năm tháng cuộc
đời, kẻ năm, người hai… tùy theo nhận định riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho
rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi. Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước
biết mình nhận được một số yến bạc nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc
khác; “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm
(hai) yến khác đây”, còn người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên
đào lỗ chôn giấu. Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được
tha ít (đúng hơn cho là mình được tha ít) thì yêu mến ít” (Lc 7,43.47). Thái độ
và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ,
tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế
tôi đâm sợ…”
Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ thứ tha, thì
cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa quá đòi hỏi
và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều
và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình
được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và đôi khi còn sống
trong sợ hãi. Đức Giêsu đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần tới độ một số
kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ vì họ cảm thấy
mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì tới lòng nhân
lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).
Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra trước
Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận ra
mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời
phán quyết của Ông Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được
giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng
niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã
nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm thấy mình được tha
quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một
ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ của đầy
tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã trong
sạch và không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây,
ông cầm lấy!” để rồi phải nghe phán quyết nghiêm thẳng của Con Người quang lâm:
hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và sử với nó theo đúng luật công bằng:
“hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc
lóc nghiến răng’, vì sẽ không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như
thế.
Kitô hữu sẽ là những người ngày cánh
chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28), không phải vì họ đã thánh thiện
và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì
mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”.
Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời Kitô hữu của mình
lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ
hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ
yên lòng ‘ngẩng đầu’ tiến đến trước mặt ‘Ngài Quan Án’ từ nhân, giầu lòng
thương xót, và hay thứ tha.
Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã
từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã
phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho
con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được
tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng
con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng
và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì chúng con
đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. Amen.
6. Bạn có sợ Thiên Chúa không?
Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là
Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi không tốt. Dụ ngôn ngày hôm
nay là một bài học nói về hai nỗi sự hãi này. Điều cốt yếu nằm ở trong cuộc đối
thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức người tỏ ra sợ hãi.
- Thưa ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi
sợ ông. Tôi đã đem đi giấu dưới đất cái mà ông đã giao cho tôi.
- A! Ngươi biết ta sao?
Điều bi đát chính là việc người đầy tớ
biết sai về ông chủ của mình. Cho nên một số tín hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị
quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người ta đừng gây sự với Ngài. Người đầy
tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài càng ít càng tốt và làm hết cách để
tránh những phiền toái.
Đó là sự sợ hãi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó
làm cho mình sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói điều này, nếu tôi nói điều
kia, điều gì sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn mình trong những điều chắc chắn:
điều gì có tính cách bó buộc?
Nhưng chúng ta đã chẳng nhận lãnh đức
tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng để
thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng, các hành vi của chúng ta và biết điều
gì làm Thiên Chúa vui lòng hay sao? Chúng ta chẳng có các bí tích để mạnh mẽ
đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả những điều đó đôi khi im lìm như một
kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến,
những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu tôi mất đức tin vào đó thì sao? Nếu tôi
để cho nhà của tôi bị xâm nhập thì sao? Nếu tôi không còn tìm ra thì giờ để cầu
nguyện thì sao? Nếu tôi không có trong tay đủ tiền bạc thì sao? Và nếu ông chủ
xét đoán tôi thì sao?
Còn biết bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn trọng
là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra những giả thiết như thế, điều mà
chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ còn là sự sợ hãi mà thôi. Như thế thì cuộc sống
Kitô hữu không nói gì về Chúa Kitô cả! Những người Kitô hữu ở trong một toà
nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan truyền, không gây ngạc nhiên, không
thu hút, thì đức tin đó đóng kén trong sự chờ đợi đầy sợ hãi và tầm thường. Văn
hào Soljenitsyne nói “Tất cả chúng ta bị mê hoặc chờ đợi điều gì đó đến riêng rẽ;
không, không có gì đén riêng rẽ cả”.
Các thánh không chờ đợi, các ngài nhận
biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương nhau, và cái nhìn vào Chúa biến các
ngài thành những nhà hoạt động và táo bạo. Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ
hãi đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi
sợ của thánh Vincentê Phaolô: “Ngài có thể làm gì hơn nữa? Người ta hỏi Ngài.
–Nhiều hơn thế nữa”.
Nhiều hơn thế nữa. Đó là điều mà ông chủ
chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hãi, chứ không phải là điều tối thiểu! Chúng ta được
trao ban một cuộc sống chứ không phải hai để sống Tin Mừng thực sự, để chứng tỏ
rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn chúng ta tin tưởng, hoạt động.
Ông chủ nói: “Khi trở về, tôi muốn thu lại
tiền của tôi cùng với số tiền lời”. Vào cuối cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa sẽ
nhìn xem điều gì đã phát sinh từ sự sáng tạo và tình yêu trong cuộc sống mà
Ngài đã giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất của người Kitô hữu chính là
không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh hoa kết quả cho đủ.
7. Nén bạc và những cố gắng
Hẳn rằng chúng ta đã hiểu được ý nghĩa dụ
ngôn về những nén bạc: Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài đã
trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng ta
phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang
hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng. Điều cần
thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của
chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố gắng
sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta?
Trước hết, sự cố gắng
sẽ đem lại những thành công về phương diện vật chất.
Thực vậy, như chúng ta thường nói:
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt thì chặt bị.
- Nước chảy đá mòn.
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Những thành công trên đường đời chỉ dành
cho những người biết cố gắng mà thôi. Một con chuột nhắt cứ cắn mãi cắn hòai
cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn gẫy
cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có ngày chọc thủng phiến đá. Chính vì
thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho những kẻ thông minh tài trí, nhưng
cho những người biết hành động hơn, biết chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn, như tục
ngữ đã nói:
- Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tiếp đến, sự cố gắng
sẽ đem lại những thành công về phương diện tinh thần.
Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên một người tài giỏi thì phải chăm chỉ
học hành. Khi tìm hiểu về những thiên tài trong lịch sử, người ta đã ghi nhận
chỉ có 5% là do khả năng trời ban cho, còn lại 95% là do sức cố gắng. Chính vì
thế, người Trung Hoa đã nói: Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri
lý. Viên ngọc mà không dũa không mài thì không thể trở thành đồ trang sức quí
giá. Con người cũng vậy, nếu không chịu khó học hành thì không thể nào biết được
lý lẽ mà cư xử. Thực vậy:
- Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dũng, cũng hoài ngọc đi.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: thay đổi được
một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là điều rất khó và đòi hỏi nhiều cố gắng.
Một ông bố quyết định từ bỏ rượu chè bằng
cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đều nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu.
Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy nến và ông ta chừa bỏ được tật nghiện
rượu của mình.
Đời sống là một cuộc giao tranh khiến
chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng. Sống trong cuộc đời, chúng ta
như người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn
trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng ta không cố gắng chống trả,
thì rồi chúng ta sẽ bị nhận chìm trong tội lỗi lúc nào cũng chẳng hay.
Sau cùng, trong phạm
vi thiêng liêng, mặc dù Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng
ta, nhưng không phải là đã xong xuôi, trái lại chúng ta còn phải tiếp tục cộng
tác với Ngài và ra sức chiến đấu không ngừng. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta
ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì chính Ngài cũng không thể cứu chuộc
chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.
Hãy tự cứu lấy mình,
rồi trời sẽ cứu. Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường
hợp, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong
ngày sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã làm được những gì, trái lại Ngài
muốn biết chúng ta đã chiến đấu như thế nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén
bạc Ngài đã trao gửi hay không?
8. Thiên Chúa chúng ta chịu trách nhiệm.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
– Achille Degeest)
Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc
sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ
ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và đầy hình ảnh, cố ý giúp người ta hiểu một
điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ về mỗi chi tiết, nhưng phải tìm bài học
toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số hình ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện hy
có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau, mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi
tiết của ý tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn các nén bạc đòi hỏi một cách hiểu toàn
thể để rút ra một bài học lớn. Không nên cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết
luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn trình bày như sau: người môn đệ phải
bày tỏ lòng trung thành tích cực phục vụ Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười
biếng đồng nghĩa với bất trung, Người Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự
trông đợi tích cực và có trách nhiệm. Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với người
làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần nhớ lại
Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài không
nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như những sự kiện thấy được để rút ra những
bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt ra một câu chuyện có thể tin được theo
lối sống và tập tục thời ấy và qua đó Ngài rút ra một giáo huấn. Chúa nhấn mạnh
ở điểm nào?
1) Ở sự nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt.
Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó. Không những số tiền trao cho họ khiến
nảy sinh ý thức trách nhiệm, nhưng tức thì gây nên ý muốn hành động. Hơn nữa họ
không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn lợi gấp
đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi người ta không được an thân trong sự bảo đảm
của cái đã có. Không có gì là thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy trì được cái
đang có bằng cách gia tăng nó lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế động. Không
ngơi nghỉ, không khép mình ở một mức tưởng đã đạt tới. Vì là một cuộc sống, nó
đòi hỏi phải tăng trưởng mà không mất đi những gì nuôi dưỡng nó. Nhanh nhẹn là ở
chỗ không mất thì giờ trong những điều khởi sự và không thối chí cố gắng liên tục.
2) Chúa nhấn mạnh về nguy hiểm của sự lười
biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người tôi tớ lười
biếng không làm mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông chủ nhưng anh
ta phạm lỗi lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười biếng tinh thần
cứ nghĩ Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ chấp nhận như vậy,
miễn là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như thế là xét sai vấn đề.
Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những gì cuộc sống chúng ta đã
làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức mến, trong hoạt động
(nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất trung. Điều chính
không phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy theo khả năng
khác nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người đã nhận nhiều, sẽ
phải trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực phát triển những ân
huệ Chúa đã giao phó.
Một câu hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là
Đấng có tình thương cứu độ vô biên và nhưng không lại đòi hỏi con người đáp ứng
tích cực? Vì Ngài không muốn cứu con người mà không có phần đóng góp của con
người. Ngài đã tạo con người có tự do, Ngài muốn con người có trách nhiệm. Đó
chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một tương quan yêu thương sao?
9. Hãy làm những gì Chúa muốn
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ –
Charles E. Miller)
Chỉ còn vài giây trong một trận bóng đá,
trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ bị
loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đã thay đổi lối
chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đã mất một cơ hội
để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đã buộc học sinh phải làm một
bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đã quyết định viết
một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.
Điều tốt hơn là làm những gì đúng hơn là
làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học được
rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó có
nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng chúng
ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên Chúa
muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong thánh
trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn thể những
người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm nói đến,
người đã được trao cho năm nén bạc.
Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không
có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé
chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những
người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng
ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi của
chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong tôn
giáo của mình. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đã được trao cho
không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.
Một người phụ nữ mà đời sống của bà
không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay, một
người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn “60
phút”. Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin tưởng trao phó
trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện trong tạp chí
“Dân chúng”. Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao lâu những người này biết
họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo Phúc âm, Thiên Chúa hài
lòng với người tôi tớ có hai nén, vì anh ta đã là lợi được hai nén khác giống
như người có năm nén đã làm lợi năm nén khác.
Điểm sai lạc là sống giống như một người
trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã chôn nó vào đất. Anh ta biện minh
rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều gì, hoặc
không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng ta có thể
phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại, nhưng ông
không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm việc.
Người chủ hiển nhiên là không cần những
nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm lợi
hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý muốn
của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn cho
chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến từ
Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả những
khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc ân,
nhưng chúng là một đặc ân được nhìn theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh quang của
Ngài, vì sự lợi ích cho dân của Người.
Thật sự trong một ý nghĩa chúng ta được
gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi vì bất cứ khi nào chúng ta làm bất
cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có vấn đề nào là nhỏ hoặc là tầm
thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra đó là một
điều rất lớn lao.
10. Nén bạc
Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC,
trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến
tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời. Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình
tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của
hình tam giác. Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên. Khi chúng
ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ
lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác. Chúng ta
sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi
như quan trọng hơn ở trên. Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam
giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi. Kết quả là, chúng ta
sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi
sự?” Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư
cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc
âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban
cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển
trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình
và mục đích của Ngài.
Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy
sinh cho chương trình của Ngài. Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong
cuộc sống của chúng ta.
Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi
người với những tài năng riêng của mình. Người thứ nhất có tài trồng cây ăn
trái. Người thứ hai chăn nuôi cừu. Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất
hay. Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài. Trước khi ra
đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân
chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.
Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng rồi
mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có. Không còn đủ củi cho dân
chúng sưởi. Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó
khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không? Khi nhìn
thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ
làm.
Người con thứ hai cũng đã phải đối diện
với một quyết định khó khăn. Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa
đông. Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực
không? Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết
đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.
Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu
để ăn trên bàn. Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài. Tinh thần
của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được.
Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối
không muốn chơi đàn cho họ nghe. Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều
người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.
Đến một ngày, nhà vua trở về nước. Ông
vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi. Ông gọi ba người con
lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha,
con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã
cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi”. Người con thứ hai
nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan
hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con”.
Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm
lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ. Rồi người con thứ ba tiến đến với
cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi
vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân
chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!”
Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con,
hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát”. Người con cầm
cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở
nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập. Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể
nào nhúc nhích được những ngón tay. Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm
cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không
làm. Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con. Nhưng bây giờ
chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữa. Đó chính là hình phạt cho
con vậy”.
Để sống một cách phong phú hơn chúng ta
phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc,
ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc. Một nén bạc tương đương với 15 năm
lương của một người lao động suốt ảc ngày. Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là
“talent”, lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt
sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng
rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức
tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn… Những tài năng này đã được
ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư
để làm cho chúng sinh hoa kết quả.
11. Nén bạc
Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002, trong
mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene Smith 65 tuổi, “Một người mê sách: kẻ
cứu tinh của một nền văn học”. Nhờ mê sách mà ông cứu vớt nền văn học của Tây Tạng.
Ký giả Barbara Stewart của báo New York Times đã gọi ông già Smith là người cứu
tinh của nền văn học Tây Tạng. Ông Smith đang sở hữu một kho tàng văn chương
Tây Tạng mà ông sưu tập được từ 37 năm nay. Theo ước tính, ông hiện có khoảng
12 ngàn tác phẩm văn chương Phật giáo và văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo của
Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh giá công trình sưu tập văn chương của ông là
công trình to lớn nhất ở phương Tây và có thể lớn nhất thế giới.
Thế nhưng sự nghiệp này đã được bắt đầu
rất đơn giản. Lý do đưa ông đến việc nghiên cứu văn chương Tây Tạng là hồi chiến
tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được hoãn dịch bằng cách học một trong những
ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau đó, ông đã học triết lý và quan điểm về
thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt ma Deshung. Lạt ma Deshung là một người
mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang Smith khiến ông trở thành một người mê
sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng, ông du hành qua An Độ để sưu tầm sách.
Mặc dù văn chương Tây Tạng đã có lịch sử
cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là một
nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết đến nền văn minh này. Trên thế giới
không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả những thư viện lớn nhất thế giới. Lý
do là vì người Tây Tạng không biết in sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép
tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng.
Đã thế mỗi một trong 4 tông phái Phật giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương
riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc
xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi, cuốn còn, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang
ra ngoại quốc thường do những người tỵ nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn
mang sang An Độ. Tìm hỏi cho ra người mang sách đã là việc khó, lại còn phải biết
sách nào quan trọng trong các tông phái chính đòi hỏi phải có kiến thức và sự
nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để khắc phục những khó khăn trên, ông
Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục, tra cứu, tham khảo với các vị lạt
ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở An Độ cũng như Nepal để săn lùng
sách. Trong quá trình làm việc như thế kiến thức của ông Smith trở nên phong
phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu động của văn phòng thư viện đặt tại
New Delhi, Indonesia và Cairo. Hiện nay ông đang
dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá “Rubin Cultural Trust” hứa
sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang tồn trữ và hàng trăm cuốn
sách mới khác vừa được tìm thấy gần đây mà người ta tưởng rằng đã bị phá hủy.
Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền văn học, quả không có gì
quá đáng!
Sự tiêu cực và bi quan đã bóp méo hình ảnh
của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác. Đây là thái độ của người đầy tớ thứ
ba.
Một người cha sắp sửa lên đường đi làm
ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để xây cho ông hai căn nhà. Người con đầu
tiên đã dùng tất cả số tiền được trao phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt đẹp,
sang trọng. Còn người con thứ hai nhìn thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền
riêng cho mình, hắn dùng những vật liệu xây cất rẻ tiền, và xây cho cha một
ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về, để làm quà thưởng cho các con,
ông nói “Để trả công cho các con, cha cho mỗi con chính căn nhà mà các con đã
xây cho cha, hãy đưa gia đình các con vào ở trong căn nhà đó”.
Sự ích kỷ và lười biếng của người đầy tớ
thứ ba đã làm cho anh có cái nhìn tiêu cực và bi quan về thiện ý của chủ rồi dẫn
tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.
Thiên Chúa chúng ta tờ phượng là một
Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến sự sống là nói đến sự sinh trưởng,
phát sinh hoa trái. Vì chính Ngài là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên vũ trụ và phán:
“Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có
trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với con người rằng: “Hãy sinh sôi nẩy
nở…” Do đó không tăng trưởng
là dấu hiệu của sự hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại
thánh ý của Thiên Chúa và gây tai hại cho chính bản thân mình.
Chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay,
William Barclay đã viết: “Thiên Chúa không muốn những con người phi thường làm
những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm những
việc bình thường một cách phi thường”.
Chúa Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta về
những nén bạc, tài năng, ơn lành đã được Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị xếp
vào loại người đầy tớ nào?
12. Hãy dùng thời gian để yêu thương
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là Khởi
Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời
gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa
hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì ngàn năm đối với
Chúa như một ngày.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời
gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của
các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang
lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã,
Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng
những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch
sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một
Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính.
Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối
dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô lịch sử sẽ được
hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi,
nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu
còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Ngài. Ngài
là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người đạt tới
sự sống viên mãn.
Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử
trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc,
các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị,
các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt
siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch
sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân
sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng
ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập
lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của
vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung
cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở
lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được
hoàn tất trong Ngài.
Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm,
tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48),
Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô
(Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17).
Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26,
64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39 - 40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ
đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ
"như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1 - 3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa
đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể
nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33 - 37; Lc 17, 22 - 37; 21, 35)
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu
tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét
chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán
xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới
(Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối
ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy
các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người không
phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập
trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của
Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện
minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong
ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của
mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh
Gio-an còn định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Thiên Chúa là thời
gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu
và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở
thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó
những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm
vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống
trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên kêu
mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn mô tả
người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi
tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn
Thê-xa-lô-ni-ca đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo
sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân
đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa
ban. Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài
năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống
như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có
trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác.
Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc,
sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét
xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực
thi đối với anh chị em mình.
Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình
yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu,
yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy
biết Thiên Chúa. Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn
sức mạnh
Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự
khôn ngoan
Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội
để giúp người khác
Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của
tâm hồn
Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo
những gì thuộc về tương lai
Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội
để gặp Chúa
Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là
món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức
mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời
Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ
trong tình yêu.
13. Nhận nhiều thì bị đòi hỏi nhiều – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho
rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có
phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công thì phải giải thích sự
bất bình đẳng này ra sao?
2. Người được nhiều thuận lợi có trách
nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách nhiệm thế nào?
3. Thiên Chúa phán xét con người dựa
trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức độ
nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, sự phân
phối những điều tốt đẹp không đồng đều
Không ai có thể chối cãi điều này: trên
đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính tình, khuynh hướng, khả
năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v... Đúng như cổ nhân nói: “Bá
nhân bá tánh”, “chín người mười ý”... Và ngay trong từng phương diện, người ta
cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng ai, y hệt như: “Bàn tay ngón
thấp ngón cao”. Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới con người.
Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế.
Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải chăng những người có tài đức hơn
người, có nhiều điều kiện phát triển hơn người, giàu có hơn người… thì được lợi
hơn những người khác?
2. Ai nhận được nhiều
thì bị đòi hỏi nhiều
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên
Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít,
thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giêsu đã từng nói: “Hễ ai đã được cho nhiều
thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc
12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi
cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho
mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều
thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an
ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được
ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ
cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.
Những ân huệ ta nhận được cũng như món
tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi
năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả số
lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi suất là 10% một năm (tức 0,83%
một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu
vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà
không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không có tiền để trả lãi, và vay
càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi thì càng nguy hiểm. Vì tới kỳ
hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết
thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi,
thì vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân
gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều
thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu không làm cho chúng sinh lợi thì rất
có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.
3. Hãy ý thức trách
nhiệm về những thuận lợi mình đang hưởng
Vậy chúng ta hãy tự xét xem chúng ta được
Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử
tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v... Chúng ta thường hãnh diện,
tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm
vì được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn
người, người Kitô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.
Những thuận lợi đó phải được đem ra làm
ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được
quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên
ta không thể tránh được hình phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà
không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có tình yêu, và như thế là ta
không có Thiên Chúa trong chúng ta: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em
mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên
Chúa ở lại trong người ấy được” (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà
Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta “ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai
có gì ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11), thì về mặt tinh thần, Ngài còn đòi hỏi
chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. Vì sự chia sẻ vật chất thì rất giới hạn,
còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới hạn hơn rất nhiều.
4. Đừng vội tự hào
hay kiêu hãnh về những thuận lợi của mình
Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét
theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đã đạt được,
mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa
ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta không
phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để làm ích
cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ được Ngài
ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3
yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi là công
chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công bằng thật sự.
Vì thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn người,
làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn người.
Coi chừng kẻo lầm to: “ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”
(1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của mình hơn người khác mà kết
luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả mình làm được với những
thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đã tương xứng chưa: “Mỗi người hãy
xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với người khác” (Gl
6,4).
Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người
sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo
dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do
cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã trở
thành một người khá lương thiện. Còn người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh,
được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được
mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã hội hay Giáo
Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là
công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy
nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ
hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn
hơn phần thưởng cho người thứ hai.
Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa
khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đã từng nói với các các thượng
tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo đức:
“Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”
(Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người tội lỗi ấy đã cố gắng vươn lên sự
thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi Gio-an Tẩy giả và
Đức Giêsu đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đã sám hối và tin theo ngay!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng vì được
Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đã hãnh diện và tự hào với
những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy mình thật dại dột,
vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người kém may
mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại trở thành
những gì gây bất lợi cho con. Xin cho con ý thức được trách nhiệm của con đối với
họ.
14. Nhu cầu
Trước hết, tài năng cần được phát hiện
và thừa nhận. Người ta nói rằng nơi sinh thực sự của chúng ta là nơi mà, chúng
ta được đánh thức những năng khiếu và tài năng của mình. Thông thường, cần có một
người bên ngoài nhận ra tài năng của chúng ta.
Tương tự như mặt trời làm trổ sinh những
bông hoa thơm ngát còn đang nằm ẩn bên dưới lòng đất ở những cánh đồng, cũng vậy,
có những người tìm kiếm cách hoàn thành nhiệm vụ, bằng cách giúp cho những tài
năng nơi người khác được bộc lộ ra. Có lẽ đây là những người có tài năng nhất.
Dostoevsky, một văn sĩ người Nga, đã viết
tác phẩm Người Khốn Khổ, năm ông chỉ mới lên 20 tuổi. Belinsky là một nhà phê
bình lỗi lạc nhất thời nay. Khi Belinsky đọc bản thảo của cậu thanh niên
Dostoevsky, ông nói “Cậu đã làm cho chúng tôi chú ý đến một sự thật khủng khiếp.
Cậu có một tài năng vĩ đại. Hãy chăm sóc cẩn thận tài năng này, rồi cậu sẽ trở
thành một nhà văn lớn”.
Dostoevsky đã say sưa với những lời nhận
định của nhà phê bình nổi tiếng này. Nhiều năm sau, ông viết “Đó là một giây phút
hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời của tôi”.
Tại sao giây phút đó lại quan trọng đối
với Dostoevsky đến thế? Bởi vì Belinsky đã thực sự làm chỗi dậy tài năng viết
văn của ông. Ông vẫn còn đang chưa chắc chắn gì về bản thân mình, và do đó, rất
dễ bị tổn thương. Sự phát hiện của Belinsky đã xác nhận được nơi ông niềm tin
tưởng về tài năng của mình. Hơn thế nữa, điều này đã thúc đẩy ông tiến tới trên
đường đời. Thông qua các tác phẩm của ông, ông đã sử dụng cả cuộc đời để diễn tả
về bản thân mình.
Một trong những nhu cầu lớn nhất của
chúng ta là tự diễn tả về bản thân mình. Chúng ta không thể nào thể hiện hoặc
phát huy hết năng lực bản thân, trừ phi chúng ta tự diễn tả về mình. Sự tự diễn
tả cần thiết đối với chúng ta, tựa như hoa lá cần thiết cho một thân cây. Thi
sĩ và nghệ sĩ Kahil Gibran đã nói về điều đó như sau: “Trong hầu hết mọi người,
đều có một nỗi cô đơn lớn lao – một niềm khát vọng được tự diễn tả về bản
thân”. Và họa sĩ Van Gogh nói “Giữa điều mà tôi nhận thức và điều mà tôi diễn tả,
có một bức tường ngăn cách; tôi đã trải qua cả cuộc đời mình để tìm cách phá bức
tường đó”.
Diễn tả về bản thân là một cách thức sống
trọn vẹn con người của mình, và từ đó, trở nên thánh thiện. Liệu có bao nhiêu
người trong chúng ta có thể nói rằng mình đã phát triển đầy đủ các tiềm năng của
mình, với tư cách là những con người? Tất nhiên là người ta có thể tự diễn tả về
bản thân bằng nhiều cách thức. Tuy nhiên, người ta lại có thể bộc lộ ra rất nhiều
tài năng của mình. Khi điều này xảy ra, chính sở hữu chủ của tài năng là người
bị mất mát nhiều nhất. Một số người cứ sống trôi nổi cả cuộc đời mình, rồi đã
chết đi, mà vẫn không thể hiện ra, dù chỉ một đôi chút tiềm năng của họ.
Sự diễn tả trái ngược hẳn với sự ngăn chặn.
Ngăn chặn là kiềm chế, đè nén, giấu giếm, ức chế. Sự ngăn chặn không tránh khỏi
tình trạng phát sinh ra sự trầm cảm. Diễn tả là nói rõ ràng ra, là bộc lộ, thể
hiện mình… Sự diễn tả có thể lôi kéo theo nỗi đau, nhưng cuối cùng, lại đưa đến
niềm vui.
Chính bằng lối sống đó, mà chúng ta phát
hiện ra những tài năng của mình, và chính bằng cách sử dụng chúng, mà chúng được
phát triển. Mỗi tài năng cần phải được phát triển. Nếu một tài năng cần phải
mang lại hiệu quả đầy đủ của nó, thì người ta phải biết chịu khó làm việc, sống
kỷ luật và kiên nhẫn. Chúng ta nhận thấy điều này ở người đầy tớ thứ ba trong dụ
ngôn của Đức Giêsu.
Trong trường hợp người đày tớ thứ ba,
chúng ta nhận thấy có sự trái ngược. Không phải do tính khắt khe của ông chủ,
đã ngăn cản anh ta không sử dụng được những nén bạc của mình – đó chỉ là lý do
biện hộ. Anh ta cũng không thiếu cơ hội. Bản thân anh ta đáng bị khiển trách,
do tính lười biếng, hèn nhát và ích kỷ.
Cuộc sống là quà tặng của Thiên Chúa đối
với chúng ta. Chúng ta làm được gì cho cuộc đời, đó chính là quà tặng của chúng
ta đối với Thiên Chúa.
15. Dụ ngôn các nén bạc – Lm. PX. Vũ Phan Long
Người đầy tớ trung thành là người không
những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh
thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ
có thể chờ đợi nơi họ.
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ
ngôn Những nén bạc” (Mt 25,14-30) được đặt trong ngữ cảnh là chương 24–25. Các
chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của Tin Mừng I, ngay trước bài tường
thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Câu truyện đặt đối diện hai nhân
vật: một ông chủ và các đầy tớ. Ở đây giống như trong dụ ngôn mười trinh nữ, có
những đầy tớ “tốt” và những đầy tớ “xấu”. Khi ông chủ trở về, người ta không
còn có thể thay đổi tình thế được nữa, mà phải chấp nhận vĩnh viễn tình thế ấy.
Tuy nhiên, ở ngay chỗ bắt đầu bản văn,
có từ “bởi vì” (gar). Từ này nối bài dụ ngôn với câu trước là 25,13 và làm cho
bài dụ ngôn này nối với bài trước như sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em
không biết ngày nào, giờ nào. Bởi vì cũng như có người kia sắp đi xa…”. Vậy bài
dụ ngôn biện minh cho việc phải “canh thức/tỉnh thức”. Dĩ nhiên, Mt không hiểu
từ ngữ này theo nghĩa chữ, nếu không ngài đã chẳng dùng lời khuyến cáo này làm
câu kết cho một dụ ngôn trong đó các trinh nữ đều đã ngủ cả. “Canh thức” là ở
trong tư thế luôn “sẵn sàng” đối với cuộc Phán xét, mà mình không biết ngày giờ.
Nếu dụ ngôn Các nén bạc nói về “canh thức”
thì phải có những ý tưởng liên hệ tới đề tài này. Chúng ta thấy ở c. 19, tác giả
cho biết rằng ông chủ trở về “sau một thời gian lâu dài”. Chi tiết này tương tự
chi tiết của bài trước: “vì chú rể đến chậm…” (25,5); chi tiết này lại nhắc đến
một chi tiết có trước trong dụ ngôn Người đầy tớ trung tín, trong đó người đầy
tớ nói: “Còn lâu chủ ta mới về”
(24,48). Những câu này nêu ra vấn đề các Kitô hữu đang phải đương đầu vào cuối
thời các tông đồ do cuộc Quang Lâm đến chậm: Đức Kitô chậm trở lại như thế, có
thể khiến các Kitô hữu thất vọng (x. 2 Pr 3,4), sẽ mất sự bền bỉ. Do đó, cần phải
nhấn mạnh đến đề tài “canh thức” với các sắc thái khác nhau của đòi hỏi này. Mt
diễn tả bổn phận canh thức qua các tĩnh từ dùng cho các đầy tớ: “tài giỏi và
trung thành”, hay là “tồi tệ và biếng nhác”.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Giới thiệu các nhân vật và chủ đề
(25,14-18):
a) Ông chủ giao tiền trước khi ra đi
(cc. 14-15),
b) Thời gian giữa thời điểm ông chủ ra
đi và trở về (cc. 16-18);
2) Tính sổ với ông chủ (25,19-30):
a) Câu mở (c. 19) và Cảnh người đầy tớ tốt
thứ nhất (cc. 20-21),
b) Cảnh người đầy tớ tốt thứ hai (cc.
22-23),
c) Cảnh người đầy tớ xấu (cc. 24-30. Hoặc:
Người đầy tớ xấu: cc. 24-28; Nhận định chung kết: cc. 29-30).
3.- Vài điểm chú giải
- nén bạc
(15): Một talanton Israel
khoảng 35kg bạc (x. Xh 25,39; 1 V 9,14…), còn một talanton Hy Lạp (x. 1 Mcb
11,28; 2 Mcb 3,11; Mt 18,24…) thì khoảng 21-26kg. Ngoài các nghĩa tượng trưng
đã được gán cho “nén bạc” (khả năng, các trách nhiệm, thì giờ, các của cải…), ý
nghĩa của “nén bạc” tương ứng nhất với Tin Mừng Mt là “Tin Mừng”, hoặc tốt hơn,
là sự hiểu biết mỗi người có về Tin Mừng (c. 15: “tuỳ khả năng riêng mỗi người”).
Sự hiểu biết này phải được chuyển thành hoa trái phục vụ và bác ái đối với người
khác. Nói chung, có thể cho rằng một nén bạc bằng 10.000 quan (một quan là công
một ngày làm việc).
- được giao ít mà anh
đã trung thành (21.23): Lời khen này có thể khiến độc
giả nghĩ đến những gương mẫu trong quá khư, như Môsê hoặc Đavít: lúc đầu Thiên
Chúa đặt các ngài chăn dắt các đàn vật trước khi giao cho các ngài những nhiệm
vụ lớn lao hơn.
- niềm vui
(21.23): Hẳn đây là niềm vui hai người đầy tớ tốt cảm nhận khi được vào hưởng bữa
tiệc thiên sai, chứ không phải là niềm vui của ông chủ cảm nhận do lý do gì ta
không biết.
- Vì phàm ai đã có,
thì được cho thêm (29): Công thức có lẽ là một câu tục ngữ
(x. 13,12), hoặc một câu nói của Đức Giêsu đã bị tách khỏi ngữ cảnh, được Mt đặt
ở đây. Câu này tóm dụ ngôn rất khéo: vào ngày Phán xét chung (bản văn Hy Lạp là
“sẽ được ban cho” là một công thức ở thái bị động tuyệt đối, để nói về hành động
của Thiên Chúa, và động từ ở thì tương lai gợi đến một hành động cánh chung của
Thiên Chúa), ai có, tức là đã trung thành trong những chuyện nhỏ của cuộc sống
trần thế, sẽ nhận được một phần thưởng lớn; còn kẻ nào không có gì, tức đã bất
trung hoặc lười biếng, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
- chỗ tối tăm bên
ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng (30): Hình
phạt này chỉ có thể là cuộc trầm luân đời đời (x. Mt 22,13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân
vật và chủ đề (14-18)
Dụ ngôn bắt đầu với từ hai từ nhỏ đáng
chú ý: “cũng như”
([h]ôsper) và “bởi vì” (gar, “vì chưng” [NTT]; “quả thế” [CGKPV]). Với từ “cũng như”, bài dụ ngôn mới này dường như liên kết
với c. 13 nói về canh thức. Còn với “bởi vì”, bài này triển khai câu cuối của dụ
ngôn trước (25,13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ
nào”). Thật ra, cả bài nhắc nhớ đến các truyện Đức Giêsu đã kể trước đây: truyện
Tên mắc nợ không biết thong xót (18,23-35: các từ có chung là “các yến vàng”,
“tính sổ”)
và nhất là truyện Người đầy tớ trung tín (24,45-51: các từ có chung là “đầy tớ
trung thành”, “đặt lên”/”giao [nhiều]”, “ông chủ [các] tên đầy tớ ấy”, ở đó, sẽ
phải khóc lóc nghiến răng”).
Mọi chuyện xảy ra giữa ông chủ và các
tôi tớ. Ông chủ chuẩn bị đi xa, đã ký thác công việc quản lý tài sản ông cho
các đầy tớ. Trong thời gian ông đi vắng, các đầy tớ này phải vận dụng khả năng
mà làm cho số bạc đã nhận sinh lãi. Như vậy, các tôi tớ này không tự do và độc
lập, nhưng họ ở trong một tương quan lệ thuộc và phục vụ. Họ thuộc về ông chủ;
những gì được ký thác cho họ là của cải của ông chủ và những gì họ làm sinh ra
từ đó là sở hữu của ông chủ. Họ bị ràng buộc với chủ nhiều cách.
Nhân vật chính là một ông chủ giàu có,
nhưng dù vậy, ông không muốn để cho vốn của ông nằm đó, càng không muốn cho các
đầy tớ của ông chỉ biết nằm ngủ. Dường như điểm sau này là mối quan tâm chính của
ông. Với tám nén bạc, ông có thể tự mình đưa đến ngân hàng hoặc đầu tư cách nào
khác; ở đây ông lại muốn giao phó số bạc cho các trung gian. Ông đã bỏ một lối
xử sự đảm bảo hơn, như ông cho biết trong mẩu đối thoại với tên đầy tớ biếng
nhác, mà chọn lấy một cách phiêu lưu hơn, mục đích chỉ để họ chứng tỏ sự cần mẫn
(c. 27) và chịu khó. Nét bất thường này cho thấy rằng mục tiêu đầu tiên của ông
không phải là lợi nhuận nhưng là xem xét các khả năng, sự sẵn sàng, óc sáng kiến
nơi các thuộc cấp. Nhưng cách làm ấy cũng chứng tỏ ông tin vào thiện chí của họ.
Ông không muốn họ chỉ là những kẻ lệ thuộc, nhưng là những cộng sự viên có
lương tâm. Để thẩm định óc sáng tạo và chuyên chăm, ông không xác định cách thức
họ phải theo. Mọi sự được phó mặc cho chọn lựa của họ. Nếu ông phân phát các
nén bạc tùy theo khả năng của từng người, là để cho mọi người có cơ hội làm ra
một năng suất tối đa, chứ không phải là thiên vị người này hơn người kia. Lời
nhận xét của người đầy tớ vô tích sự: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà
khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” (c. 24) xác nhận cách xử sự của
ông chủ và hơn nữa việc ông tín thác công việc cho các cộng sự viên. Lẽ ra biết
ông chủ là người nghiêm khắc, người đầy tớ càng phải ra sức mà làm việc, thay
vì ươn ái bất động như thế!
Hai người tôi tớ tốt bắt tay vào việc tức
khắc. Họ sử dụng của cải đã được giao cho họ theo cách tương ứng với ý muốn của
ông chủ. Họ tuân theo các mục tiêu của ông và bảo vệ của cải lợi lộc cho ông.
Cách làm của họ đã đưa lại hoa trái dồi dào.
Người tôi tớ thứ ba mang yến bạc đến trả
lại cho chủ, không hơn không kém. Ngay từ đầu, anh đã có một tương quan sai lạc
với chủ. Anh ta thấy ông là một con người cứng rắn, anh trách ông là gặt chỗ
không gieo, và anh sợ ông (25,24t). Anh nhìn nhận mình lệ thuộc ông, nhưng
không quy phục ông với lòng tin tưởng và cần mẫn. Anh cảm thấy sự lệ thuộc của
mình gay go và áp bức và tức giận với ông như đối với một kẻ bóc lột bắt kẻ
khác làm việc cho mình và sống nhờ công lao của những kẻ khác. Do đó, anh từ chối
phục vụ và không hành động theo ý muốn của chủ. Anh không phung phí của cải được
giao và không tiêu xài cho mình. Anh chỉ để nó ở đấy không sinh lợi và trả lại cho
chủ y như đã nhận. Những lời nói của anh chao đảo giữa sự nghi ngờ, phản đối và
sợ hãi. Anh bị kết án không phải bởi vì anh đã không đạt được con số như các đồng
nghiệp, nhưng bởi vì anh không vận dụng một sáng kiến nào cả, dù là việc dễ hơn
như bỏ số bạc vào ngân hàng (dễ hơn cả việc đào lỗ chôn giấu énn bạc của chủ!),
dễ nhưng phiêu lưu hơn, nên cũng nặng trách nhiệm hơn. Lỗi của anh là đã chôn
giấu một của cải tự nó phải sinh lời.
* Tính sổ với ông chủ
(19-30)
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở về
và gọi các tôi tớ đến tính sổ. Cảnh tính sổ với ông chủ được chia thành ba hồi
nhỏ: Ba người đầy tớ đến gặp chủ, mỗi người nói ra cách mình đã làm với số bạc
của chủ và nghe ông đánh giá.
Trường hợp hai người đầu thì hoàn toàn
song song: người đầu như thế nào, thì người thứ hai như vậy (mỗi người được
dành cho 2 câu); người thứ ba được đặc biệt lưu ý (anh được dành cho 7 câu, hoặc
ít ra là 5 câu, nếu tách cc. 29-30 ra như là phần thêm vào sau). Về phương diện
văn chương, bốn câu dành cho hai người đầu làm thành một đơn vị văn chương được
dùng làm đối trọng cho người đầy tớ thứ ba. Như vậy, trong thực tế, chúng ta có
một phép đối ngẫu: điểm giáo huấn quan trọng nằm trong sự tương phản giữa hai
người đầu với người thứ ba. Trong một dụ ngôn có đặc tính đối ngẫu như thế, điểm
nhấn luôn nằm nơi vế thứ hai của thế đối ngẫu (x. các dụ ngôn trong các Tin Mừng
và Tl 9), vế thứ nhất chỉ nhằm làm rõ vế hai mà thôi.
Họ đã báo cáo lại cho chủ đầy đủ và được
ông không tiếc lời khen ngợi. Ông nhìn nhận họ là những tôi tớ tốt lành và
trung tín. Một tôi tớ tốt lành thì chấp nhận trọn vẹn vị trí của mình và ra tay
phục vụ chủ. Người ấy không theo các ý riêng hoặc các cảm hứng riêng, không
tránh né chủ, nhưng tự đồng hóa với các mục tiêu và quyền lợi của chủ. Một tôi
tớ tốt lành thì ân cần chăm sóc của cải đã được giao phó cho mình với lương
tâm. Sau khi hai tôi tớ đã được thử thách, ông chủ có thể giao phó cho họ các
nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông mời gọi họ đến niềm hạnh phúc viên mãn: “Hãy vào mà
hưởng niềm vui của chủ anh!” (25,21.23). Tin Mừng rất thường nói đến việc “đi
vào Nước Trời” (x. 5,20; 7,21; 18,3), “vào trong cõi sống” (18,8t; 19,16) và
bây giờ “vào trong niềm vui”. Những ai trung tín thì được chấp nhận cho thông
phần Nước Trời, nghĩa là được sự sống viên mãn và niềm hạnh phúc vô tận. Ông chủ
không đẩy các tôi tớ ra xa, nhưng chấp nhận họ vào trong môi trường sống của
ông, trong cuộc sống hạnh phúc viên mãn của ông. Chúng ta không thể đạt tới mục
tiêu này và mức sống viên mãn nhờ dựa vào sức riêng, hoặc nhờ đi qua một nẻo đường
chọn riêng, nhưng chỉ nhờ phục vụ Chúa. Hai người tôi tớ nhận được phần thưởng
như nhau, phần thưởng này không được xác định bởi mức độ đóng góp của họ, nhưng
bởi mức độ là sự chuyên cần và trung tín.
Còn kiểu tính toán của người đầy tớ cuối
cùng là một tính toán sai lầm; trong khi anh tưởng được yên thân khỏi bị quy
trách, anh đã làm hại quyền lợi của ông chủ. Anh trả lại “nguyên xi” nén bạc đã
nhận, nghĩ rằng như thế là “cân bằng thu chi”: anh vừa lười biếng lại vừa ngu
ngốc. Ông chủ gọi anh là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác (c. 26), một kẻ đã hoàn
toàn làm hỏng cuộc đời của chính mình và lệnh truyền đã nhận. Bởi vì anh đã
tránh né chủ, bây giờ ông chủ cũng tránh né anh. Ông không cho anh vào hiệp
thông đời sống với ông, nhưng cho quăng anh ra ngoài, nơi đó không có niềm vui,
nhưng chỉ có khóc lóc vì đau đớn và nghiến răng vì giận dữ vì sự hư hỏng chính
mình đã gây ra cho mình (x. 8,12). Đây là một cuộc sống trong tối tăm, trong sợ
hãi và tuyệt vọng.
+ Kết luận
Cho dù cuộc Quang Lâm có đến chậm, các Kitô
hữu cần phải luôn “canh thức” với ý nghĩ là cuộc Phán xét sẽ đến và lối sống của
họ sẽ bị thẩm định để xem có được vào hưởng niềm hoan lạc hay không. Sự canh thức
này cũng đồng thời là sự trung thành chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó, tức
là tất cả các bổn phận thuộc đời sống Kitô hữu. Xét như thế, bài này có những
liên hệ với bài dụ ngôn Người đầy tớ trung thành (24,45-51). Người đầy tớ trung
thành là người không những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo
mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều
hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn,
chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta
không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Người mà đến. Tuy
nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên
Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có
thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn
nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu
chu toàn ý muốn của chủ.
2. Thiên Chúa dùng các cộng sự viên để
thực hiện các kế họach của Ngài. Ngài không tự mình làm nhưng nhờ trung gian
các người thân tín. Những người này cần phải nhận ra cách xử sự như thế của
Thiên Chúa là một vinh dự cho mình, để mà ra sức quảng đại đáp lại sự chờ đợi của
Người. Đời sống Kitô hữu không phải là một nếp sống tĩnh hoặc nghỉ ngơi thoải
mái.
3. Không phải chỉ tránh sự dữ là đủ; còn
cần phải vận dụng tất cả các năng lực và chính đời sống mình mà làm điều thiện.
Ơn gọi Kitô hữu là một số vốn bấp bênh; đây không phải là một món tiền chết,
nhưng là một quà tặng phải được làm cho sinh lời với óc khôn ngoan, chăm chỉ và
tình yêu. Mỗi Kitô hữu phải lấy tinh thần trách nhiệm và can đảm mà làm việc.
4. Thời gian hiện tại là nhà băng thử
thách để đưa tới định mệng tương lai. Ai đã chứng tỏ mình biết dấn thân làm việc
sẽ được giao phó cho một hoạt động cao hơn; ai ươn ái và lười biếng sẽ mất cả số
vốn của mình và thậm chí bị loại khỏi Nước Trời.
5. Chúng ta chỉ có một cách đạt tới cùng
đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý
Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không
thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng
và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ
đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ
hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn
nhiệm vụ của chúng ta.