LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
15. Hãy trở nên đền thờ sống động....Lm. Phêrô Lê văn Chính
17. Thân xác chúng ta là đền thờ ...Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
22. Hãy trả lại sự thánh thiêng Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
23. Nhà thờ trở nên cộng đồng Sưu tầm
24. Cung hiến đền thờ Latêranô Sưu tầm
25. Nhà thờ Sưu tầm
26. Latêranô Sưu tầm
27. Đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị Sưu tầm
1. Đền thờ mới
Theo
tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những
dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò,
cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa
đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này
ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của
nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải
đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở
thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước
cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài
đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những
người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng
những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi
đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý
nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà
Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của
người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc
buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn
không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người
Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa
Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa
Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ
ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của
Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực
vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có
thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại
ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả
lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện
diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa.
Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi
Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ.
Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý
nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng
thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người
chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo
của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta
bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước
Trời.
2. Latêranô và những ngôi Đền Thờ
(Suy
niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Kể
từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu
đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa
lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu
nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những
năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến
Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những
hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà
không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non
nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức
tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ,
cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc
về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm
của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối
tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào
khác có thể vượt qua!
Ngay
từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời
gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy,
một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện
hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu
tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau
một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm
313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo
hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một
nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng
lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu
sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó
là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng
cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay
từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương
Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan
Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và
là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan
trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
-
Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
-
Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang
nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một
ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ
chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau
khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công
khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ
dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
-
Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
-
Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống
động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề
dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi
Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn
là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa
thích ngự vào.
Ngoài
chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây
còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn
tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh.
Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng
chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế
kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua
các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ
Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái
thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.
11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng
trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng
lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm
này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng,
lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi
đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của
mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ
có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong
bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này
đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ
giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính
thân thể Người”.
Mừng
lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ
Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi
ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy
mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao
cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn
cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu
được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn
và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn
ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ
vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ
là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình,
nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao
nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy
Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây
nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết
cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi
trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là
những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con
người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
3. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Ga
2,13-22
Thánh
đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận
các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện
diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN
THỜ LATÊRANÔ
Đền
thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách
là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này
được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh
Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp . Đền thờ này
do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa
có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích . Đền thờ này đã được
cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất
ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để
dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt
ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ
Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo
giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết
bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh
Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN
THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày
nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người
Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới
dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức
Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục
và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa
chân cho các tông đồ.
Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện
cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
4. Đền thờ tâm hồn – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Kỷ
niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ
đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này,
Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ
này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1.
Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương
cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên
được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế
Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp
tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được
gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở
Rôma và trên thế giới.
Năm
313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế
Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính
Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả
Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ
như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế
kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của
Đức Giáo Hoàng.
Như
các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn,
hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây
lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh
đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông
Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại
với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính
Hoàng Đế Constantine
được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút
cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế
kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo
phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội”
với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng
chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN
2008).
2.
Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối
với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ
tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là
tháng 4 dương lịch.
Mọi
người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác
khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng
nhất này.
Dầu
sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại
Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong
dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế
Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền
thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong
việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền
thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách
hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều
người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng
siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi
tức đổi tiền thật là lớn.
Điều
khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi
tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta
nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên
cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương
mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc
các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn
không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải
trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua
trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng
trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới
danh nghĩa tôn giáo.
Chính
vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện
thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của
những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong
Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản
bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời
gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây,
Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất
cả.
Khung
cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên
náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán
sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành
nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi
làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao
trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền
thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến
Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên
ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế
là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì
nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng
nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga
15,5).
3.
Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
-
Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong
sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng
tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền
thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ
không phải là Đền thờ.
-
Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không
còn thích đáng nữa.
Các
ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào
có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê
Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng
tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái
độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật
đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
-
Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền
thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người
dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các
chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên
náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại
mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4.
Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa
Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm
hồn mình.
Đền
thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những
loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh
thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong
Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh
nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa
và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà
Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự
nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi
lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa
thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ
Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi
qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng
Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người
Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền
thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục
sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu
là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa
là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh
thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền
thờ vững bền.
Kỷ
niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ
đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này,
Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ
này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh
đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất
để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị
và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều
phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác
ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh
sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự
sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là
“thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên
Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy
Chúa Giêsu Kitô,
Chúa
đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành
nơi buôn bán, đổi chác;
Xin
Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng
con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
5. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô.
Trong
những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh
đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong
các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi
đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại
Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường
cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về
Vaticăn.
Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi
Thánh đường trên thế giới”.
Thánh
Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên
được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung
Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh
đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông
Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại
với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính
Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà
thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá
hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để
kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay.
Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là
nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh
Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được
thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo
giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng
ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi
thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền
thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của
ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến,
hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này.
Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ
nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội
thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi
vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng
Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái
sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì
vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung
hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động
của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà
thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn
ta như thế”.
“Bạn
muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi.
Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm
hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng
trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào
nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời
Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
+
Ghi nhớ
Hằng
ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ
Chúa ngự.
+
Lời nguyện
Lạy
Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền
thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin
cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên
thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng
con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
6. Đền Thờ Tâm Hồn – Enzodi
Khoảng
năm 312, hoàng đế Rôma Constantinô vừa mới trở lại Kitô giáo, đã dâng tặng Đức
giáo hoàng Miltiade (311-314) cung điện Latêrani trên núi Coelius. Một ít thời
gian sau, Đức giáo hoàng cho xây ở đây một thánh đường, đó là vương cung thánh
đường Latêranô, là ngôi thánh đường cổ nhất và có địa vị cao nhất trong số các
thánh đường của phương Tây. Một truyền thống nói rằng thánh đường này được Đức
Giáo Hoàng Sylvestre (314-335) cung hiến ngày 9 tháng 1 năm 324. Bảng chữ trên
cửa lớn của thánh đường ghi : "Mẹ và Đầu của mọi thánh đường". Thật vậy,
vương cung thánh đường này là nhà thờ chính của Đức giáo hoàng trên cương vị
Giám mục Rôma, nhưng vì ngài cũng là mục tử tối cao của Hội Thánh Công Giáo,
nên các nhà thờ thuộc nghi lễ Rôma trên toàn thế giới, khi long trọng mừng kỷ
niệm thánh đường Latêranô, thì đồng thời cũng mừng sự hiệp nhất hoàn vũ của Hội
Thánh Chúa Giêsu Kitô, và thánh đường là biểu tượng của sự hiệp nhất đó.
Ban
đầu thánh đường được cung hiến dưới tước hiệu Vương cung thánh đường Chúa Cứu
Thế, sau đó được dâng kính hai thánh Gioan Tẩy Giả và Gioan Tông Đồ ; thực vậy,
thánh đường này có giếng rửa tội cổ xưa nhất của Rôma : hàng ngàn tân tòng đến
đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong đêm Phục Sinh. Vì vậy thánh đường này đã
giữ lại tước hiệu Thánh Gioan Latêranô (Saint-Jean-de-Latran). Sau khi bị hư hại
nặng vì chiến tranh, hoả hoạn và bỏ hoang, thánh đường đã được Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XIII cho xây dựng lại và được cung hiến lại năm 1726.
Cung
điện Latêranô là một phức hợp gồm các căn hộ, phòng họp lớn của các công đồng,
thư viện và tu viện, và đã là toà của các vị Giáo hoàng trong hơn một ngàn năm,
cho đến khi Đức Giáo Hoàng Nicolas V (1477-1455) rời Coelius và đến ở Vaticanô.
Cung điện này cũng từng là nơi nhóm họp của 250 công đồng, trong đó có 4 Công Đồng
Chung. Bị hỏa hoạn năm 1308 và bị bỏ hoang trong thời các Giáo hoàng đến ở
Avignon, cung điện đã bị tàn phá và được xây dựng lại thời Đức giáo hoàng Sixtô
Quint (1585-1590). Trong một toà nhà ngày nay được ngăn đôi, có gian Thánh và
gian Cực Thánh (nhà thờ cũ của Giáo hoàng).
Thông
điệp và tính thời sự
a.
Đoạn sách thứ nhất trong hai đoạn được đề nghị cho bài đọc 1 trích từ sách
Êdêkien (47, 1. . .12) có đoạn này : Có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ
và chảy về phía đông... Người ấy đưa tôi ra ngoài và nói với tôi : "Nước
này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng thung lũng Giorđan, và đổ ra biển Chết
và làm cho nước biển hóa lành. Nước chảy đến đâu thì mọi sinh vật sẽ được sống
và sinh sôi nảy nở. . ."
Trong
đoạn sách này, ta thấy rõ ràng biểu tượng về phép rửa, và về Hội Thánh như là
Dân Thiên Chúa và như là Đền Thờ. Điều này cũng nhắc nhớ chúng ta rằng lịch sử
cứu độ có tính đặc trưng bí tích và được hoàn thành nơi Đức Kitô, Đấng thể hiện
nơi bản thân Người chân lý viên mãn của mỗi biểu tượng, kể cả biểu tượng về Đền
Thờ, như thánh Gioan nhấn mạnh trong Tin Mừng của thánh lễ (2, 13-22):
"Nhưng Đền Thờ mà Người (Chúa Giêsu) nói đến, đó là thân mình Người."
Tiếp
theo chủ đề bí tích, phép rửa và Kitô học, đoạn sách thứ hai được đề nghị cho
bài đọc 1 (1 Cr 3, 9. . .17) triển khai chủ đề giáo hội học, vì các tín hữu giống
như những viên đá sống động, những vật liệu làm thành toà nhà thiêng liêng được
đặt trên viên đá góc là Đức Kitô: Anh em là nhà được Thiên Chúa xây lên. . .Vì
không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu
Kitô.
b.
Trong nhiều thế kỷ, thánh đường Latêranô từng là nơi mà nền phụng vụ của Giáo
hoàng được triển khai những bước đầu tiên, trước khi nó truyền lại kiểu cách cử
hành của nó cho tất cả các Giáo Hội phương Tây. Ở đây thánh đường Latêranô
không chỉ là một "trung tâm mới của thế giới", thay thế cho
Giêrusalem, mà còn là một kiểu mẫu cho mọi thánh đường, cũng được gọi là mẹ, vì
sinh ra những con cái Thiên Chúa qua phép rửa, và cũng vì sinh ra những Giáo Hội
và cộng đoàn khác qua lực đẩy truyền giáo của những thánh đường này. Do đó, cử
hành lễ kỷ niệm này cũng có nghĩa là trở về nguồn khai sinh và phát triển của
người Kitô hữu, phần tử của một Giáo Hội địa phương được sinh ra bởi phép Rửa,
được trở nên phong phú bởi phép Thêm Sức và được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể. Tuy
nhiên, mọi Giáo Hội địa phương đều gắn kết với Giáo Hội Mẹ, được biểu trưng bằng
Giáo Hội Rôma, với nhà thờ lớn là vương cung thánh đường Latêranô, "Mẹ và
Đầu của mọi Giáo Hội".
c.
Chúng ta thấy rõ tính thời sự của lễ này : là những phần tử sống động của Giáo
Hội địa phương, tất cả chúng ta có trách nhiệm làm cho Giáo Hội này noi gương
Giáo Hội mẹ, sinh ra những Giáo Hội và cộng đồng khác, đi ra khỏi những bức tường
kín hay những ranh giới địa lý của mình, để mở ra cho toàn thế giới.
Cũng
vậy, mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô nhắc chúng ta nhớ lại phép rửa tái
sinh của chúng ta: "... Trước khi chịu phép rửa, chúng ta là những đền thờ
của ma quỉ ; sau khi chịu phép rửa, chúng ta được trở nên những đền thờ của
Thiên Chúa. . .Vì thế, thánh Phaolô đã nói : Đền thờ của Thiên Chúa là thánh,
và đền thờ đó chính là anh em." Nhưng ân huệ này đòi hỏi chúng ta rất nhiều
: "Anh em muốn có một thánh đường sáng láng ư ? Đừng để tội lỗi làm nhơ bẩn
tâm hồn anh em. Nếu anh em muốn thánh đường được chiếu sáng, và Thiên Chúa muốn
điều đó, hãy để ánh sáng của các việc lành chiếu sáng nơi anh em. . ."
(Trích một bài giảng của thánh Césaire d'Arles, trong Giờ Kinh Sách).
7. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Thiên Chúa của sức mạnh và lòng thương xót,
Xin
hãy che chở chúng con khỏi mọi nguy biến.
Xin
ban cho chúng con sự tự do tinh thần,
sức
khỏe trong tâm trí và cơ thể để làm công việc của Chúa trên thế gian.
Chúng
con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa,
Đấng
hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một
Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
2.
Suy Niệm
-
Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn
rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông
Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia
(1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận
Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt
Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga
1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của
Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự
liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong
con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng
cách này, dự đoán “giờ”
của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên
Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp
mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu
thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài
người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được
rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng
với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
-
Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại
Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố
mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng
hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các
cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi
này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là
xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng,
Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và
cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người
Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng
chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách
hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng
lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy
trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền
ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm
Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán
hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua)
tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu
tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và
Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều
đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15).
Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là
phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu
người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những
người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên
Chúa bằng tiền bạc.
-
Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu
trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha
trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác.
Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện
diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi.
Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng
của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm
vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng
đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới
đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng
thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người
buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền
làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ
biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội
trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự
hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết
trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên
Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ
thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa
trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3.
Một vài câu hỏi cá nhân
-
Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền
Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
-
Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát
dứt khoát của bạn không?
4.
Lời Nguyện Kết
Thiên
Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người
luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên
dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu, ta cũng chẳng sợ gì.
(Tv 46,1-2)
8. Cung hiến Thánh Đường Latêranô – Lm Hồ Thông
Đại
thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”,
bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc
Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo
Hoàng.
Lễ
Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này
đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726
cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng
Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng
niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất
của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi
thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử
hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của
mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi
nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền
thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài?
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần
Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed
47, 1-2, 8-9, 12
Bài
Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon
gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý
tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông
thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần
diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr
3, 9-11, 16-17
Trong
thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với
Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng
cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu
cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga
2, 13-22
Tin
Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền
Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục
sinh của Ngài.
BÀI
ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước
tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau
khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào
năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên
bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông
Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn
sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo
sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố
hiện nay.
Sứ
điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước
khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về
tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng
sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền
Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ
điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết
bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả
Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị
ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải
một ýnghĩa mới.
1.
Thực tại địa lý.
Dòng
nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây
trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy
diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến
chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy
cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một
con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687
tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể
Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập
điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2.
Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng
thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được
miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây
trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước
khi phạm tội.
Đền
Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở
về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện
và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện,
nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức
Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều,
ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức
Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà
uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.”
Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế,
bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7:
37-38).
Nước
biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả
sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền.
Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách
Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ
cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ
ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai
nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng
thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3.
Bên phải Đền Thờ:
Ngôn
sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời.
Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng
phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ
thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang
lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu
và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự
sống đời đời.
4.
Đền Thờ.
Vào
Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta suy niệm về Đền Thờ. Ngôn
sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa
mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để
phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một
tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ
được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ
không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy.
Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng
đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự
tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài
hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa
dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là
Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI
ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh
Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống
18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp
nối công việc của thánh nhân.
Dân
Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì
thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một
nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một
nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh
Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng
đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp.
Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và
những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa
ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1.
Nhà Thiên Chúa.
Cộng
đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để
xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su
Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng
khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của
mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa
nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám
chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có
giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những
lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về
đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình,
thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như
những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên
Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng
Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2.
Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào
anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng
từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực
thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng
đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi
người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái
niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu
đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không
Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã
phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa
(Bài Đọc I).
Ngôn
sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một
ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của
mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức
Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận
hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là
cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau
cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể
Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh
Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là
thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống
thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành
viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn
Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành
động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo
các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN
MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự
kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng
tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử
Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp
lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công
khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở
Ca-phác-na-um.
Phần
mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua
của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến
ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ
Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản
ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những
người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích
hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua
hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo
Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu
trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào
khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt
Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1.
Khung cảnh bên ngoài.
Đền
Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên.
Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh
dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân
Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi
thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ.
Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia
thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành
cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính
ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ.
Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế
cao cấp – đứng đầu là thượng tế - đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi
tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người
Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền
“ô uế” do có đúc hình vị
hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng
huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những
người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày
đại lễ.
2.
Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung
cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những
người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được
dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho
các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt
Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu
nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt
Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức
Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã
phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời
gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3.
Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi
đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ
những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức
Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở
Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng
có.
Trước
hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của
Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su
loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy
đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của
Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người
làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi
với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể
phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài
ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba
ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên
báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi
được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có
quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”
(Ga 10: 18).
Hơn
nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa
“nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung
thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau
khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào
dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình
tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua
của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
9. Tẩy uế Đền Thờ
(Trích:
tgpsaigon)
Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán
(Ga 2,16)
Suy
niệm:
Vào
thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp
nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt
Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con
cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền
Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều
trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng
tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua
Hêrôđê.
Sự
bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn
thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành
roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng
biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con
Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng
bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng
nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì
nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân”
nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt
thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga
15,5).
“Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người
Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ
bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ
hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế.
Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng
cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16).
“Các
ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức
Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ
Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ
ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có
nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế
nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo
nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm
20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những
công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người.
Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của
Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể
phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn
nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền
Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục
sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân
thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật
(Ga 4,23-24).
Khi
Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới
ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính
xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16 ; 14,26).
Với
lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng
bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con
Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên
bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng
định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi
mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm
bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn
con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống
trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để
tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có
khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác
đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ
quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài
bạc, hút chích...gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra
phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng
góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho
chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
10. Tôi sẽ xây dựng lại
Suy
Niệm
Hôm
nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Đây
là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của
Đức Thánh Cha, giám mục Rôma, là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung
hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng tự.
Khi
được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa, thánh đường cũng trở nên nhà của
các tín hữu. Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân, cũng là nơi con người họp nhau
để tôn thờ, cảm tạ.
Dù
nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn
gặp con người.
"Hãy
phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại." Đức Giêsu không
có ý nói đến đền thờ Giêrusalem. Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài, thân thể
bị phá hủy và được xây dựng lại, thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Đức
Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới.
Ai
ai cũng được mời gọi bước vào Đền Thờ này.
Chỉ
nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội
Thánh cũng được ví như một Đền Thờ thiêng liêng, mỗi tín hữu là một viên đá sống
động (x. 1Pr 2, 4-8), và Đức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).
Thánh
Phaolô không ngần ngại khẳng định "Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh
em" (1Cr 3,17). Hơn thế nữa, ngài còn nói: "Thân xác anh em là Đền Thờ
của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như
thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Đền Thờ.
Đền
Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến
tranh phá hủy.
Đền
thờ là những con người sống động.
Đền
thờ quan trọng nhất là con người Đức Giêsu phục sinh, một con người đầy tràn sức
sống của Thánh Thần.
Mọi
Đền thờ đều phải qui về Đền thờ đó.
Không
gắn bó với Đấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài, chẳng Đền thờ nào là Đền thờ
thực sự.
Khi
thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán, Đức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với
Cha.
Chúng
ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy, vì chúng ta yêu quá ít và sợ
quá nhiều. Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có
nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ. Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.
Xin
Đức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần, cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất
những gì ô uế.
Ước
gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa để Hội Thánh thật sự là Đền thờ,
nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Đền thờ của Chúa.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thân
xác là Đền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây
giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những
hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt
thân xác?
Bạn
nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ
lý tưởng?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin
ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế
giới đầy chia rẽ.
Xin
cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin
đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ
quên.
Ước
gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy
lên và trở nên tấm bánh.
Ước
gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin
cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm
vui và tự do.
Cuối
cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận
cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước
gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
11. Thanh tẩy – Lm Trần Ngà
Từ
thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem...
Chúa
Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời
Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường...” ( Mt 11, 29 )
Khi
Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ
mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời
xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các
ông. (Lc 9, 54)
Khi
có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3),
là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ
ám (Ga 7, 20), là người dại dột... Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất
là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín
thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo,
Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ
hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao
dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy
mà... khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì
Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên
bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật
nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế
là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến
roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những
người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”,
dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật
không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây
lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt
12, 20 )... giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người
xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng
việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất
bình xiết bao!
Đến
thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân
thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem
xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy:
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng
định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của
Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa
Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và
tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản
thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian,
vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn... chứ không phải bằng
gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo
hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần
xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu
tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất
là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất
nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy
nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ
sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh
mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế
thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những
người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn
ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề
hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà
buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không
còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin
hãy hồi tâm...
Lời
Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật
sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra
những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn
mình trong đó... để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm
trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà
thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
12. Đền thờ mẹ của tất cả các nhà thờ
Hôm
nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ xây cất với
tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của
toàn thể Giáo Hội công giáo.
Đền
thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma
và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền
thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi
trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô
còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này
đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và
tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Đền thờ bằng đá không còn ý
nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không
biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con
người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin
tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi
người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị
em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Đây là một trong những trách
nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Đó là chỉ cho anh chị em
mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều
kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc
nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị
em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần
và trong sự thật. Đây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc
lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy
Chúa,
Xin
biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành
những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong
Thánh Thần.
13. Nhà thờ của giáo xứ
Hôm
nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được
coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo
phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của
nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi
một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt
tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường,
mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị
thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em.
Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng
thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn
chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ
Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả
chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của
mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn
giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng
ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị
tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn.
Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an
toàn.
Tới
đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại
gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm
thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải,
giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được
dành cho mọi người.
Thực
vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi
đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống
siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính
tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta
trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính
can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính
tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi
chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để
cử hành bí tích Hôn phối.
Và
sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà
Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà
Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và
nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp
thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con
cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm
hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ
nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ
với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có
được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và gíup đỡ cho những người
chung quanh.
Tuy
nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo
xứ hay chưa?