CÁC
BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG B
26. Hãy canh thức...
catholic.org.tw
27. Kêu xin và
chờ mong Chúa đến Lm
Carolo Hồ Bac Xái
28. Mong đợi
ngày Chúa đến Lm
Giuse Đinh lập Liễm
29. Câu chuyện tỉnh
giác Lm.Jos
Tạ Duy Tuyền
30. Hãy tỉnh thức
và chu toàn công việc Lm.
Phêrô Lê văn Chính
32. Những cuộc
vi hành của Đức Kitô Achille
Degeest
37. Video Thánh
Vịnh 79 Nhóm thánh vịnh Nauy
1. Hãy tỉnh thức
Năm phụng vụ mới bắt đầu
bằng một lời cảnh báo: Hãy tỉnh thức. Chúng ta không còn ở trong
thời kỳ chờ đợi Chúa giáng sinh làm người, dù rằng năm phụng vụ mở đầu với mùa
vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Trái lại chúng ta đang ở trong thời kỳ
chờ đợi Chúa đến hoàn tất công trình cứu độ nơi mỗi người, cũng như nơi toàn thể
nhân loại.
Hãy tỉnh thức, đúng thế,
người Kitô hữu phải chăng là người luôn sống cái mặc cảm coi thế gian và cuộc sống
chỉ là một chuỗi những cạm bẫy sẵn sàng nhận chìm chúng ta trong hư đốn? Không
phải là như vậy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu và của Giáo Hội ngày hôm nay bao gồm
một cái nhìn lạc quan về lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu đã có đó. Tội lỗi đã bị
án diệt vong. Sự chết đã bị đánh bại, còn mầm mống sự sống mới cứ mỗi ngày một lớn
mạnh.
Hãy
tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái
mới mẻ ấy để có thể nhập cuộc. Bà con trong thôn ấp được kêu gọi tu sửa đường
xá cho việc đi lại được dễ dàng. Các em học sinh tham gia phong trào tiết kiệm để
có tiền giúp đỡ các bạn cùng lớp, cùng trường gặp tai ương hoạn nạn. Người đi
buôn, không nói thách, không bán đồ giả, không dùng cân thiếu và thước hụt. Phải
tỉnh thức và thấm nhuần tinh thần Phúc Âm để có thể nhận ra sự lớn mạnh của trật
tự xã hội mới.
Trong Phúc Âm cũng như
trọn cuộc sống, chúng ta có thể bắt gặp vô số những con người mê ngủ, nghĩa là
tiếp tục suy nghĩ và lý luận về hành động của Thiên Chúa theo lối cũ, theo những
định kiến, theo những hệ thống thần học họ tự đặt ra. Các thượng tế, luật sĩ và
biệt phái đã ru ngủ mình trong sự tự mãn và sự thông hiểu Kinh Thánh. Cả thành Giêrusalem
cũng đã tự ru ngủ mình trong thói quen, trong cái nếp cũ, nên đã sống bên ngoài
biến cố Con Thiên Chúa làm người.
Chúa Giêsu có đó như vị
cứu tinh họ mong đợi, nhưng họ đã không nhận ra Ngài. Không những không nhận ra
Ngài mà còn tìm cách giết hại Ngài. Bởi vì họ không chấp nhận nghe và thấy những
lời nói, những việc làm đi ra ngoài những gì họ đã nghe và đã thấy. Họ đã có những
phản ứng hoàn toàn không thích hợp với những đòi hỏi của thời đại mới. Họ đích
thực là những kẻ mê ngủ. Chính những mục đồng và những kẻ bị liệt vào hàng tội lỗi
công khai như người thu thuế và gái điếm, những kẻ bệnh tật và nghèo khổ lại là
những người có khả năng nhận ra cái mới mẻ của tiếng hát các thiên thần, của
ánh sao, của những dấu lạ để rồi cuối cùng đã nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một hình
nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, hay nơi một Đức Kitô
bị chết treo trên thập giá.
Liệu chúng ta đã thực
sự tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi những người anh em, và thánh ý Ngài qua các biến
cố xảy đến hay không?
2. Tỉnh thức
Chọn bài Phúc Âm này để
làm đề tài suy gẫm trong ngày đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta
một bài học rất hữu ích và cần thiết đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng để đón nhận
Chúa vào ngày giáng sinh cũng như ngày Chúa gọi chúng ta đến tính sổ cuộc đời với
Ngài.
Nhìn vào đời sống,
chúng ta thấy tỉnh thức và sẵn sàng là điều kiện cốt yếu để được sống còn. Ngay
như trong thế giới loài vật chúng ta cũng thấy như vậy. Một nông dân Mỹ bị
đàn quạ khoang phá hoại ruộng ngô. Ông mang súng ra bắn, nhưng không sao lại gần
được vì trên cây thông cao, có một con đậu để canh chừng khi các con khác đang
ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông mới lại gần được mà con gác không hay biết. Một
tràng đạn nổ vang, những con sống sót bay vù lên, nhưng chúng không bay đi xa, chúng
xà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng
bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời
hàng ngũ mà đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây
cho thấy việc tỉnh thức và sẵn sàng là điều rất cần thiết, loài vật còn cảm thấy
phương chi là con người. Nơi giống vật không chu toàn bổn phận tỉnh thức còn bị
trừng phạt nặng nề, phương chi là con người.
Trong cuộc sống, chúng
ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài
dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu,
nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Đọc báo chí, nghe truyền
thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong
mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động
đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn
người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức
và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy.
Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng
thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ
nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau
hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là
hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường
hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy,
thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở
đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho
tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được
khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng
có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
3. Tỉnh thức - Thức tỉnh
(Suy niệm của Lm.
Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Dụ ngôn nói về người
chủ đi xa, giao quyền hành lại cho đầy tớ, mỗi người một việc. Tuy nhiều người
nhiều việc, nhưng ông chỉ có căn dặn người canh cửa phải lo tỉnh thức để mở cửa
cho ông lúc trở về. Rồi trong phần kết của bài phúc âm, lời nhắn bảo “hãy tỉnh
thức” lại được gởi đến cho “hết mọi người.” Phải chăng Đức Giêsu ám chỉ tất cả
các Kitô hữu đều là những người canh cửa, và họ hãy mở tung cánh cửa đời mình để
đón Ngài.
Hôm nay, Dân Chúa trên
khắp thế giới bắt đầu bước vào mùa Vọng với ý nghĩa chấn chỉnh lại thái độ
trông ngóng, mong chờ, chuẩn bị đón mừng ngày Chúa lại đến.
Mùa Vọng luôn được nối
kết với mùa Giáng Sinh, kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người và ở giữa
chúng ta. Nhưng nếu biến cố đó không gợi lên trong tôi một dư âm nào, việc Chúa
sinh ra hay hồng ân cứu độ không mang một tầm quan trọng nào trong đời tôi, thì
thử hỏi mùa Vọng có nghĩa lý gì, chẳng qua là một mùa lạnh hay mùa đông.
Cho nên thiết tưởng để
sống trọn vẹn hơn mùa Vọng năm nay, chúng ta hãy nhìn lại chính mình và tự hỏi:
Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Hạnh phúc của tôi đang ở nơi nào? Những gì tôi
đang tìm kiếm, khao khát, mong ước có làm cho tôi thoả mãn thật sự không? Hay
là cứ tìm được điều này xong, tôi lại chạy theo điều khác, và rồi cuộc đời cứ
mãi kiếm tìm không nguôi?
Thử hỏi Đức Giêsu có
phải là đối tượng chính trong sự tìm kiếm của tôi không, hay chỉ là một thứ phụ
thuộc, là nơi tôi đến tìm yên ủi, cố vấn những lúc bị thất bại trên đường chạy
theo các đối tượng khác.
Nếu không cảm nhận
Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ
thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại
một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng
là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính
là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm,
thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc
tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh
thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn
sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê,
trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm
tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong
và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những
quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi
thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn
tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
Người ta kể rằng dưới
chân lâu đài Mamara của Hoàng đế Maximilian là dòng nước trong vắt của vùng biển
Adriatique. Ở chiều sâu mấy chục thước nước phía dưới có một hang động từng làm
say mê nhiều thợ lặn. Điều thú vị nhất là thỉnh thoảng mấy người thợ lặn đó đã
tìm được những viên ngọc đẹp nhất trong hang động này lại thuộc quyền sở hữu của
Quận chúa Reiner. Thế nhưng sau một thời gian dài, người ta khám phá các viên ngọc
ấy bị nhạt màu. Nhiều chuyên gia về ngọc được triệu đến. Sau nhiều lần nghiên cứu,
thử nghiệm, họ đã nhận định rằng để có được vẻ tươi đẹp nguyên thủy, các viên
ngọc ấy phải được ngâm lại dưới đáy biển sâu. Và đúng vậy, sau một thời gian trầm
mình dưới giòng nước trong của vùng biển này, dần dần các viên ngọc đã phục hồi
được vẻ đẹp long lanh của thuở ban đầu.
Đời sống con người
cũng thế! Để tìm lại niềm vui và bình an chân thật, để gột rửa những phấn bụi của
dòng đời, chúng ta cũng hãy ngâm mình vào biển tình bao la của Thiên Chúa, ướp
đượm hồn ta bằng hồng ân tươi mát của Ngài.
Giáng sinh là thời điểm
của ân sủng và mến thương vời vợi. Thức tỉnh để được sống trọn vẹn niềm vui tìm
gặp Chúa sẽ là thái độ khôn ngoan nhất của người Kitô hữu trên hành trình bước
sang năm phụng vụ mới.
4. Phải tỉnh thức và sẵn sàng
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay
(Mt 13,33-37) là phần cuối cùng trong diễn từ cánh chung của sách Tin Mừng theo
Thánh Marcô, diễn từ nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Điểm nhấn
chính yếu là lời mời gọi khẩn thiết phải tỉnh thức và sẵn sàng.
“Anh em phải coi chừng,
phải tỉnh thức” (c.33a). Đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong Mc
13, Chúa Giêsu kêu gọi bốn đồ đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê phải coi chừng
(cc.5.9.23.33). Lời mời gọi hãy biết nhận định rõ ràng và chính xác, là lời mời
gọi xuyên suốt diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. Các môn đệ cần phải có cái
nhìn sáng suốt về những gì xảy đến, để giải thích đúng đắn các thực tại và
không bị lừa phỉnh (cc.5-23). Bây giờ, sau khi đã nói tất cả những điều đó và để
kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phải tính thức”. Chỉ trong
một đoạn văn ngắn, có đến bốn lần Chúa nói: “Phải tỉnh thức” (cc.33.34.35.37),
điều này cho thấy tính cách quan trọng của lời mời gọi.
Lý do đầu tiên được
đưa ra để làm nền cho lời mời gọi quan trọng đó, chính là: “Vì anh em không biết
khi nào thời ấy đến” (c.33b). Ngay trước câu này, Chúa đã khẳng định: “Còn về
ngày hay giờ đó [cuộc quang lâm] thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ
trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (c.32). Áp dụng
điều đó vào trường hợp các đồ đệ, Chúa Giêsu cho họ biết rằng họ không biết được
khi nào xảy đến cuộc quang lâm (c.33), tức là khi nào Chủ của họ trở về (c.35),
và Ngài nối kết sự không biết này vào với lời mời gọi tỉnh thức.
Sau khi nêu lý do,
Chúa Giêsu kể cho các đồ đệ nghe một dụ ngôn: câu chuyện ông chủ đi xa. “Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình,
chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức”
(c.34). Người giữ cửa được nhấn mạnh cách đặc biệt vì hơn tất cả những người
khác, nhiệm vụ canh thức của anh là rất rõ ràng.
Tình cảnh của các đồ đệ
cũng tương tự như tình cảnh của những người đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện
dụ ngôn. Ông chủ đi xa và trao phó công việc cho họ; mỗi người có nhiệm vụ
riêng của mình. Và bởi vì họ không biết khi nào ông quay về, nên họ phải luôn
hiện hiện trong tư thế sẵn sàng. Cũng tương tự như thế, Chúa Giêsu chính là vị
Chủ Nhà. Rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu trao phó cơ nghiệp cứu độ của Người cho
các đồ đệ. Trong Nhà của Chúa Giêsu, các đồ đệ, nhất là các vị lãnh đạo cộng
đoàn Hội Thánh, vừa là gia nhân vừa là người giữ cửa. Mọi người đều phải tỉnh thức
và sẵn sàng đón Người trở lại trong cuộc quang lâm của Người.
Sau khi kể câu chuyện
dụ ngôn, Chúa Giêsu lặp lại lời kêu gọi tỉnh thức và nêu phần áp dụng của dụ
ngôn đó và hoàn cảnh các đồ đệ: “Vậy anh em phải tỉnh thức, vì anh em không biết
khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em
phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ”
(cc.35-36).
Tỉnh thức không có
nghĩa là không ngủ, vì đó là điều bất khả về phương diện thể lý. Để hiểu đúng ý
mà Chúa Giêsu muốn nói, chúng ta có thể nghĩ đến một lời mời gọi tỉnh thức đặc
biệt mà chính Chúa đưa ra cho các môn đệ thân tín của Người trong một hoàn cảnh
khác. Trong vườn Ghếtsêmani, vào đêm Chúa Giêsu bị bắt, Người nói với ba đồ đệ
thân tín: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (14,38). Trong vườn Ghếtsêmani,
lời mời gọi này phải được hiểu trước hết theo nghĩa đen của các từ ngữ. Nhưng
điều đó không ngăn cản chúng ta giải thích rằng sự tỉnh thức, sâu xa ra, chính là
một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, tức là một
thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Áp dụng cách hiểu đó vào lời
mời gọi ở 13,35 chúng ta có thể hiểu: sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến ở đây
chính yếu là một cách sống hoàn toàn trong ý thức liên tục quy hướng về ông chủ
và nhiệm vụ mà ông trao phó. Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn luôn đặt mình
trong ý thức về tư cách của mình là người phục vụ ông chủ và thi hành một cách
tốt nhất nhiệm vụ mà ông trao phó cho mình. Khi ông chủ đi xa, người đầy tớ dễ
bị cám dỗ quên ông và quên nhiệm vụ ông trao phó, từ đó hành xử như thể mình là
ông chủ, theo hứng riêng của mình từng lúc. Người đầy tớ tỉnh thực sẽ luôn luôn
gắn kết cuộc sống mình với ông củ và luôn luôn sẵn sàng trả lời ông về việc thực
hiện nhiệm vụ mà ông đã trao phó cho mình. Khi Chúa Giêsu nói các môn đệ của
Người phải tỉnh thức như các đầy tớ trong dụ ngôn phải tỉnh thức, là Người muốn
nhấn mạnh đến thái độ sống đó, chứ không phải là một sự canh thức về phương diện
thể lý đơn giản.
Điều thứ hai đáng chú
ý trong câu 35 là việc Chúa Giêsu gắn sự kiện ông chủ (có thể) trở về vào khung
cảnh ban đêm. Người nói: “Vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối
hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”. Sự tối tăm vốn là một hình ảnh có thể
tượng trưng cho vương quốc của bóng tối, của sự ác, của sự dữ, của sự hư luống,
của sự tội lỗi… Ban đêm cũng là hình ảnh thường được sử dụng theo nghĩa là biểu
tượng cho tình trạng say sưa, ngoại tình, gian dối, trác táng… Nói cách khác, đem
tối là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống hiện tại theo nghĩa là cuộc sống đầy những
thực tại tiêu cực. Và thực tế, người tín hữu phải luôn chiến đấu “với những quyền
lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” như cách diễn tả
của Thánh Phaolô trong Ep 6,12. Đó là thế gian chống lại Thiên Chúa. Chính khi
đang hiện hữu trong cái thế giới của bóng tối đó, người tín hữu đón nhận sự kiện
Chúa trở lại.
Kết thúc diễn từ cánh
chung, Chúa Giêsu khẳng định: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với
hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37). Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc
đến tư cách và vị trí đặc biệt của bốn đồ đệ thân tín đang nghe Người tâm sự
đây. Họ là những đồ đệ đầu tiên mà Người đã kêu gọi để biến đổi thành những kẻ
lưới người (x. 1,16-20). Nhưng lời kêu gọi tỉnh thức và sẵn sàng không chỉ dành
riêng cho họ mà thôi. Chúa nói rõ ý của Người là kêu gọi tất cả mọi người đều phải
tỉnh thức như vậy, không trừ một ai. Nói cách khác, ở bên dưới lời khẳng định
này là một lệnh truyền được ngỏ với các môn đệ thân tín, sai họ đi thông truyền
cho tất cả mọi người điều mà Chúa Giêsu đang nói với họ đây, để mọi người đều tỉnh
thức đón chờ Ngài đến hoàn thành công trình cứu độ của Ngài.
Gợi
ý suy niệm và chia sẻ:
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, có đến bốn lần Chúa Giêsu kêu
gọi chúng ta tỉnh thức. Lời kêu gọi này càng tha thiết hơn nữa khi nó được ngỏ
với chúng ta trong khung cảnh của ngày Chúa Nhật bắt đầu Mùa Vọng và Năm Phụng
Vụ mới. Tỉnh thức, sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một
cách rõ ràng về Thiên Chúa, một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất.
Người tôi tớ tỉnh thức sẽ không bao giờ hành xử như thể mình là ông chủ có quyền
hành động tuyệt đối theo ý riêng mình.
2. “Anh em không biết khi nào chủ nhà đến”. Đó là một sự thật.
Và chúng ta được mời gọi ý thức luôn luôn, một cách khiêm hạ, về sự thật đó.
Chính từ sự thật đó mà xảy đến lời mời gọi tỉnh thức.
3. «Anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay
nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng». Chúng ta đang sống giữa thế giới của bóng tối,
trong đó đầy dẫy những bất công, những thử thách, những ngang trái, những cám dỗ,
những hư hỏng… Nhưng tiếng nói tối hậu và có tính quyết định sẽ không phải là
tiếng nói của bóng tối và sự ác. Tiếng nói tối hậu sẽ là tiếng nói của Ông Chủ.
Chúa sẽ quang lâm và trở về với chúng ta trong chính hoàn cảnh của thế giới tối
tăm và độc ác này. Nếu chúng ta, bất chấp đêm tối của tội lỗi và sự dữ, vẫn
đang hiện hữu trong tư thế đồ đệ luôn quy hướng về Ngài, chúng ta sẽ được chia
sẻ vinh quang với Ngài.
4. Mọi môn đệ của Chúa Kitô đều có nhiệm vụ nói cho thế giới
biết rằng Chúa chắc chắn sẽ trở lại, nhưng là vào lúc chúng ta không ngờ. Vì vậy,
mọi người đều được mời gọi tỉnh thức, luôn luôn hiện hữu trong tư thế của người
tôi tớ tốt lành đang tỉnh thức đợi chủ về. Lời của Chúa Giêsu: “Điều Thầy
nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!”
(c.37).
5. Tỉnh thức và cầu nguyện – Lm Vinh Sơn
Tại các giáo đường ở
châu Âu trong Mùa vọng, bên cạnh bàn thờ người ta trang hoàng một vòng nguyệt
quế được kết từ những cành lá thông mà trung tâm là 4 cây nến: Chúa nhật thứ nhất
họ thắp lên cây nến thứ nhất, và mỗi Chúa nhật tiếp theo người ta lại thắp thêm
ngọn nến cho đến Chúa nhật thứ tư bốn cây nến được tỏa sáng.
Mỗi Chúa Nhật thắp lên
một cây nến nhắc nhở người tín hữu tỉnh thức cầm đèn sáng trong tay cầu nguyện
chờ đợi như Thánh Thi ca tụng:
Và giờ đây xin thương
tình lạy Chúa,
Lấy lửa thiêng đốt
cháy cả tâm can
Để chúng con luôn tỉnh
thức sẵn sàng
Cầm đèn sáng trong tay
chờ Ngài đến.
Tư thế canh thức đó
chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giêsu Giáng sinh và tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng
cho ngày cánh chung, ngày đó ngôn sứ Isaia đã nói: “Hỡi người canh thức, đêm
còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11), Thánh Phaolô đã nói đến Chúa ngự đến khi diễn tả
ánh bình minh của ngày mới: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12), ngày đó
“Con Người” sẽ quay lại để phán xét mà Tin Mừng Mc 13,33-37, Chúa Giêsu nói đến
hình ảnh: “chủ nhà trở về…” vì chúng ta không biết giờ nào… nên Đức Kitô kêu mời:
“Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc
đó là lúc nào”.
Trước hết tỉnh thức giữa
đêm khuya cuộc đời, theo Kinh Thánh, đêm khuya là thời gian của bóng tối của
“quyền lực tối tăm” (x.Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính
là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách, do đó chúng ta phải mang tâm
tình thức tỉnh.
"Nửa đêm"
trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu bị thử thách, các Tông đồ bị cám dỗ ngủ mê và
thiếu tỉnh thức. Trước sự mê ngủ của các môn đệ Chúa Giêsu đã mời gọi các ông tỉnh
thức, ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42; Lc 22, 39-46).
Đêm tối, Chúa bị bắt,
Phêrô theo bước chân Thầy đến Dinh Thượng Tế, bị chất vấn, ông đã yếu đuối, mất
cảnh giác và đã chối thầy. Ông thức tỉnh nhận ra tình trạng “chối thầy” của
mình lúc bắt đầu bình minh vào "Lúc gà gáy”.
Tin Mừng còn nhắc đến
một thái độ thức tỉnh là phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (x. Mc 4,12), nếu
không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vượt qua. Cần phải có thái độ “coi
chừng”, để chúng ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, men giả hình, kiêu căng để khỏi
bị thấm nhiễm (x. Mt 8, 6; Mc 8,15). Cần phải chú ý “coi chừng”, để không tin
những kẻ bắt mao danh Đức Kitô nói trước tương lai (Mt 24, 4 -13; Mc 13,5-13;
Lc 21, 8-19) đó là các tiên tri giả hình.
Khi nói về thái độ tỉnh
thức, Thánh Phaolô đòi hỏi phải có hành động “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Ngài
còn sử dụng đến hình ảnh về chiến tranh với những “vũ khí” trang bị cho thái độ
tỉnh thức (x.Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8). Có nghĩa là người thức tỉnh luôn
chủ động:
- Tỉnh thức là luôn sẵn
sằng, sẵn sàng ngay cả lúc ngủ: dụ ngôn Mười cô trinh nữ, năm cô trinh nữ khôn
ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Sự khác biệt giữa họ là sẵn
sàng đèn dầu. Nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan ra đón với đèn sáng
trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn của các cô khờ dại đèn đã tắt
do thiếu dầu. Lúc đó các cô mới chạy đi mua, nên không kịp hẹn hội Hoa đăng. Vậy
tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong
khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, cho nên Thánh
Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không
lo lắng gì cả”.
- Tỉnh thức là dấn
thân chu toàn bổn phận như Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương
thực cho các gia nhân (x. Mt 24,45-51; Lc 12, 42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy
anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao nên dược chủ cất nhắc.
Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt
24,49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.
- Tỉnh thức là luôn chủ
động làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (x. Mt 25,31-46).
Mỗi người được trao khác nhau, dù ít dù nhiều đều có bổn phận phải sinh lợi cho
mình và Thiên Chúa. Người đào lỗ chôn giấu nén bạc được giao là thụ động không
dám đầu tư vì sợ mất vốn. Người tỉnh thức hăng say làm việc để sinh lợi là người
thức tỉnh với “số mệnh” được giao, anh được chủ khen là đã trung tín với ơn
Chúa ban.
- Tỉnh thức để nhận ra
Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ
giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới,
một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính
Ngài đã khẳng định (x. Mt 25,31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn
này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời. Vâng, Người
thức tỉnh biết nhận ra Chúa nơi anh em, Ngày Chúa đến, họ hân hoan như Thánh Phaolô
diễn tả: Một ngày kia chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt với Người, chúng ta
sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết chúng ta (x. 1Cr 13,12).
Mang tâm tình Tỉnh thức,
chúng ta luôn có thái độ sẵn sàng như Cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn
hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nhưng thái độ chủ động trong thức tỉnh
chưa đủ, tâm tình tỉnh thức còn dẫn đến cầu nguyện. Thật thế, tỉnh thức phải
luôn đi đôi với cầu nguyện như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện kẻo sa cơn cám dỗ”(Mc 14,38). Cuộc sống thường ngày chúng ta thường bị
cám dỗ ngủ quên trong những thành công, trong những tiện nghi dễ dãi làm ta say
mê những thực tại trần thế mà quên đi ngày Chúa đến.
Bước vào mùa vọng, người
Kitô hữu mang tâm tình thức tỉnh và cầu nguyện như Chúa Giêsu kêu gọi để chờ, để
đợi. Chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, ngày đó Ngài đến thật bất
ngờ, không ai biết được ngày giờ. Cho nên anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài
đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ (x. Mc 13,33-37).
Trong thức tỉnh chúng
ta cầm đèn sáng trong tay với lời cầu:
“Maranatha, Lạy Chúa,
xin hãy đến!” (Kh 22,20).
“Xin tỏ lòng từ bi
Chúa cho chúng con,
và ban ơn cứu rỗi cho
chúng con” (Tv 84, 8)
6. Thái độ mong chờ Chúa đến
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa
Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus,
(có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn
bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa?
Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong
chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang
sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của
Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Đức Trinh Mữ Maria; hai là chờ đợi
Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết",
như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ "chờ đợi"
được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong
Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với
lời cầu xin tha thiết: «Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi», và hơn
thế nữa dân Do Thái kêu van: «Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống».
Vì sống cả hai chiều
kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình
ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh
Thánh
Các bài đọc Thánh lễ
trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do
Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh
nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị
này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí
hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú,
Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ
khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô
tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở..." (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa
trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế:
thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng: "Và này
đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao
cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người
ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và
triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (...) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh,
và được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con
trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo
việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: "Có
Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép
cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm
phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu
gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc
nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng
thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ
Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống
đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng:
Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa... )
- Chúa nhật II Mùa Vọng:
Populus Sion ... (= Này hỡi Dân Sion...)
- Chúa nhật III Mùa Vọng:
Gaudete ... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa...)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng:
Rorate ... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta
sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi,
nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần
thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Người tái lâm là chiều kích thứ hai (Mc 13,
33-37).
Lời Chúa nói với các
môn đệ: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con
không biết lúc đó là lúc nào" (Mc 13, 33), cũng nói với chúng ta: "Điều
Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
(Mc 13 37). Chúa mách bảo chúng ta phải luôn trong tư thế của người được chủ:
"đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành ... và căn dặn ...lo tỉnh
thức" (Mc 13, 34). Vì chủ về bất ngờ nên "coi chừng và tỉnh thức"
là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm
2012, người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của
dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến,
mua dầu, mua mì tôm... Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho
dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên
tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ
có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu
làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu
vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta: "Các con hãy tỉnh
thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là
nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp
các con đang ngủ" (Mc 13, 35-36).
Năm Phúc Âm hóa gia
đình kết thúc, năm Phúc Âm hóa giáo xứ được mở ra. Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mọi
người trong giáo xứ tự hỏi: giáo xứ chúng ta đang chờ đợi điều gì? Trong lúc
này của đời ta, con tim ta đang hướng về điều gì? Chúng ta có tỉnh thức không?
Hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Đức Giêsu ngự đến lần thứ hai, Người thấy
chúng ta đang tỉnh thức vì đã không uổng công trông đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ
"đầy ân sủng", Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin
giúp chúng con sẵn sàng đón Chúa Giêsu Con Mẹ.
Lạy Chúa, "xin
Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống" (Is 63, 19). Amen.
7. Khao khát Chúa – PM Cao Huy Hoàng
Mở đầu Mùa Vọng, Chúa
Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”. "Các con
hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc nào chủ về”
(x.Mc 13, 33-37)
Mỗi người đang có một
ước mơ, một khát vọng trong lòng. Có thể, không ai hiểu ai. Nhưng không ai sống
mà không khát vọng. Đời người là một Mùa Vọng. Chỉ tiếc là, có những khát vọng
làm cho con người ra ra hư đốn.
Chẳng hạn:
Có ai ngờ được người
đang có quyền có tiền lại đang khát chia nhau một phần lợi lộc béo bở nếu cùng
nhau toa rập bán được một lô đất ăn cắp. Họ bất chấp công lý, đạo đức, luật
pháp, miễn là thỏa cơn khát quyền lực, cơn khát tài sản!
Có ai ngờ được người
đang có nhà cao cửa rộng, xe hơi bóng loáng lại khát đổi nhà đổi xe cho sang trọng
hơn giữa những người vô gia cư, bất hạnh, què quặt… đang lê la cuộc đời trước mắt
mình, dưới chân mình.
Hôm nay, được mời đi
chơi với các đại gia, nhìn thấy người ta quá giàu có, sang trọng, tiêu xài thoải
mái, vui chơi thỏa thích, em tôi nhắn về cho tôi tin nầy: “Khi người ta quá đầy
đủ, còn nhớ đến Thiên Chúa nữa không?” Lặng đi mấy phút, tôi tạ ơn Chúa vì em
đang nhớ đến Chúa giữa cuộc du lịch, giữa khu du lịch ĐN ồn ào, sôi động. Tôi
trả lời: “Em lầm rồi, họ chưa đầy đủ đâu. Còn khát lắm. Ai biết?”.
Có ai ngờ được người
đang có một cuộc sống thiêng thánh lại khát những điều mê muội thấp hèn. Trong
đó, có tôi, có bạn, có tất cả những Kitô hữu, không kể thành phần nào, vẫn
không tránh khỏi nghiêng chiều về những thực tại thấp hèn, phù du, chóng vánh.
Tin mừng khai mạc Mùa
Vọng nhắc nhớ cho chúng ta về khát vọng chính đáng nhất trong cuộc đời: Khát
Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn bé nhỏ, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta
thỏa cơn khát vô biên.
“Chỉ trong Thiên Chúa
mà thôi. Hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 61)
Thánh Augustin: “Chúa
là khát vọng của lòng tôi, tôi sẽ khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong
Chúa”.
Có thể nói đoạn sách của
Isaia và Thánh Vịnh 79, đáp ca hôm nay đã để cho chúng ta mẫu gương Khát Chúa rất
quí giá:
Dân Chúa tha thiết kêu
xin: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống” (Is. 63) để phục hồi những
gì đã tàn hoang, “xin Chúa thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng
vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà
Ngài đã củng cố cho mình” (x. TV 79).
Khát vọng của Dân Chúa
là một khát vọng chính đáng, một khát vọng thánh thiện: khát vọng Chúa nhìn
xem, bảo vệ, củng cố công trình Ngài đã thiết lập: “vườn nho” Giáo Hội mà Chúa
đã ươm trồng, “nhà cửa” linh hồn, thân xác, đức tin mà Chúa đã để lại cho chúng
ta quản lý trông nom.
Như vậy,
Khát vọng chính đáng của
chúng ta là khát vọng Chúa phục hồi con người chúng ta để sống đúng với danh
nghĩa, với tư cách là con cái của Ngài mà chúng ta đã vì những khát vọng bất
chính mà đánh mất.
Khát vọng chính đáng ấy
là khát vọng Chúa đến ngự giữa tâm hồn, giữa gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng
ta, để Ngài can thiệp vào đời sống chúng ta: nhìn xem, bảo vệ, củng cố Giáo Hội
cơ bản của Ngài.
Khát vọng chính đáng ấy,
thiết tưởng, không phải là khát vọng đối đầu thành công với thế lực gian tà của
ma quỷ, nhưng là khát vọng làm chứng cho công lý cho sự thật, thức tỉnh những
con người mê muội, cải tạo những con người bị ma quỷ giáo dục sớm nhận ra uy
quyền của Thiên Chúa.
Khát vọng chính đáng ấy
không phải là khát vọng Chúa sẽ ra tay đàn áp những người đàn áp, Chúa sẽ phỉ
nhổ nhục mạ những người phỉ nhổ nhục mạ, Chúa sẽ xử luật rừng với người chơi luật
rừng… nhưng là để Chúa phục hồi lại nhân phẩm tồi tệ của những con người kia
cũng là con cái của Chúa, kẻo uổng công trình Chúa cứu chuộc.
Khát vọng chính đáng ấy
là khát vọng nên công chính cho mình và cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước,
cho cả những người đang chìm ngập trong bất công, gian tà, bạo lực.
Khát vọng chính đáng ấy
là khát vọng tỉnh thức trước những nguy cơ làm cho chúng ta xa cách Chúa, tỉnh
thức trước nguy cơ Satan hóa bản thân, gia đình, đất nước chúng ta.
Để thực hiện được khát
vọng chính đáng, “Khát Vọng Chúa”, khát vọng nên công chính, Thánh Phaolô kêu gọi
chúng ta: dừng chân ngay những hành vi ám muội, bất chính; xóa bất công xây
bình an trong lòng; mặc lấy khí giới ban sự sống; và sống công minh như giữa
ban ngày. (x.Rm 13,1-14). Bởi vì, chúng ta đã và đang có những khát vọng bất
chính rồi ra dững dưng ơ hờ trước lời kêu gào thống thiết với khát vọng chính
đáng của dân Chúa khắp nơi nơi.
Biết không phải dễ
dàng mà chúng ta buông bỏ những khát vọng bất chính, biết đôi khi khát vọng bất
chính lại len lấn ẩn tàng ngay trong những hành vi tưởng như là công chính, cho
nên, Thánh Phaolô lại khuyên chúng ta hãy dùng nguồn trợ lực quí giá là ân sủng
của Thiên Chúa và yên tâm, kiên vững kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô: “Vì chưng,
trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như
Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa
trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ
ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến”. (1 Cr 1, 3-8)
Thiết nghĩ, khao khát
Chúa, mỏi mòn khao khát Chúa, tuyệt đối khao khát Chúa, khát vọng nên công
chính, khát khao hết hiệp với Chúa Giêsu, là biết tỉnh thức và cầu nguyện vậy.
Cụ Chu, người xướng
kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần nay. Anh em đến
thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò với cụ. Cụ vui vẻ
nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ Chúa sắp xếp. Chờ
thôi. Chắc thứ sáu”. Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho chúng tôi về việc tỉnh thức,
cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết khát khao kết
hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi ý tưởng, lời
nói, việc làm của chúng con.
Nguyện xin Vị Tôi Tớ
Chúa Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Người đã luôn tỉnh thức cầu nguyện
trong tù, phù hộ cho chúng con. Amen.
8. Phải canh thức
(Suy niệm của Lm.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Văn mạch của 13,33-37
là những loan báo ngày Thiên Chúa sẽ đến (13,24-37). Ngày của Thiên Chúa chắc
chắn sẽ đến, nhưng không ai biết ngày giờ nào. Chỉ một mình Chúa Cha biết
(13,32). Bởi đó, Chúa Giêsu nhắc lại điều nầy (13,33) và kêu gọi các môn đệ
cách trực tiếp là hãy tỉnh thức (13,34-37). Canh thức đối nghĩa với ngủ. Canh
thức để canh giữ nhà cho Thiên Chúa. Và canh thức vì Chúa sẽ trở lại, nhưng
không biết lúc nào.
Để nhấn mạnh điều nầy
là không ai biết ngày giờ nào Thiên Chúa sẽ đến, Marcô dùng chữ “hãy tỉnh thức”,
agrupneite, nghĩa là đặt trong tình trạng báo động trước một nguy hiểm có thể xảy
ra. Việc Thiên Chúa đến, hiểu theo một cách nào đó, “rất nguy hiểm” cho số phận
đời đời. Nếu không đặt trong tình trạng sẳn sàng, có thể chịu chung số phận với
những người tôi tớ không trung tín.
Có bốn lần lời kêu gọi
các đầy tớ hãy “canh thức”, grègoreite, “thức ngủ và trong tình trạng sẳn sàng”
(câu 34.35.36 và 37). Lệnh hãy canh thức đầu tiên đưa ra khi chủ vừa ra khỏi
nhà (c.34), lần thứ hai giả thiết chủ đang đi xa và có thể về bất cứ giờ nào
(c.35), lần thứ ba giả thiết chủ đã về tới nhà (c.36), và lần cuối cùng nói cho
mọi người: tất cả hãy tỉnh thức (c.37). Vậy hãy canh thức luôn luôn, nhất là
trong thời gian của bóng tối.
Điều tai hoạ nhất là
khi chủ về mà “anh em đang ngủ” (c.36). Tại sao? Ngủ là ngược lại với canh thức.
Trong vườn Cây Dầu, tìm thấy cả hai tình trạng nầy: Chúa Giêsu canh thức để cầu
nguyện, ba môn đệ đang ngủ (14,37). Vì thế khi nguy hiểm đến, Chúa Giêsu đã sẳn
sàng chịu nộp theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ thì trốn chạy (14,41.50). Ngủ là
nằm trong tình trạng không tự vệ. Kẻ thù có thể gieo vào ruộng cỏ lùng (4,27)
và bão tố có thể nổi lên khi để Chúa Giêsu ngủ trong thuyền đời mình (4,38).
Vậy phải canh thức
luôn. Canh thức không phải là không đi ngủ. Các trinh nữ khôn ngoan vẫn đi ngủ
trong khi chờ đợi chàng rể đến (Mt 25,5). Canh thức và cầu nguyện đi với nhau
như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Chính Người cũng phải canh thức và cầu nguyện
để khỏi rơi vào cám dỗ không làm theo ý Chúa Cha. Người đã thức và cầu nguyện
cho đến lúc ý Chúa Cha được thực hiện là để mình bị bắt, khởi đầu hành trình khổ
nạn và chấm dứt trên thánh giá. Thức để cầu nguyện và cầu nguyện để có thể thức
mà làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó, và để khỏi rơi vào cám dỗ nghĩ là chủ
sẽ về muộn, nên sẽ ăn uống say sưa và không còn trung tín với chủ nữa (Mt
24,48-49).
Ngày của Thiên Chúa chắc
chắn sẽ đến. Sự vắng mặt của Người chỉ là tạm thời. Người đang đến, như người
chủ ra đi và sẽ về, như mùa hạ đang đến khi cây vả đâm chồi non (13:28).
Bởi đó hãy canh thức mà đón Người, không chỉ các môn đệ mà tất cả mọi người
(13,37).
9. Hãy tỉnh thức – Lm Nguyễn Hồng Giáo
Chúng ta bắt đầu một
năm Phụng vụ mới. Đầu mỗi năm mới, khi chúng ta mừng Tết Nguyên Đán, chúng ta lại
hướng nhìn về phía trước, nhìn về tương lai với niềm hy vọng là năm mới sẽ đem
lại cho chúng ta những điều tốt lành hơn. Thì đầu năm Phụng vụ mới cũng vậy,
Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô sẽ
đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Đất Mới cho loài người
chúng ta.
Có điều đặc biệt là:
thường thường trong những ngày đầu năm, chúng ta cố gắng quên đi cuộc sống hiện
tại với bao nhiêu khó khăn thử thách và trách nhiêm nặng nề, thì hôm nay trong
ngày đầu năm Phụng vụ, trong lúc gợi lại trước mắt chúng ta quang cảnh tươi
sáng về ngày Chúa quang lâm, Giáo Hội lại không muốn để cho chúng ta cứ tha hồ
mà sống trong mơ ước xa xôi, nhưng trái lại Giáo Hội đưa chúng ta về với cuộc sống
và trách nhiệm hiện tại của mình và nhắc lại lời căn dặên của Chúa Giêsu: Hãy Tỉnh
Thức!
Bài Phúc Âm khai mạc
năm Phụng vụ mới này (Mc13, 33-37) chỉ vỏn vẹn có 5 câu mà đã có tới 4 lần dùng
mấy tiếng "phải tỉnh thức". Mở đầu là lời kêu gọi "Anh em phải
coi chừng, phải tỉnh thức!" Kết thúc cũng là lời kêu gọi tương tự:
"Thầy nói với anh em đây và với mọi người là phải tỉnh thức!" Giữa
hai lời kêu gọi đó, là một dụ ngôn ngắn kể rằng: Người kia sắp đi xa, ông để
nhà lại cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh
thức, vì không biết chủ về lúc nào. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào, khi
chủ bất thần trở về, bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà mà ông chủ
giao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô giao cho loài người chúng ta chịu
trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó, cũng như chúng ta chịu trách
nhiệm về chính cuộc đời mình và phải quản lý nó hợp với ý muốn của Thiên Chúa,
theo lề luật bác ái yêu thương. Rồi ngày kia Chúa sẽ xuất hiện tỏ tường với
chúng ta và Người sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành trách
nhiệm của mình như thế nào?
Chúng ta phải sống cuộc
sống hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến (đến trong
ngày tận cùng của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta), và# vì hướng
về Đức Kitô như thế mà tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương
lai vĩnh cữu của mình. Trong bài dụ ngôn này--cũng như trong dụ ngôn những nén
bạc mà ông chủ giao cho các tôi tớ trước khi đi xa--chúng ta đều thấy nhấn mạnh
tới trách nhiệm và tính chủ động của con người trong việc xây dựng Nước Trời và
xây dựng hạnh phúc của mình.
Chúa Giêsu đã đến. Rồi
Người đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày Quang Lâm,
Người sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mặt muôn dân. Trong thời gian Người giấu
mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Người sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng
sở dĩ Chúa ẩn mình đi như thế là Người tôn trọng chúng ta, vì muốn cho chúng ta
nên người trưởng thành, biết sử dụng tự do, tính sáng tạo và thi thố tinh thần trách
nhiệm. Làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát vào nó, lo lắng
cho nó từng ly, từng tí? Dĩ nhiên là Chúa vẫn hiện diện và lo lắng cho chúng
ta, nhưng có thể nói cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và
trách nhiệm của ta.
Nếu chúng ta theo Chúa
chỉ cốt để tìm an ủi hoặc tìm sự an toàn trước cuộc đời đầy đau khổ, thì chúng
ta không làm đẹp lòng Chúa và làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo là ru ngủ.
Cũng vậy, nếu chúng ta theo Chúa, để rồi lẫn trốn các trách nhiệm đối với xã hội,
đối với anh chị em đồng loại, tức là chúng ta làm cớ cho người ta phê bình tôn
giáo kìm hãm con người trong vòng ấu trĩ.
Có ba quan niệm sống
có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời. Một là cho rằng chết là hết,
không còn gì tồn tại: nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết nếu số phận
người tốt, người xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập
luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại vì chết rồi
sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết
định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người
đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể
làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích. Ba là tin vào thuyết luân hồi (cuộc sống là
một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác), nếu kiếp này ta chưa đạt tới
hạnh phúc thì ta sẽ chờ kiếp sau, khi ta được đầu thai lại. Dĩ nhiên thuyết
luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc
sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm
trên, Kitô giáo dạy rằng Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế
giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời
gian quyết định đối với số phận đời đời của chúng ta. Mỗi giây phút qua đi là
không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý
báu, đây là lúc chúng ta gieo mầm mống cho đời sống vĩnh cữu. Mỗi người thỉnh
thoảng nên tự hỏi mình sử dụng thời giờ như thế nào?
Người kitô hữu sống cuộc
đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết
sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời
đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Đồng thời người kitô hữu luôn
luôn hướng về Đức Kitô sẽ đến kiện toàn công cuộc cứu độ, họ biết rằng thế gian
này, tuy là rất tốt đẹp, nhưng không phải là quê hương vĩnh cữu của mình. Họ sống
cuộc đời trần gian cách hết sức nghiêm chỉnh như thể là sẽ mãi mãi ở đây (vì đó
là Thánh ý của Chúa); đồng thời họ sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa đến
gọi họ ra đi.
Người kitô hữu giống
như người học trò tốt ở trong ký túc xá. Suốt tuần anh ta học hành rất chăm chỉ,
anh ta không làm biếng, không ngồi đó mà mơ mộng viễn vông, nhưng cuối tuần khi
cha mẹ đến đón về nhà, thì anh ta càng vui sướng# Việc trông chờ ngày nghỉ cuối
tuần trong gia đình không làm cho anh ta sao nhãng việc học hành, trái lại tăng
thêm nghị lực cho anh ta.
Thời gian Mùa Vọng là
thời gian Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ hy vọng, mong chờ và tỉnh thức.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và hăng say, họ thực thi những gì là chân
thật, ngay chính và đáng quý chuộng, với tất cả nhiệt huyết, nổ lực cần cù và
không trì hoãn. Đây là thời gian Giáo Hội muốn chúng ta sống hướng về ngày giờ
Đức Kitô đến một cách ý thức hơn.
Khi chúng ta làm việc
mà biết hướng về Đức Kitô thì chắc chắn có một cái gì đó thay đổi trong thái độ
và cách thức làm việc của ta. Khi chúng ta đau khổ màbiết hướng về Đức Kitô thì
sẽ có cái gì đó thay đổi. Khi chúng ta chiến đấu mà biết hướng về Đức Kitô thì
cũng sẽ có cái gì đó thay đổi . Ngay cả khi ta vui chơi, giải trí cũng thế. Và
trong mọi sự, mọi hoàn cảnh chúng ta đều có sự bình an.
Người ta kể chuyện rằng
ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập
họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo
cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ
làm gì?". Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời:
" Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai nói:"Con sẽ vào
nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm". Riêng Lu-y vẫn bình thản trả lời:"
Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi".
Đó là câu trả lời của
một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế.
Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu
đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng
cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời
mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta.
10. Tỉnh thức trong an vui
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
1. Tỉnh thức để nhận
ra điều dữ.
Nói đến “tỉnh thức”,
người ta thường liên tưởng ngay đến điều ngược lại, đó là “ngủ mê”. Khi nói đến
“ngủ mê”, thường người ta nghỉ ngay đến cơn ngủ mê thể lý.
“Đêm tối của vật lý”
thường là nguyên cớ cho những điều xấu xảy ra. Cụ thể là chuyện trộm cắp cùng với
những việc bất chính. Người ở trong đêm tối không biết cách “giữ cho mình tỉnh
thức”, chỉ biết ngủ vùi miên man, thì không thể an toàn được.
“Đêm tối tâm hồn” còn
đáng sợ gấp vạn lần hơn. Vì “đêm tối tâm hồn” không có màu đen rõ rệt trong
không gian và thời gian, không có sự phân biệt hay báo trước của ngày và đêm.
Nhiều người đang ngủ vùi trong “đêm tối tâm hồn” mà vẫn tưởng mình đang ở trong
ánh sáng. Từ đó, mới có sự lầm đường lạc lối. Nhiều người lao mình vào chỗ chết
như những con thiêu thân, nhưng vẫn tưởng mình đang sống trong hạnh phúc. Nhiều
chế độ đưa người dân đến chỗ cùng khổ, mà vẫn tự hào là chính nghĩa, nhiều thế
lực đưa nhân loại đến họa diệt vong, mà vẫn cao rao nhân danh Công Lý!
Đạo đức suy đồi, phẩm
giá con người bị hạ thấp, lối sống nô lệ bản năng… Đó là sự mê ngủ trong đêm tối
tâm hồn.
Đó là những kẻ ngủ mê
không còn thấy được những điều bất hạnh!
2. Tỉnh thức để nhận
ra điều lành.
Cuộc sống là cuộc hành
trình tìm về hạnh phúc. Nhiều kẻ “ngủ mê” không hay biết những điều độc hại
đang xâu xé tâm hồn, nhưng cũng có nhiều người ngủ mê không hay biết những điều
hạnh phúc đang ở quanh ta, và có khi ở ngay trong chính ta.
Cứ lo nghĩ đến những
điều xấu để tránh, mà không biết khám phá những hạnh phúc đích thực để tận hưởng
làm sao ta vui sống?
“Tỉnh thức” không phải
là lời răn đe, hù dọa, nhưng là một thái độ đi tìm lẽ sống đích thực. Vì Tin Mừng
luôn là Tin Vui và là niềm hy vọng, và Tỉnh Thức, do đó, là Tỉnh Thức trong An
Vui vì tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa.
Có một câu chuyện vui
thế này:
Có một cậu bé muốn được
gặp Chúa. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài mới có thể đến được
nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc bánh Twinkie và cả
sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình.
Khi qua được khoảng ba
dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, lặng nhìn đàn
chim bồ câu đang ríu rít trước mặt. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở túi xách của
mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý đến bà lão có vẻ
đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cầm lấy và mỉm cười với cậu.
Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa, thế nên cậu
mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy rất vui sướng!
Cả buổi chiều, hai bà
cháu cứ ngồi bên nhau, vừa ăn, vừa mỉm cười, nhưng không nói với nhau lời nào.
Khi trời bắt đầu sẩm tối,
cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được một lúc, cậu quay trở lại, chạy
đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu – một nụ cười đẹp nhất mà cậu từng được thấy.
Cậu bé bước vào nhà, mẹ
cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu. Bà hỏi: “Hôm nay
có chuyện gì mà trông con vui thế?”.
Cậu trả lời: - “Con đã
ăn trưa với Chúa mẹ à! Mẹ biết không, Người có nụ cười tuyệt nhất mà con từng
thấy!”
Trong khi đó, bà lão
cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.
Con trai bà lấy làm ngạc
nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: - “Mẹ ơi, hôm nay có
chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?
Bà hân hoan: - “Mẹ ăn
bánh Twinkie trong công viên với Chúa. Con biết không, Người còn bé hơn
là mẹ nghĩ nữa cơ đấy!”.
3. Tỉnh thức trong an
vui.
Để không còn ngủ mê, để
thức tỉnh đúng ý nghĩa, ta cần Ánh Sáng Tin Mừng soi rọi vào mọi ngỏ ngách cuộc
đời, vào mọi ngỏ ngách tâm hồn ta. Và như thế, có nghĩa là ta luôn “Tỉnh Thức
và Cầu Nguyện”
Tỉnh thức để tránh cạm
bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu tỉnh thức chỉ để
tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh thức đó chẳng
có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!
Trong một cuộc tập dượt
tác chiến, viên sĩ quan chỉ huy dặn dò:
- “Trong khi lâm trận,
các anh em phải biết ngụy trang. Ngụy trang càng tốt, mức an toàn càng cao! Ngụy
trang sao cho “địch không thể thấy ta mà ta thấy địch”.
Và các tân binh bắt đầu
ngụy trang để tập trận.
Sau cuộc tập trận, khi
điểm danh, thiếu một anh chiến sĩ. Đồng đội chia nhau đi tìm.
Cuối cùng, họ cũng tìm
ra anh lính “mất tích” đó. Nguyên nhân là anh tân bình này ngụy trang quá sức kỹ,
kỹ tới mức “Địch không thấy anh, mà anh cũng không thấy địch!”. Anh nằm
“an toàn” trong cái ổ ngụy trang kín mít của anh, không thấy gì bên
ngoài, nên không hay biết cuộc tập trận đã kết thúc rồi!
Lạy Chúa,
Xin cho con biết chuẩn
bị những gì cần thiết nhất,
trong tận đáy lòng con,
để tiếp rước Chúa,
với niềm vui vô tận.
Cho môi miệng con biết
tung hô:
“Chúc tụng Đức Chúa là
Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc
dân Người”. Amen.
11. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Vọng là mùa chờ
đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất
bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh
thức có nghĩa là đừng mê ngủ.
Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những
bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của
tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát
ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta
xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên
vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu
thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú
giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn
đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống
cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối
tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú
quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh
thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định.
Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách
tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt
của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người
phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người
không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một
người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ
quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến
qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy
guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại
ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo
đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn
nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp
được Người.
Tỉnh thức không có
nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động.
Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người
giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất
nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách
nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát
triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và
đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời
đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc
các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng
xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng,
Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng.
Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục
vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định
để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang
dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng
chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo
hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm
việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức
không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết
cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con
đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo
đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ
trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn
con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tỉnh thức là đừng
mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?
2) Tỉnh thức là tỉnh
táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?
3) Tỉnh thức là phải
hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?
4) Mùa Vọng này, bạn
quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
12. Người giữ cửa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có bao nhiêu thời gian
sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi?
Có sự chờ đợi làm ta
căng thẳng, mệt mỏi; nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho
cuộc sống. Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài. Người vợ chờ đợi
ngày chồng trở về từ biên ải.
Con người không chỉ sống
bằng quá khứ nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai.
Cái tương lai tưởng
như mơ hồ, xa xôi mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng.
Biết sống là biết chờ
đợi
Chờ đợi làm nên cuộc sống.
Mùa vọng đưa ta đi vào
thái độ chờ đợi. Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này. Chờ đợi Chúa vẫn
đến trong niềm vui và nước mắt.
Chờ như người giữ cửa
thức trắng đêm, vì không biết giờ nào chủ trở về. Nhưng chờ không phải là thụ động
khoanh tay mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó.
Ông chủ đi xa đã để lại
ngôi nhà, giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).
Có lẽ từ lâu ta đã thấy
không cần chờ đợi Chúa, vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những
điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.
Hãy nói cho tôi biết,
bạn đang chờ gì, tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.
Nếu không có Ai để chờ,
thì cũng chẳng cần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong đêm tối
đâu phải là chuyện dễ dàng.
"Ngài trở lại và
thấy các môn đệ đang ngủ... Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ, đôi mắt họ
li bì nặng giấc" (Mt 26, 40-45).
Chiến đấu chống lại sự
buồn ngủ của mắt còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.
Cuộc sống vật chất
ngày càng cao cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ và đưa con người vào
cơn mê mà họ không hay biết.
Ma túy là mối đe dọa
giới trẻ hôm nay.
Ma túy đi vào trường học,
được bán ở cổng trường, để chích, để hút, để ngửi. Nó cho người ta sống lâng
lâng trong một thế giới ảo, để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa.
Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa.
Ma túy là tất cả những
gì gây nghiện, khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình.
Tiền bạc, tiếng tăm,
tình dục, tiện nghi... vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.
Mùa Vọng là mùa tỉnh
thức, để thành thật tự hỏi:
"Tôi đang nghiện
thứ ma túy gì?"
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống là có ước mơ và
chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?
Có bạn trẻ coi chuyện
tình cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn
nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên có khi yêu nhau?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin
đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi
cơn mê mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức
con bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa
nhân từ đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh
táo để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt
đối.
Như ngọn đèn chầu trong
nhà nguyện, xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.
13. Đón chờ Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Khi màn đêm buông xuống,
có những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem nốt một cuốn truyện
hay một bộ phim vidéo nhiều tập… Nhưng cũng có người thức để làm việc. Họ trực ở
phòng cấp cứu, ở trạm cứu hoả, ở cơ quan an ninh, ở bưu điện. Họ là những công
nhân làm ca ba, những tài xế tàu hoả chạy suốt đêm đến sáng, những chuyến bay
ban đêm.
Và còn có những người
khác cũng thức. Thức không phải vì mất ngủ, không phải để đọc truyện hay xem
phim, mà thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ là những người
không ngủ, với cái nghĩa là họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày luân phiên nhau.
Nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm
khác. Họ tỉnh thức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ.
Trên trái đất này,
không lúc nào mà không có người thức: Đang khi chúng ta lên giường ngủ thì ở
bán cầu bên kia, một nửa nhân loại đang vươn vai thức dậy, ăn uống, làm việc,
vui chơi, để rồi lại ngủ khi chúng ta ở đây thức dậy.
Như thế, trên thế giới,
Thánh lễ được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục trên
thế giới cử hành Thánh lễ mỗi ngày, thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử
hành Thánh lễ, và mỗi phút, ngày cũng như đêm, đều có một số linh mục đang dâng
lễ cầu nguyện cho chúng ta.
Tuy nhiên, thức đêm
không phải là điều tự nhiên và dễ dàng. Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã từng
có kinh nghiệm về điều đó: Trong Vườn Cây Dầu, mặc cho Chúa Giêsu hai lần gọi:
Hãy tỉnh thức! Họ vẫn ngủ li bì. Có lẽ lúc đầu, Chúa Giêsu tưởng họ sẽ thức cả
đêm với mình để chia sẻ nỗi khổ đau, nhưng cuối cùng, Ngài đau lòng khi thấy họ
không thức nổi được một giờ với Ngài (Mc 14,34-37).
Một
trong những căn bệnh của thời đại là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc an thần để tìm một giấc ngủ
không tự nhiên. Hoặc chán đời, người ta dùng thuốc ngủ quá liều lượng để tìm giấc
ngủ ngàn thu!
Thế nhưng, hôm nay,
Chúa Giêsu lại kêu gọi: Anh em phải canh thức, kẻo bất thần ông chủ về bắt gặp
anh em đang ngủ. Phải chăng Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu phải thức suốt đêm để
chờ Ngài? Chắc là không! Vậy thì thế nào là thái độ tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi
nơi chúng ta?
Tỉnh
thức không phải là không ngủ: Năm
cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Điểm khác biệt
là vào lúc nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra đón với đèn sáng
trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn đèn của các cô khờ dại thì đã
tắt ngúm mà lại không đem dầu theo. Lúc đó mới chạy đi mua, nên không kịp. Vậy
tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong
khi ngủ.
Tỉnh
thức là chu toàn bổn phận: Người
quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (Mt
24,45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy anh đang làm công việc được giao, thì đúng là
anh đã có thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành
và say sưa chè chén (Mt 24,49).
Tỉnh
thức là làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (Mt 25,31-46). Số nén vàng có thể nhiều hay ít tùy người,
và mỗi người cũng chỉ phải sinh lợi tùy theo số vốn đã nhận. Mê ngủ là đào lỗ
chôn giấu nén bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể
vì lười biếng, thụ động. Người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung tín
trong việc nhỏ, nghĩa là trung tín với ơn Chúa ban trong hiện tại.
Tỉnh
thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Ngài xuất hiện dưới dáng dấp của một người đói khát, rách
rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam (Mt 25,31-46).
Mê ngủ là để cho Chúa Giêsu ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận được chút gì
làm quà tặng.
Cuối
cùng, tỉnh thức là để cầu nguyện. Tỉnh
thức luôn đi đôi với cầu nguyện: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ
(Mc 14,38). Chúng ta đã làm nhiều việc cho Chúa, nhưng có thể vẫn chưa phải là
con người tỉnh thức và cầu nguyện. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên
trong thành công tông đồ, trong tiện nghi dễ dãi.
Tin Mừng hôm nay đưa
chúng ta vào bầu khí Mùa Vọng, mùa tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Trong cuộc sống
hằng ngày, nhiều khi chúng ta phải chờ đợi. Có sự chờ đợi làm ta sốt ruột, khó
chịu, nhưng cũng có sự chờ đợi làm cho cuộc sống hiện tại trở nên đầy ý nghĩa.
Dân Do Thái từ hơn 2000 năm trước đây cho đến nay vẫn sống nhờ vẫn còn chờ đợi
Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Sự chờ đợi như tăng thêm sức mạnh để con
người can đảm sống cái hiện tại hơn. Biết sống là biết chờ đợi. Chờ đợi làm nên
cuộc sống. Sống mà không còn gì để chờ đợi, kể như đã chết!
Mùa Vọng là thời gian
chờ Chúa đến. Cả lịch sử của nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa đến. Lần
nào Ngài cũng đến bất ngờ. Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang hình hài trẻ thơ yếu
đuối. Cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài cũng là bất ngờ, khiến
cho các môn đệ phải ngỡ ngàng. Kitô hữu là người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu
trở lại trong vinh quang. Đây cũng là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày
giờ Ngài trở lại. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh
em đang mê ngủ(Mc 13,33-37).
Chúa đã đến, sẽ đến,
nhưng Ngài vẫn đang đến trong thế giới, trong đời từng người, trong đời từng tập
thể. Nếu chúng ta tập lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được tiếng bước chân của
Ngài. Chúa đến với ta qua mọi biến cố của cuộc sống, kể cả những biến cố đau buồn.
Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo hội sống một Mùa Vọng mới, chúng ta hãy mở tâm
hồn ra tiếp đón Chúa: Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến! (Kh
22,20).
14. Hãy tỉnh thức – Noel Quesson
(Trích trong ‘Suy Niệm
Tin Mừng’)
Ngày kia, một sinh
viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng
tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ
luật.
Thánh nhân hỏi anh: -
Sau đó thì sao?
Chàng trai hăng hái trả
lời: - Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ thành công.
- Sau đó thì sao?
Thánh nhân hỏi tiếp.
- Rồi con nổi tiếng,
con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang.
- Rồi sao nữa? Nghe hỏi
tiếp, người thanh niên hơi bối rối.
- Dĩ nhiên rồi con
cũng chết như mọi người.
Thánh nhân vẫn tiếp tục
câu hỏi cũ:
- Sau đó thì sao? Con
sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên
Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?
Chàng trai im lặng cúi
đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
Cuộc sống của mỗi người
đều có một sứ mệnh do Chúa trao ban. Có thể đó là một nguồn vốn, một tài năng,
một nhiệm vụ. Và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ lại với Người. Điều đó chắc chắn,
và cũng chắc chắn là ta không biết thời gian phải tính sổ đó là lúc nào.
Để ứng phó với vấn đề
này, Chúa dạy ra luôn luôn tỉnh thức. Trong Tin Mừng, Chúa nhắc nhở nhiều lần:
Hãy cẩn thận, hãy luôn tỉnh thức. Ở đây, có thể hiểu về việc tính sổ cuối cùng
của cuộc đời mỗi người. Ai cũng phải sẵn sàng, bất cứ lúc nào, vì không ai biết
ngày giờ Chúa tới. Chúng ta cứ ước mơ, cứ xây dựng và dự tính tương lai, nhưng
đừng khi nào quên mục đích cuối cùng của cuộc đời và phải luôn tâm niệm: tất cả
đều do Chúa ban và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ. Chúa như một ông chủ đi xa, Ngài
trao cho các tôi tớ Ngài mỗi người một phần vốn, và một nhiệm vụ cụ thể. Mỗi
người phải tự mình xoay xở làm thế nào cho vốn Chúa ký thác được sinh lời.
Cha Charles de
Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên
khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức,
vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
Nhưng thái độ “tỉnh thức”
không chỉ ứng dụng vào cái chết, chúng ta còn phải luôn luôn tỉnh thức trong cuộc
sống hằng ngày, nhớ mình đang tham dự một cuộc chiến đấu gay go, trường kỳ. Phải
cẩn thận đón nghe, suy niệm Lời Chúa, nếu không, ta sẽ là người nghe mà không
hiểu gì (Mc 4,12); cẩn thận tránh men biệt phái và men Hêrôđê (Mc 8,15); cẩn thận
đừng lầm lạc theo các ngôn sứ giả mạo có cả những kẻ mạo danh Đức Kitô mà đánh
lừa chúng ta (Mc 13,5.23). Phải cầu xin Chúa trợ giúp để biết luôn tỉnh thức hầu
sống một đời Kitô hữu trung tín, xứng đáng với các ân huệ Chúa trao ban.
Lạy Chúa, chúng con
tin rằng Chúa đang đến và sẽ đến với chúng con bằng nhiều cách. Xin ban Thánh
Thần cho chúng con, nhờ Người trợ giúp, chúng con biết tỉnh thức, kiên trì cầu
nguyện, suy niệm và thực hành Lời Chúa mỗi ngày; nhờ Người, chúng con biết đón
nhận những vui buồn trong cuộc sống như hồng ân Chúa ban. Chúng con xin tạ ơn
Chúa.
15. Tỉnh thức để bảo toàn sinh mạng
(Trích trong ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Tai nạn giao thông
ngày càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho hàng chục
ngàn người mỗi năm tại Việt Nam.
Chưa từng có trận chiến nào trong lịch sử chiến tranh Việt Nam cận đại ngốn
nhiều nhân mạng và gây nhiều thương vong cho bằng tai nạn giao thông trên các
tuyến đường dọc theo chiều dài đất nước trong những năm qua.
Nguyên nhân chính gây
ra tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường
trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay.
Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp thời
khi tình huống xấu xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu nhiều
người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật,
say rượu bia thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như
chắc chắn. Người lái xe không tỉnh thức, vì ngủ gật hay vì ma men, là kẻ sát
nhân và là người tự sát, gây nên những hậu quả nghiêm trọng khôn lường cho nhiều
nạn nhân vô tội.
Chính vì thiếu tỉnh thức
dễ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giêsu đã nhiều lần
kêu gọi mọi người đừng mê ngủ nhưng hãy tỉnh thức dưới nhiều hình thức:
Tỉnh thức như người
tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Luca
12, 35-48); tỉnh thức như người chủ nhà canh phòng kẻ trộm thâm nhập giữa đêm
khuya (Mt 24, 42-44); tỉnh thức như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng
trách quán xuyến việc nhà mà không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc
đã được giao phó (Mc 13, 33-37. Lc 12, 42-46); tỉnh thức như những cô phù dâu
mang dầu đèn đi đón chàng rể có thể vào giữa đêm khuya mới đến. (Mt 25,1-13)
Trong các trường hợp
được nêu trên đây, việc tỉnh thức sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và sự ngủ mê
sẽ gây hậu quả tai hại.
* * *
Mỗi người chúng ta là
những người tài xế điều khiển chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận
mệnh đời đời của mình cũng như những người liên hệ.
Những nhà lãnh đạo cao
cấp của đất nước là những người lèo lái chiếc tàu quốc gia. Nếu những vị nầy
"mê ngủ", chắc chắn sẽ gây ra hậu quả đau thương cho đất nước, cho
dân tộc và cho thế giới. Đại biểu cho những "tài xế" kiểu nầy gồm những
nhân vật như Hitler, Stalin, Sadam Hussein và rất nhiều tên tuổi khét tiếng
khác.
Những nhà lãnh đạo
tinh thần của các tôn giáo là những người cầm lái cỗ xe tôn giáo, có trách nhiệm
uốn nắn lương tâm của số đông tín đồ, nếu không tỉnh táo thì cũng sẽ dẫn đưa
hàng vạn tín đồ của mình lao xuống vực thẳm bạo lực, chiến tranh tôn giáo hoặc
những hình thức khủng bố dã man như đã xảy ra lâu nay.
Những Thầy Cô giáo nắm
tay lái cỗ xe học đường, có sứ mạng đào tạo những mầm non hôm nay thành những
rường cột cho nước nhà mai sau, nếu không tỉnh táo thì sẽ đưa bao thế hệ học
sinh xuống vực.
Vị chủ chăn trong giáo
xứ hay bậc phụ huynh trong các gia đình cũng đều là những "tài xế" điều
khiển những chiếc xe Chúa trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng
suốt thì gây phương hại cho mình cũng như cho vô vàn người khác.
Người lái xe đường dài
ban đêm không bao giờ dùng bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức
ăn nước uống nào làm cho đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc
xe đời mình, chúng ta quyết không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục
vọng, những cơn lốc của đam mê... làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh
hồn, làm mê muội tâm trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình
theo đường lối Chúa Giêsu.
Người chạy xe đêm đường
dài cần đến cà phê, thuốc lá, nước tăng lực, khăn lạnh... để làm cho đầu óc
luôn tỉnh táo hầu tránh được tai nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống
mình cũng như những người liên hệ; thì chúng ta, những người đang lèo lái đời
mình qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn
cần Lời Chúa lay tỉnh, để khỏi gây gương mù làm hại linh hồn người khác và có
thể tỉnh táo, sáng suốt đưa đời mình, linh hồn mình về đến bờ bến bình an.
16. Trách nhiệm
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi
chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp lại tới bốn lần lời kêu gọi:
- Hãy tỉnh thức.
Nằm giữa những lời kêu
gọi ấy là một dụ ngôn ngắn kể lại rằng: Người kia sắp đi xa, để nhà cửa lại,
giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy
phải tỉnh thức luôn vì không biết chừng nào ông ta về. Sẽ không may mắn cho người
đầy tớ nào khi chủ bất thần trở về mà bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà ông chủ trao
cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô trao cho loài người chúng ta chịu
trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó. Cũng như Chúa dạy chúng ta
phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình và phải quản lý cuộc đời mình sao
cho phù hợp với ý muốn của Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương.
Rồi ngày kia, Ngài sẽ
xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Ngài sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng
ta hoàn thành nhiệm vụ của mình như thế nào. Chúng ta phải sống cuộc đời hiện tại
trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến, đó là ngày tận thế cũng
như ngày cuối cùng cuộc đời chúng ta. Vì qui hướng về Đức Kitô như thế, chúng
ta sẽ tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của
mình.
Chúa Giêsu đã đến, rồi
Ngài đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày quang lâm,
Ngài sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mắt muôn dân. Trong thời gian Ngài ẩn mình
đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Chúa sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng Chúa ẩn
khuất như thế chính là vì muốn tôn trọng chúng ta, muốn cho chúng ta nên người
trưởng thành.
Thực vậy, làm sao con
cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát lấy nó, lo cho nó từng ly từng tí. Dĩ
nhiên Chúa vẫn lo cho chúng ta ta nhưng có thể nói là một cách kín đáo, tế nhị,
không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của con người.
Có ba quan niệm dễ
dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:
Một
là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận
người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để lập luận rằng: Hãy
ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.
Hai
là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số
phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh. Nếu thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng
hy sinh hoặc sáng tạo.
Ba
là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh phúc thì ta còn có thể chờ kiếp
sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.
Quan niệm Kitô giáo về
cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một
quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức
nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của
mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do,
sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là
một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là
hãy sống có trách nhiệm.
17. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Nhìn vào xã hội, chúng
ta thấy trong bất kỳ lãnh vực nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác, có
nghĩa là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Thực vậy, trong một quốc
gia, để bảo đảm an ninh và trật tự, chính phủ phải luôn tỉnh thức bằng cách đặt
các đồn canh ở các nơi trọng yếu, rồi lại còn phải thường xuyên huấn luyện các
binh lính, công an và cảnh sát.
Trong một gia đình, muốn
không bị trộm cắp, nhất là vào những đêm tối trời, thì chúng ta cũng phải tỉnh
thức. Ngoài ra, lại còn phải nuôi thêm chó để canh giữ, làm cổng cho kiên cố, đặt
ổ khóa cho chắc chắn.
Trong phạm vi cá nhân
cũng thế, muốn được khỏe mạnh, thì phải sắm sẵn mũ áo, phòng lúc trời mưa cũng
như lúc trời nắng. Rồi lại còn phải sắm sẵn những thứ thuốc thông thường, phòng
khi cảm cúm bất ưng.
Chúng ta có biết khẩu
hiệu của hướng đạo là gì hay không? Tôi xin thưa: - Đó là khẩu hiệu: Sắp sẵn.
Powell, ông tổ của
ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần
kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín
ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi
binh.
Ở mặt trận, ban ngày
thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một
vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối
phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có
liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã
dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước
Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên
phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích
cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo
là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Đối với việc linh hồn
của chúng ta cũng vậy. Có nghĩa là chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng bằng
cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những tính hư tật xấu, đồng thời cố gắng
thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để bất kỳ lúc nào Chúa viếng thăm
chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: - Lạy Chúa, này con xin đến.
Nhờ đó, chúng ta sẽ được
Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
Để kết luận tôi xin kể
lại một mẩu chuyện như sau:
Có một du khách, sau
khi đã thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở Thụy sĩ. Ông ta dừng chân trước một
vườn hoa đẹp bao quanh một tòa lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ đón chào. Ông
bèn lên tiếng hỏi:
- Cụ ở đây đã bao lâu
rồi?
- Thưa hai mươi bốn năm.
- Có lẽ chủ của cụ ít
khi tới đây.
- Vâng, tôi chỉ mới gặp
ông chủ có bốn lần mà thôi và lần cuối cách đây đã mười hai năm.
- Thế thì ai thưởng thức
cảnh đẹp mà cụ phải tốn công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy?
- Thưa ông, tôi làm
như thể chủ tôi sẽ đến hôm nay, ngay bây giờ và ngoài ra, khi chăm sóc cho thửa
vườn thì chính vợ chồng tôi được thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa trước hết.
Nếu như Chúa đến viếng
thăm chúng ta ngay lúc này thì liệu chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay chưa?
18. Sự mê ngủ
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”. Lời kêu gọi
“Hãy tỉnh thức” này cũng có ý nghĩa cả đối với chúng ta. Đây là một lời kêu gọi
rất phù hợp khi mở đầu năm phụng vụ mới.
Người ta nói rằng mỗi
năm, những con chim sẻ đều quay trở lại tổ vào đúng thời điểm. Bằng mọi cách,
chúng phải kết thúc chuyến bay tại cùng một địa điểm. Điều này nói gì với chúng
ta về những con chim sẻ? Chúng là những tạo vật sống theo thói quen.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Ngoại
trừ những đứa trẻ còn rất nhỏ, tất cả chúng ta đều là những tạo vật sống theo
thói quen ở mức độ lớn. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa phần sau của cuộc đời
mình tuỳ theo những thói quen đãđược hình thành từ nửa phần đầu cuộc đời. Điều
đó sẽ đem lại dễ chịu cho người đã hình thành được những thói quen tốt. Nhưng sẽ
gây rắc rối cho người nào đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Thói quen có khía cạnh
tích cực. Sự lập đi lập lại là điều cần thiết. Đây là một công việc cực nhọc đều
đều và là một kỷ luật nghiêm khắc, nhưng có thể đem lại kết quả. Các vận động
viên đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng sự lập đi lập lại có thể tạo ra những
thành quả. Chỉ bằng cách đó, người ta mới làm chủ được một kỹ năng. Từ đó,
chúng ta có thể đạt được những hành động hoàn hảo nhất, mà không cần phải cố gắng
gì cả, bởi vì qua hàng loạt thói quen đã được khắc sâu, chúng trở thành một bản
chất thứ hai đối với chúng ta.
Những thói quen có thể
thông truyền và duy trì sức sống. Thói quen và công việc hằng ngày có thể giúp
chúng ta tiếp tục tiến tới, và vượt qua được những thời điểm khó khăn, khi mà cả
những thói quen hằng ngày nhỏ bé nhất đều trở nên có ý nghĩa.
Nelson Mandela cho
chúng ta một ví dụ về điều này. Khi viết về thời gian ở tù, ông nói “Để tồn tại
được ở trong tù, người ta phải triển khai những cách thức để đạt được sự thoả
mãn trong cuộc sống hằng ngày. Người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu bằng cách
giặt giũ quần áo, quét hành lang…”
Nhưng thói quen cũng
có khía cạnh tiêu cực. Cuộc sống có rất nhiều sự lập đi lập lại, đặc biệt trong
công việc. Khi làm cùng những công việc đó hết ngày này sang ngày khác, chúng
ta dễ đi vào lối mòn, để rồi cuối cùng, chúng ta thường chỉ làm việc theo thói
quen mà thôi. Điều này đưa đến hậu quả là chúng ta có thể làm việc mà không ý
thức, theo một cách thức vô tình, không cần suy nghĩ gì cả. Trong những công việc
này, người ta không hề thực sự có tâm hồn hoặc cảm giác. Tình trạng này thật
đáng buồn và huỷ hoại tâm hồn.
Thói quen có thể là một
nhân tố gây u mê, làm lu mờ các giác quan, đặc biệt là đối với thị giác và
thính giác. Thói quen có thể đưa chúng ta đi vào giấc ngủ mê, để rồi chúng ta
không còn sống động nữa, mà chỉ biết hành động theo thói quen mà thôi.
Ngoài ra, thói quen có
thể mang tính ích kỷ, rất khó bẻ gẫy, đặc biệt là đối với những thói quen xấu.
Chúng ta vẫn có thể quen thuộc đối với bất cứ thứ gì, ngay cả đối với các bức
tường của nhà tù. Ban đầu, bạn ghét chúng, thế rồi bạn quen thuộc với chúng, và
sau đó, bạn lệ thuộc vào chúng.
Nếu bạn đặt một con ếch
vào một nồi nước nóng, thì nó sẽ nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu bạn đặt một con ếch
vào một nồi nước lạnh, rồi từ từ đun sôi lên, thì nó sẽ chỉ ngồi yên ở đó. Hệ
thần kinh của nó quá sơ đẳng, nên cần một cú xốc nẩy đột ngột, thì nó mới nhận
ra rằng mình đang gặp nguy hiểm.
Có lẽ đó là mục đích của
Mùa vọng, khi đưa ra một lời mời gọi tỉnh thức, cung cấp cho chúng ta một cơ hội
bắt đầu lại. Chúng ta có thể dễ dàng trở thành những Kitô hữu chỉ theo thói
quen. Chúng ta có thể chỉ sinh hoạt, tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng
đã bị mất đi tất cả nét tươi mát và ý nghĩa. Chúng ta không còn biết lắng nghe
Tin mừng nữa.
Mùa vọng kêu gọi chúng
ta tỉnh thức, để rũ bỏ lớp bụi của công việc hằng ngày và thói quen, và một lần
nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
19. Những đầy tớ
Trong bài Tin mừng hôm
nay, có một dụ ngôn ngắn, nói về người chủ nhà có nhiều đầy tớ. Một lần kia,
trước khi trẩy đi phương xa, ông gọi họ lại và trao cho mỗi người một việc. Ông
hối thúc họ phải giữ trách nhiệm bằng cách nói với họ “Khi tôi trở về, tôi muốn
rằng anh em phải tỉnh thức”. Ông ta ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức đặc
biệt.
Câu chuyện của Đức
Kitô chấm dứt ở đó, với lời cảnh báo vang lên ở tai chúng ta. Chúng ta hãy xem
xét đôi chút, bằng cách tập trung vào người giữ cửa. Có lẽ sự nguy hiểm lớn nhất
trước mặt anh ta không quá nhiều, đến nỗi anh có thể ngủ ngay trong giờ làm việc,
cho bằng vì anh ta có thể càng ngày càng quen thuộc đối với công việc đó.
Lúc đầu, anh ta hoàn
toàn phấn khởi với công việc này. Anh cảm thấy hãnh diện vì được chủ tin tưởng
nơi anh nhiều đến thế. Anh thích bộ đồng phục. Khi mặc bộ quần áo này, anh cảm
thấy mình trở thành một con người khác hẳn. Anh ý thức rằng mình phải rất cẩn
thận. Đối với anh, đó không phải là một việc quá nặng nề, cho bằng đó là một
công việc của lòng quí mến.
Nhưng thời gian trôi
qua, có thể công việc mở cửa và đóng cửa trở nên nhàm chán, cảm giác mới lạ bị
hao mòn. Lớp bụi của thói quen tích lũy trên con người và trên thế giới của anh
một cách từ từ nhưng chắc chắn, thay vào đó, là một công việc chán chết. Anh vẫn
còn có tinh thần trách nhiệm, vẫn còn liên tục giữ vị trí của mình. Nhưng anh
chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Lòng quí mến và cảm hứng ban đầu đã
bay đi hết. Anh không còn đặt cả tâm hồn mình vào công việc nữa. Khi ông chủ trở
về, chắc chắn ông sẽ nhìn thấy anh ta đang làm việc. Anh ta sẽ tỉnh thức, nhưng
anh không còn sống động nữa. Anh sẽ bị tê liệt, bởi vì anh đã đánh mất tâm hồn
của mình rồi.
Thói quen bóp chết
chúng ta một cách từ từ, và sau cùng tiêu diệt tất cả mọi sự sống. Chúng ta bị
chìm ngập trong những lối mòn của truyền thống và sự tùng phục. Chúng ta quên
đi rằng mình đã từng có những giấc mơ. Chúng ta cứ ngồi yên một chỗ, trong khi
thực hành những thói quen cũ kỹ và không có hiệu quả, rồi phê phán tất cả mọi sự
và tất cả mọi người.
Những gì xảy đến cho đời
sống bình thường, thì cũng xảy đến cho đời sống kitô hữu của chúng ta. Chúng ta
có thể đi vào một lối sống hằng ngày nhàm chán, hậu quả là chúng ta chỉ là những
Kitô hữu theo thói quen. Chúng ta chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi.
Chúng ta đang tham gia vào những lễ nghi phụng vụ đã bị mất đi tất cả ý nghĩa
và nét tươi mát. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa. Lời Chúa chỉ đi
vào tai này rồi trôi qua tai kia. Dưới cái nhìn của chúng ta, gương mặt của Đức
Kitô đã bị tiêu tan.
Vậy chúng ta phải có
giải pháp nào? Đôi khi, chúng ta cần được xáo động lên. Đó là khi Mùa vọng đến.
Mùa vọng đưa ra một lời mời gọi “Tỉnh thức” mạnh mẽ đối với chúng ta, cung cấp
cho chúng ta một cơ hội để rũ bỏ lớp bụi của thói quen, và một lần nữa, để cho
Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Chúa đang đến. Người sẽ
đến với chúng ta vào giờ chết, và đến với thế giới vào thời sau hết. Chúng ta
không biết Người đến vào ngày nào hoặc giờ nào. Bất cứ thời điểm nào đều cũng
không phù hợp đối với người đầy tớ không trung tín. Nhưng bất cứ thời điểm nào
đều cũng phù hợp với người đầy tớ tín trung. Người đầy tớ trung tín không e sợ
Chúa đến: Họ sẵn sàng tiếp đón ngày đó.
Chúng ta phải luôn sẵn
sàng. Bằng cách nào? Bằng cách trở thành những người đầy tớ sống động, cảnh
giác và có tinh thần trách nhiệm của Chúa và của nhau.
20. Hãy tỉnh thức
1-
Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một
nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người có lý trí. Khi ngủ ta mất hay
ít ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi tỉnh thức. Việc Chúa Giêsu đã giáng trần
để cứu chuộc nhân loại sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống con người nếu
chúng ta không ý thức. Ngài vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người. Sự
vắng mặt này gây nên các vấn đề rắc rối và tạo nên những bi kịch trong cuộc sống
nhân sinh. Nó gây ra đau khổ, và chết chóc.
Trong một cuộc phỏng vấn
qua ca khúc “Bông Hồng Cài Ao”, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ rằng nhận
thức sự có mặt của mẹ trong đời, đó là điều làm nên hạnh phúc của những người
con. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta có thể nói rằng nhận thức sự hiện diện của
Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Người là điều cần thiết tạo nên hạnh phúc của người
Kitô hữu.
2.
Tỉnh thức để cảm nhận được những dấu tích của Thiên Chúa xung quanh chúng ta nếu chúng ta biết cách đón nhận. Đức
Tổng Giám Mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết thời danh của Hoa Kỳ vào những thập
niên 60 và 70 thường ví vũ trụ giống như một cửa sổ được ghép bằng những ô kính.
Qua cửa sổ ô kính của thế giới hữu hình chúng ta có thể đến để nhìn ra Đấng Vô
Hình, sức mạnh và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ký giả Kitô giáo Malcolm
Muggeridge đã diễn tả điều này như sau: “Mọi điều lớn hay nhỏ xảy ra là một dụ
ngôn qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta, và nghệ thuật của đời sống chính là
thu thập được cái thông điệp đó”. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy
những làn sóng điện và âm thanh phát ra trong không gian. Chúng ta không biết
nó và không nhận ra nó cho đến khi có một cái máy thu nhận làn sóng điện –
receiver – như là radio, tivi, điện thoại di động, computer… Bật máy lên sử dụng,
một thế giới thông tin với hình ảnh, âm thanh và tin tức mở ra cho chúng ta. Tất
cả sự thông tin thú vị và phong phú này đến với chúng ta chỉ khi nào chúng ta
biết đón nhận chúng. Tiếng nói của Thiên Chúa giống như những làn sóng radio
hay làn sóng điện toán trong không gian, vây quanh và thấm nhập vào thế giới của
chúng ta. Và mỗi người có một cái máy tiếp nhận làn sóng tinh thần ở bên trong
giúp chúng ta cảm nhận được những dấu chỉ và cho phép lắng nghe được tiếng nói
của Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy cái radio, computer tinh thần này ở bên trong mỗi
người như một thứ giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu này chính là lương tâm
và đức tin. Khi chúng ta qui tụ nhau lại thờ phượng Thiên Chúa nơi nhà thờ,
tham dự bàn tiệc Thánh Thể, rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô qua hình bánh và
rượu, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào và thánh thiện của Ngài
giữa chúng ta.
3.
Tỉnh thức để xa tránh tội lỗi:
Trong bài Phúc âm, thánh Marcô dùng hình ảnh của một người canh giữ cửa. Một
người canh giữ cửa tỉnh thức và chờ đợi chủ trở về. Không ngủ mê trong yếu đuối
xác thịt và tội lỗi. Cũng không canh giữ theo kiểu các chú học trò tinh nghịch
nhìn qua khe cửa xem thầy giáo đã trở về hay chưa để phá phách! Trước Giáng
sinh năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy tụ hơn 2000 trẻ em của một
giáo xứ ở Rôma. Bằng cuộc đối thoại, ngài dạy giáo lý cho các em và hỏi: “Làm
thế nào các con sửa soạn mừng lễ Giáng sinh?” “Bằng cầu nguyện” từ phía sau các
em la to. “Rất tốt, bằng cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng nói, nhưng cũng phải bằng
việc đi xưng tội nữa. Các con phải đi xưng tội để có thể lên rước lễ sau đó nữa.
Các con có làm như thế không?” Hàng ngàn trẻ em trả lời trong cùng một tiếng lớn
giọng hơn: “Chúng con sẽ làm!” Và Đức Giáo Hoàng nói với các em. “Phải, các con
nên đi xưng tội”. Rồi ngài hạ thấp giọng xuống thì thầm, “Đức Giáo Hoàng cũng sẽ
đi xưng tội để đón tiếp Chúa Giêsu Hài đồng một cách xứng đáng”.
4.
Tỉnh thức vì Thiên Chúa đến rất bất ngờ:
Thiên Chúa đến với chúng ta qua mọi hình thức, mọi biến cố trong cuộc sống,
ngay cả sự chết, và sau cùng trong ngày phán xét chung, tận thế. Chúng ta phải luôn
sẵn sàng đón tiếp Ngài, nhất là những lúc chúng ta không ngờ. “Ta đến như một
tên ăn trộm, hạnh phúc cho những ai tỉnh thức”. Trên chiếc máy bay phản lực 747
vừa cất cánh rời phi trường ở Nữu Ước bay đi Rôma, có một bà cụ già tên là
Maude, ngồi ở bên cửa sổ. Cụ để dành tiền trong nhiều năm trời mới đủ để làm một
chuyến hành hương Rôma như cụ hằng mong ước. Đây là lần đầu tiên cụ đi máy bay,
nên cụ lo sợ và kinh hoàng. Cụ cứ lầm bầm cầu xin: “Lạy Chúa, con phải làm gì ở
trển đây?” Mặc dù phía trước cụ có 4 vị giám mục cùng sang Rôma dự hội nghị, cụ
vẫn cứ run sợ. Cụ sợ rớt máy bay mà chết! Sau cùng đang lúc run sợ, cụ liếc trộm
ra ngoài cửa sổ, chẳng may gặp đúng lúc một trong bốn động cơ của phản lực không
còn hoạt động được nữa, và máy bay biến vào đám mây bên dưới. Cụ la hét lên
kinh hoàng: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô trưởng đoàn chiêu đãi
viên hàng không lập tức đến bàn hỏi ý kiến với phi hành đoàn, rồi thông báo cho
tất cả hành khách biết rằng mọi sự sẽ êm đẹp: “Xin quý vị an tâm, viên trưởng
phi công bảo đảm với quý vị rằng ông ta có thể điều khiển máy bay quay trở về
New York và đáp xuống an toàn với 3 động cơ”. Nhưng bà cụ cứ la hoảng lên:
“Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô chiêu đãi viên lại phải đến trấn an
cụ lần nữa: “Cụ ơi, cụ đừng lo, Chúa đang ở với chúng ta. Máy bay của chúng ta
chỉ có 3 động cơ thôi, nhưng xem kìa, chúng ta có tới 4 vị giám mục cơ mà!”
Nhưng bà cụ trả lời: “Thôi, tôi muốn có 4 động cơ và chỉ cần 3 giám mục là đủ!”
Hôm nay Chúa nói với chúng ta rằng: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con
không biết lúc nào chủ nhà trở về… kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng
con đang ngủ”. “Hãy tỉnh thức”. Bà cụ hoảng sợ vì không ngờ thời giờ lại đến
ngay vào lúc cụ chưa sẵn sàng. Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi
đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả “.
21. Luôn tỉnh thức – Lm Nguyễn Hữu An
Từ thuở tiểu học chúng
ta đã thuộc lòng 2 câu ca dao:
"Đồng Đăng có phố
Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa
Tam Thanh".
Nàng Tô Thị ôm con chờ
chồng, mỏi mòn đợi chờ, mịt mù xa thẳm để rồi hóa đá. Hòn vọng phu là một di
tích văn hóa của dân tộc. Hòn Vọng Phu như là một biểu tượng lòng thủy chung của
người vợ đợi chờ chồng. Linh Mục Thiện Cẩm, Dòng Đaminh, đã ví von: "Đối với
tôi, Hòn Vọng Phu có một ý nghĩa biểu tượng khác. Nó như là biểu tượng Giáo Hội
đang ôm ấp cả nhân loại trong lòng và đứng thẳng trên cao, nhìn vào chân trời
xa thẳm, đợi chờ Đức Giêsu - vị Hôn Phu của mình đang ngự đến, như lời sách Khải
Huyền đã viết: Thần Khí và Tân nương nói: "Xin Ngài ngự đến... Lạy Chúa Giêsu,
xin Ngài ngự đến" (Kh 22, 17-20).
Toàn bộ cuốn Thánh
Kinh kết thúc như vậy. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu. Kinh Thánh là một câu chuyện
tình giữa Thiên Chúa và nhân loại mà phần lớn được diễn tả bằng ngôn ngữ tình
yêu nam nữ, vợ chồng. Xin nhắc lại vài câu Thánh Kinh cũng đủ nói lên điều ấy:
"Ngươi sẽ được
Thiên Chúa đem lòng sủng ái
Và Chúa lập hôn ước
cùng xứ sở ngươi
Như trai tài sánh
duyên cùng thục nữ
Đấng tác tạo ngươi sẽ
cưới ngươi về
Như cô dâu là niềm vui
cho chú rể
Ngươi cũng là niềm vui
cho thiên Chúa ngươi thờ". (Is 66, 4-5)
Thánh Phaolô trong 2
Cr 11, 2; Ep 5, 26-27 đã diễn tả Giáo Hội là Hiền thê, là bạn trăm năm của Đức
Kitô. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu là một hình ảnh đẹp biểu trưng lòng tín
trung của Giáo Hội đối với Chúa Kitô.
Phụng Vụ Giáo Hội đã
bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Mẹ Giáo Hội đang ôm ấp tất cả con
cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến. Ngự đến trong
thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng
đến ngày 16.12, Phụng Vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời
gian; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến Sinh Nhật của Đức Giêsu.
Theo tinh thần canh
tân Phụng Vụ, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi.
Các Chúa Nhật trong Mùa Vọng không đọc Kinh Vinh Danh không phải vì đặc tính đền
tội của Mùa Chay, nhưng là để bài ca của các Thiên Thần được xem như là một tiếng
hát mới mẻ trong đêm Giáng Sinh.
Mùa Vọng cũng là mùa của
những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ,
loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ
ràng trong các bài đọc Chúa Nhật.
- Bài đọc 1 trích
trong sách I-sai-a, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là
Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bê-lem một Hài Nhi thuộc chi
tộc Đa-vít và sẽ được gọi là Em-ma-nu-en.
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật
I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh
thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho
Chúa. Chúa nhật IV là Chúa Nhật Truyền Tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
- Các bài đọc 2 là các
bài Thánh Thư của các Thánh Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng
trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Lời Chúa Chúa Nhật I
Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là hãy tỉnh thức, tỉnh thức để để đón chờ
ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người
và đối với cả nhân loại. Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh
thức vì đó là ý muốn, là mệnh lệnh của Chúa. Tỉnh thức và đợi chờ là lời mời gọi
của Chúa đối với mỗi ngày sống của mỗi người.
Kitô giáo là tôn giáo
của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành
tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn
hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi Lời Hứa Cứu Độ đã được
thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương
lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng
chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn
đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường. Niềm hy vọng
cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu tìm hạnh phúc hiện
tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia
đình, làng xóm, xã hội sống công bình, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Ai thấy rõ đường
đi thì càng vững tâm mà đi.
Chỉ có một Đức Kitô,
chỉ có một Giáo Hội là bạn trăm năm của Người. Giáo Hội không chỉ là Trinh Nữ,
là Hiền Thê mà còn phải là Mẹ. Do đó hình ảnh người Mẹ bồng con là hình ảnh thích
hợp để biểu tượng cho Giáo Hội. Hình ảnh Hòn Vọng Phu tượng trưng cho Mẹ Giáo Hội
đứng trên đỉnh núi giữa trời mây sông nước, ẵm chặt vào lòng đứa con của sự sống
là tương lai và hạnh phúc của mình hướng về trời cao với niềm hy vọng là Đức
Kitô. Mẹ Giáo Hội cưu mang các thực tại của mọi dân tộc là sự sống, là tương
lai, là hạnh phúc để nuôi dưỡng và ấp ủ cho đến ngày hoàn toàn viên mãn, ngày Đức
Kitô ngự đến.
Mùa Vọng được khai mở
với lời mời gọi của Đức Giêsu: Hãy tỉnh thức.
Bước đầu là bước quyết
định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như sách Nho có câu: nhất nhật
chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân (Kế hoạch một ngày hệ tại giờ
ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức là thái độ sống
của người tín hữu suốt Năm Phụng Vụ.
Xin Chúa cho chúng con
như ngọn đèn chầu trong Nhà Thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa.
22. Phải tỉnh thức và sẵn sàng - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu biết trong tuần
tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn có làm gì
khác lạ hơn bình thường không? Tại sao?
2. Tỉnh thức nghĩa là
là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức.
3. Để tỉnh thức theo
tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm những gì?
Suy tư gợi ý:
1.
Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì ...
Chúng ta thử xét một
cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi
được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến “thăm” nhà ta tuần này.
Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ
trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không?
Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái
còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta
sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề
phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng
lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi,
lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải
vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của
ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo
lắng canh giữ?
2.
Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của
ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm
cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở
thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và
định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết.
Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà
cao tầng ở New York
ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn
ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số
cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở
trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất
kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng
lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng
như thánh Phao-lô nói: “Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết
bao!" thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” (1Tx 5,3). Cái chết đến
quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào,
và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng.
Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời
sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha,
yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là “hình ảnh của Thiên Chúa”
cũng là “con cái Thiên Chúa”, thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi
trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái
lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh
đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống
trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa.
Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: “Cây tốt thì sinh quả
tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu
thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho
người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi,
thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc
và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết
yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho
mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng,
buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3.
Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân,
Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế
để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của
mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả
mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài
sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi
chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp,
mọi giai cấp, mọi tập thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn
hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí
mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất
cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được
tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính
hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của
mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp
lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui
mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được
mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của
mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn,
nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác,
vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều
bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4.
Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như
kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời
của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào
cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày
đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là
thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ
quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên
mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà
tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức.
Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt
nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ
bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của
bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng
với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh
phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là
tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều
tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn
là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối
cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những
điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình
không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công
chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể
làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể
như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không
xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã
không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không
có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với
hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở
nên “mê ngủ”, mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần
tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những
quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng
trước bất công...), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu
khống, gây bất công, thù oán, giết người...) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta
say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở
thích...), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng
lễ, đọc kinh, cầu nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận
mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu
đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19).
Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của
ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là
luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha
nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất
nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên
là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê
làm tông đồ, đam mê làm ăn... có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối
với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng
xóm... Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh
phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
23. Mở rộng tâm hồn đón Chúa - Lm Nguyễn Bình An
“Trời cao xin đổ sương
xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu
dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt
tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian
truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy
vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới
đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa
lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất
lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản
thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi
những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao,
thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên
nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây
cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng,
bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau
nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “Mẹ ơi, con muốn chết bây
giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên
đàng”. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi
trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ
sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng
khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành
đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên
lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui
gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt,
ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định
là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng
sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và
chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương
và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không
giúp.
Trời vẫn ban mưa. Cứu
Tinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn.
Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời
ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá
lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển
mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn.
Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. “Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người
không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta
không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa
sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho
bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải
khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều
kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước.
Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực
cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón
Chúa.
Chúa trên cao đang
giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang
tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
24. Người giữ cửa canh thức ban đêm
(Chú giải của Lm. FX
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bài này rút từ Diễn từ
cánh chung (ch.13) của Tin Mừng Marcô là chương nói về những vấn đề của thời buổi
cuối cùng. Diễn từ này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hãy tỉnh thức.
Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với
(13,3), nhưng nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi này được tác giả
Mc nêu bật bằng hình ảnh người giữ cửa.
Vậy “tỉnh thức” trong
Mc 13 có nghĩa là gì? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không phải chỉ có nghĩa
đen ấy.
2.- Bố cục
Đoạn văn này được bố cục
theo kiểu cấu trúc đồng tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35:
a: Lời kêu gọi “tỉnh
thức” gửi đến các môn đệ (c. 33);
b: Dụ ngôn người chủ
đi xa (c. 34);
c: Lặp lại lời kêu gọi
mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35);
b’: Tiếp nối dụ ngôn
người chủ đi xa trở về (c. 36);
a’: Lặp lại lời kêu gọi
“tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37).
Chúng ta cũng có thể
thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ý tưởng ta không biết thời
gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.
Anh em phải coi chừng,
phải tỉnh thức (33a)
Vậy anh em phải canh
thức (35a)
vì anh em không biết
khi nào thời ấy đến (34c)
vì anh em không biết
khi nào (35b)
phải canh thức (34c)
không được ngủ (36b)
3.- Vài điểm chú giải
-
hãy tỉnh thức (33): Tác giả dùng động
từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite; đây là một từ của
nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các
bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc 21,36; Ep 6,18; Dt 13,17).
-
cũng như người kia trẩy phương xa..., và ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi phương xa,
thì “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ” là hợp lý rồi. Còn “chỉ định cho mỗi
người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là cách bố trí của
người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ý đến việc “canh thức”
ban đêm? Ở đây tác giả Mc nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi
tỉnh thức, dụ ngôn những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với
dụ ngôn người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ý nghĩa của
“đêm”. Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những nén bạc” như trong Mt và Lc.
-
lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (35): Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo
dài 3 giờ. Còn người Do Thái quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl 7,19; Lc 12,38).
Nhưng tại sao bài Tin Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?
Trong nền văn chương
Do Thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”, còn tương lai được
ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói về “đêm” theo
nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng hạn lời ông Bôa
nói với bà Rút: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (#150 sau CN)
trích quy chiếu về “thế gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R. 6,4). Các kinh sư
thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng
tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya”)
cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a
như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là câu nhắm đến thế giới hiện
nay, được so sánh với đêm tối.
Giống như các kinh sư,
thánh Phaolô đã dùng những ý tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ hiện tại cho đến
ngày Quang Lâm (Rm 13,12). Vì thế, ông đã kêu gọi người Rôma: “Đã đến lúc anh
em phải thức dậy” (13,11), vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, vì “đêm sắp
tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông còn nói: “Vì chính anh em đã
biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Hình ảnh “kẻ trộm
đến ban đêm” không có trong nền văn chương Do Thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi
(Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc
truyền thống Ki-tô giáo bắt nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người
Thêxalônica hãy tỉnh thức (1 Tx 5,6).
Vậy lời kêu gọi hãy tỉnh
thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya phải được hiểu
theo chiều hướng này.
Nhưng làm thế nào dung
hòa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn hạn)?
Trong văn chương Do Thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một
bà chủ nhà có một nữ tỳ Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ
nói với bà: “Tôi đẹp hơn bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi
chúng ta sẽ biết ai là người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài
tường thuật tiếp: Các dân nước nói với Israel: “Các hành vi của chúng tôi
thật đáng khen, và Đấng Thánh – xin chúc tụng Ngài – hài lòng về chúng tôi”. Rồi
bài quy chiếu về Is 21,12 mà giải thích rằng “buổi sáng” đang đến là thời gian
tương lai (Dân số R. 16,23 [70b]).
Bài dụ ngôn này cũng
có những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm
tối chính là thời gian hiện tại với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu.
- phải canh thức (36):
Trong nền văn chương Do Thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một
viễn tượng quốc gia. Israel
lúc đó đang bị các vương quốc của thế gian áp bức, chà đạp. Nhưng trong tương
lai cánh chung, hoàn cảnh sẽ đảo ngược, Israel sẽ chiến thắng, sẽ nhận được
danh dự và vinh quang. Đó là “ngày”.
Trong Tân Ước, giọng
điệu ái quốc này không còn nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những quyền
lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế
gian đang nằm dưới quyền của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đã quay lưng lại với
Ngài, là nguồn ánh sáng. Vì thế, thời gian hiện tại chính là thời kỳ của bóng tối
và đêm khuya.
Tuy nhiên, khi Đức
Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh sáng đã ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức
Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc 2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin
vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, thì không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19;
Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đã được giựt ra khỏi vương quyền
của bóng tối (Cl 1,13), dù đã trở thành con cái ánh sáng và ban ngày (1 Tx
5,5), người ấy vẫn còn sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn còn ở trong một
hoàn cảnh có thể bị cám dỗ, có thể sa ngã, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm
bắt lại. Để mình bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông mình theo những
chuyện thế gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với
“đêm”: “giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi vì người ta ngủ ban đêm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời
kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (33)
Lời kêu gọi mở đầu này
xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải
canh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm.
* Dụ
ngôn người chủ đi xa (34)
Điểm chính của dụ ngôn
là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người ta không thể tiên liệu. Ông có thể
về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc người giữ cửa phải canh thức liên tục.
Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính vì thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều
hành các công việc của nhà và sinh lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là
“các gia nhân” vừa là “người giữ cửa”; họ phải vừa làm việc vừa canh thức. Có thể
hiểu đây là các vị lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu.
* Lặp
lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)
Lời kêu gọi được lặp lại
như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đã được giải
thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là lúc chủ
nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp bênh cách
biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng
sáng”.
*
Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (36)
Các môn đệ của Đức
Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được “ngủ”; họ vẫn sinh hoạt bởi vì
ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải canh thức. Bởi vì biến cố ông chủ
trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là “cùng làm việc”. Đức Giêsu đang
hành động trong thế giới để đưa đến một nhân loại mới. Người lôi kéo con người
vào làm việc với Người, làm cho họ thành những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người.
Nhưng để có thể cộng tác với Đức Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những gì
Người đang làm.
* Lặp
lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)
Lời kêu gọi ở đây
chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở c. 33, lời
kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đã xác nhận toàn bản văn bên trong
được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu gọi được gửi
rộng rãi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị lãnh đạo cộng
đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.
+ Kết luận
Vậy, “phải canh thức”!
Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện
ơn gọi của mình và ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm
hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính
cánh chung: hoàn toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến
trong tương lai. Theo nghĩa này, người tín hữu không thể canh thức nếu không chấp
nhận chiến đấu (Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1
Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ bây giờ, sống trước đời sống tương lai
(x. Rm 13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng
giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những
gì thuộc về thế giới, không sợ hãi loài người, không tìm danh vọng, không khắc
khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t).
5.- Gợi ý suy niệm
1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện tại trong
khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những người đã
được giải thoát, bởi vì bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng lòng nếu thấy các
môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách thức
thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.
2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm vui. Niềm vui
này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, vì nó trào vọt ra từ
một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức như thế còn là
sống trong bình an, cho dù có gặp phong ba bão táp, bởi vì chính Đấng Phục Sinh
đã cam đoan: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của
Thầy” (Ga 14,27). Cuối cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi
vì cái nhìn của chúng ta luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về
“ngày” đang lại gần.
3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu nói: “Đời sống
của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu thiu ngủ, những
giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn chăm chú và điều
độ của con tim nhân loại”. Còn Schweizer định nghĩa canh thức là như “thái độ
trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm Đức Chúa đến và
không để mình bị sao nhãng trong thái độ sẵn sàng thường hằng này đối với Ngài
bởi bất cứ điều gì”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức Giêsu.
25. Chú giải của Noel Quesson
Anh
em phải coi chừng, phải tỉnh thức
Từ “Hãy tỉnh thức” được
Chúa Giêsu nhắc lại bốn lần trong Tin Mừng Maccô.
Đó là lệnh truyền Đức
Giêsu, ngay trươc lúc Người lên đường. Bởi vì, trong Tin Mừng Maccô, cuộc Thụ
Khổ khởi sự liền sau trang này. Lạy Chúa, Chúa nhấn mạnh, Chúa yêu cầu chúng
con luôn luôn sống tỉnh thức “Tỉnh thức”. Khi sắp tới vườn Ghétsêmani. Chúa thấu
biết không một môn đệ nào của Chúa đứng vững. Thế nên, Chúa cố đề phòng cho họ:
Anh em phải tỉnh thức, tỉnh thức, tỉnh thức!
Lạy Chúa, xin hãy lặp
lại cho chúng con lời căn dặn như thế.
“Anh
em phải coi chừng”. Đức Giêsu thường sử
dụng từ này trong một bối cảnh cuộc “giao chiến”. Tình thức là để giao chiên. Tỉnh
thức là chú ý đặc biệt, trong trường hợp nguy hiểm. Cần phải “coi chừng” để
nghe lời Chúa (Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vuột
qua. Cần phải “ coi chừng”, để ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, nếu không nó thấm
nhiễn vào ta mà khong hay biết (Mc 8,15-12,38). Cần phải “coi chừng”, để không
tin những kẻ báo trước tương lai, như thể họ nắm vững (Mc 13,5-13).
Thánh Phaolo sẽ sử dụng
một thứ ngôn ngữ bi thiết để nói về thái độ tỉnh thức. Ngài đòi hỏi “thức dậy
ngay” (Rm 13,11). Chính vì chúng ta đều dễ bị đờ đẫn nên cần phải nghĩ tình trạng
mê mẩn sẽ xảy đến, khi ta lạm dụng nhiều thuốc ngủ. Đúng vậy, ta phải coi chừng
trước tình trạng mê ngủ của lương tâm: Phản ứng tự vệ không còn hoạt động nữa...
cũng như người lái xe vì uống quá nhiều, chỉ còn biết đâm đầu vào vật chắn cản.
Như thế cần phải “dứt mình” ra khỏi tình trạng mê ngủ! Hơn nữa, để nói về thái
độ “tỉnh thức”. Phaolô không ngần ngại sử dụng đến từ vựng về chiến tranh: Những
“vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8).
Lạy Chúa Giêsu. Hôm
nay, xin hãy lặp lại cho con “phải coi chừng”. Đời sống Kitô hữu luôn là cuộc
giao chiến với những quyền lực, xem ra mãnh liệt hơn chúng con. Lạy Chúa xin giữ
gìn chúng con biết tỉnh thức, cho giờ Chúa xuất hiện.
Vì
anh em không biết khi nào ngày giờ ấy đến...
Môn đệ của Chúa Giêsu
đặt cho Ngài câu hỏi: “Bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả sắp đến tận
cùng thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13,4). Đức Giêsu không trả lời câu hỏi này.
Các sấm ngôn đủ loại và thuộc mọi thời đại, đã báo trước ngày thế mạt cả rồi! Ở
đây, Ngài trả lời một lần dứt khoát: “Anh không biết được bao giờ”. Đức Giêsu
không muốn ta mất giờ mơ tưởng về quá khứ hay tương lai. Ngài đòi hỏi chúng ta
phải tập trung vào “giây phút hiện tại”, vào chính ngày Hôm nay: Vậy anh em hãy
tỉnh thức, vì anh em không biết... Anh em hãy luôn sẵn sàng.
Cha Charles de
Foucault đã coi lời sau đây như châm ngôn sống: “Cố sống mỗi ngày, như thể chiều
tối nay bạn sẽ chết”.
Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi,
chỉ định cho mỗi người một việc...
Thiên Chúa xem ra “vắng
mặt”, như thể người kia trẩy phương xa! Đây là hình ảnh đẹp, diễn tả chọn vẹn cảm
tình mà ta thường nghiện thấy: Lạy Chúa, sao Chúa ở xa quá! Chúa như là kẻ hoàn
toàn khác lạ! Nhưng ta nên lưu ý, đối với Đức Giêsu, thời gian vắng mặt nêu
trên, trước hết không phải là thời gian bất hạnh hay âu lo, nhưng là một thời
mang đầy trách nhiệm: Mỗi người đều nhận một phận vụ, một công việc. Hầu như ta
có cảm tưởng rằng ông “Chủ” này cố ý đi xa, để tạo cho các đầy tớ ông, một tầm
quan trọng, để họ khỏi phải lúc nào cũng ám ảnh tới ông: Nào, hãy đảm nhận lấy
trách nhiệm. Các bạn đâu còn là trẻ con nữa. Hãy quyết định, hãy suy nghĩ. Tôi
tin tưởng các bạn … Tôi giao cho các bạn “mọi quyền hành”! Lạy Chúa xin giúp
chúng con sống xứng đáng với trách nhiệm đã được Chúa giao phó: Trong gia đình,
trong phạm vi nghề nghiệp, nơi khu phố, trong đoàn thể này hay hiệp hội kia
trong Giáo Hội.
Ông
ra lệnh cho người giữ cửa canh thức …
Ban đêm, người giữ của
có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì bổn phận của ông là phải nghiêm chỉnh
“canh thức”, đề phòng để ngôi nhà khỏi bị tấn công bất ngờ, không mở cửa cho bất
cứ ai nhưng lại là người đầu tiên mở cửa đón tiếp ông chủ khi ông trở về. Thánh
Maccô quen đề cao vai trò của Phêrô trong nhóm Mười Hai. Khi phân biệt được người
giữ của với các đầy tớ khác, Đức Giêsu muốn lưu ý rằng, các vị chủ chăn trong
Giáo Hội được mời gọi một cách hết sức đặc biệt phải “tỉnh thức”: Phêrô vị Giáo
Hoàng, các Giám mục là những người đầu tiên có trách nhiệm tỉnh thức đối với
toàn thể dân Chúa, cũng như người giữ cửa có bổn phận chăm sóc toàn thể ngôi
nhà này. Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho những vị đang nắm giữ vai trò đó trong
Giáo Hội hôm nay.
Vậy
anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến.
Đức Giêsu đã nói đến
thời gian vắng mặt … Ngài cũng loan báo thời gian trở lại … Chúng ta sẽ đi tới
cuộc gặp gỡ này. Một ngày kia con sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt và con sẽ thực sự
nhận biết Chúa, như Chúa biết con (1Cr 13,12). Cuộc đời Kitô hữu là một hành
trình tiến tới cuộc gặp gỡ đó.
Ông
chủ sẽ trở về … vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.
Thật là kỳ lạ khi ta
nhận thấy Đức Giêsu chi gợi lên một cuộc trở về vào lúc đêm khuya! Thế mà tại
Đông phương xưa kia, vì sợ nguy hiểm trên đường đi, người ta thường không du
hành vào ban đêm. Chi tiết hơi kỳ di trên đây, mang một ý nghĩa biểu tượng,
Kinh Thánh thường nhắc đi nhắc lại. Đêm khuya, đó là thời gian của bóng tối, thời
gian của “quyền lực tối tăm” (Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng
chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách. Vì thế phải đặc biệt tỉnh
thức lúc đêm khuya. Cựu Ước mong đợi thời của Đấng Thiên sai như giai đoạn mà
bóng tối sẽ chấm dứt, để nhừng lại chỗ cho ánh sáng. Để diễn tả nỗi lòng mong ước,
ngôn sứ đã cất tiếng nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is
21,11). Và để tăng cường niềm hy vọng, Thánh Phaolô đã nói: “Đêm sắp tàn, ngày
gấn đến” (Rm 13,12). Để loan báo Noen, vào thánh lễ nửa đêm, Giáo Hội hát lên
cho chúng ta bài thơ tuyệt diệu của I-sai-a (9,1). “Dân đi trong tăm tối đa thấy
bừng lên một luồng sáng lớn”. Và trong mùa vọng, ta vẫn thường ca lên: các dân
tộc bước đi trong đêm dài, những ngày sắp tới … Đây là lúc hãy ngẩng đầu lên!
Hãy tỉnh thức trong
đêm tối. Hãy tỉnh thức trong những khó khăn … Hãy nắm giữ hy vọng, ngay cả khi
ta ở trong đêm đêm đen … Hãy đứng vững, khi mọi sự như sụp đổ. Như một bình
minh mới đang xuất hiện trong đêm tối đời ta. Thiên Chúa sắp đến để cứu độ dân
Người. Chính nhờ đêm tối ta dễ tin vào ánh sáng. Đề tài này Gioan Thánh Giá rút
ra được một xác quyết: Thiên Chúa vẫn có đó là nguồn tín nhiệm, hiện diện mãi
mãi, nhưng vẫn còn là đêm tối.
Lúc
gà gáy …
Maccô, thư ký riêng của
Phêrô đã đưa ra một so sánh tực tiếp. Ngay trước khi chịu khổ hình, trước lúc
vào vừơn Ghét-sê-ma-ni, nơi Phêrô sẽ ngủ thay vì phải tỉnh thức trước khi bước
vào đêm bi thảm mà tiếng gà sẽ nhắc cho Phêrô biết mình thiếu tỉnh thức (Mc
14,72), thì Đức Giêsu nói cho “người giữ cửa” của Giáo Hội cần phải tỉnh thức.
Nhưng ta biết, ông thiếu thái độ đó. Ôi! lúc gà gáy, Phêrô mới nhận ra tôi lỗi
và sự chối bỏ của mình! Điều đó cho ta nhận ra rằng, Giáo Hội cũng mang tính
nhân loại biết bao! Và điều đó mời gọi ta không nên thất vọng trước những yêu đuối
của Giáo Hội.
Ông
chủ có thể đến bất thần …
Thiên Chúa luôn đến bất
thần, không ngờ, đột ngột! Hầu như có thể nói được rằng, đó là dâu hiệu của
Thiên Chúa đích thực: Đấng hoàn toàn khác lạ! Mỗi lần ta tưởng mình đã xác định
phạm vi của Thiên Chúa, thấu hiểu và đặt nhãn hiệu cho Người, chắc chắn là ta
đã lầm lẫn về Thiên Chúa, đã lấy ước muốn ta làm thực tại. Lạy Chúa, xin giúp
con biết mở rộng tâm trí đón nhận sự mới mẻ trong cách Chúa hiện diện. Xin giữ
gìn chúng con luôn sẵn sàng trước việc Chúa đến viếng thăm cách bất ngờ.
Bắt
gặp anh em đang ngủ.
Trước Thiên Chúa, ta vẫn
thường mê ngủ … nên dễ sửng sốt. Cần phải thoát ra tình trạng mê ngủ thiêng
liêng, lờ đờ đó. Cần phải nỗ lực tự tạo một lối sống linh hoạt, cương nghị,
thay vì buông xuôi tới ù lì, mê ngủ. Lạy Chúa, xin giữ chúng con trong tình trạng
tỉnh táo, luôn tỉnh thức.
Thầy
nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức.
Đối với Đức Giêsu, sự
“hiện diện” của Chúa vẫn ở đó, giữa các biến cố ta đang sống. Lạy Chúa xin giúp
chúng con tỉnh thức, chú ý nhận ra sự hiện diện của Chúa. Xin giài thoát chúng
con khỏi tình trạng mê ngủ, khô nhạt, dễ làm chúng con không nhận ra Chúa vẫn
thường xuyên đến viếng thăm. Mùa vọng bắt đầu! Đây là thời gian “canh thức”…