Lời Chúa cntn 23a _ tụ họp nhân danh Thầy


TỤ HỌP NHÂN DANH THẦY
Một số các vị tử đạo của chúng ta, khi bị giam giữ cũng đã cầu nguyện chung với nhau, khi ra pháp trường, các ngài cũng cầu nguyện chung, và cả khi bị thiêu đốt trong một chiếc cũi, người ta vẫn còn nghe thấy tiếng cầu nguyện chung của các ngài.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Chúng ta vừa nghe lời Chúa: “Nếu hai người trong các con ở dưới đất, mà hiệp lời cầu nguyện bất cứ điều gì, thì Cha thầy đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp, nhân danh thầy, thì thầy ở giữa những người ấy.”
Cầu nguyện chung là hình thức cổ võ, duy trì bác ái và hiệp nhất trong cộng đoàn, và theo lời Chúa, thì hai điểm cần thiết:
a.      Tâm đầu ý hợp với nhau trong cộng đoàn;
b.      Nhân danh Chúa Giêsu mà cầu nguyện. Việc chúng ta tham dự hoặc thi hành những nghi thức phụng vụ của Giáo Hội, cũng như việc chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong thánh đường, hoặc cầu nguyện chung với nhau nhau trong gia đình là những công việc thiết và ích lợi cho ta. Khi chúng ta cầu nguyện chung với nhau thì chính sự sốt sắng của người nọ bù đắp cho sự thiếu sót của người kia. Trong một cuộc trình diễn, nếu ta độc tấu hoặc đơn ca thì những khuyết điểm của ta, mọi người dễ dàng nhận thấy, còn nếu ta tham dự vào một ban nhạc hoặc ban hợp ca thì danh dự của ban nhạc cũng như của ban đồng ca, cũng chính là danh dự của mỗi phần tử, mặc dầu phần tử đó chơi hay hoặc chơi dở.
Một số các vị tử đạo của chúng ta, khi bị giam giữ cũng đã cầu nguyện chung với nhau, khi ra pháp trường, các ngài cũng cầu nguyện chung, và cả khi bị thiêu đốt trong một chiếc cũi, người ta vẫn còn nghe thấy tiếng cầu nguyện chung của các ngài.
Tại công đường, quan tòa tra vấn thánh Phêrô Vũ Đăng Khoa (tử đạo ngày 24.11.1838, 48 tuổi) khuyên thánh nhân bỏ đạo và khai báo chỗ ở của cha Kim: Quan ra lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần, nhưng thánh nhân vẫn một mực trung thành, không bỏ Chúa, và không tiết lộ gì.
Vũ Đăng Khoa sinh năm 1790 tại Thuận Nghĩ, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Cậu Khoa đã tỏ ra thông minh hiền lành từ hồi còn nhỏ khi theo học các cha, nên được gởi vào chủng viện Vĩnh trị, dưới thời cha giám đốc Jeantet Khiêm. Thầy Khoa thụ phong linh mục hồi 30 tuổi năm 1820, và được đặt làm phụ tá cha xứ Nguyễn Thời Điểm coi sóc hai giáo xứ Lưu Đăng và Vĩnh Phước hạt Bố Chánh. Năm 1829, cha Havard Du bổ nhiệm cha làm chánh xứ Cồn Dừa. Tuy rất bận rộn với những công tác mục vụ, cha vẫn giữ được nét mặt trang nghiêm, nói năng điềm đạm, quảng đại, nhân từ, nên được mọi người trọng kính và yêu mến.
Đầu năm 1838, chủng viện An Ninh ở Di Loan phải đóng cửa, cha giám đốc Candalh Kim bỏ trốn vào rừng. Trên đường truy nã thừa sai Kim, đêm 2.7.1838 Từ Khiết đột nhập một tư gia, nơi linh mục Phêrô Vũ Đăng Khoa đang trú ẩn ở Lệ Sơn, thuộc hạt Bắc Bố Chánh, cùng với hai thầy giảng tên Đức và Khang. Từ Khiết tra gông vào cổ, giải ba người vào Đồng Hới, thị trấn Quảng Bình.
Tại đề lao Đồng Hới, cha Phêrô Khoa đã gặp Đức Cha Cao và Cha Vinh Sơn Điểm
Trong nhà giam, hàng ngày 3 ngài cùng nhau đọc kinh Mân Côi, hát vang bài ca "Ave Maris Stella" (Lạy Mẹ là ngôi sao sáng) . Biết không thể lay chuyển được ý chí ba nhà truyền giáo, quan nghị án gởi vào kinh đô. Ngày 24.11.1838 quan tới trại giam tuyên đọc bản án: Đức cha Borie Cao phải xử trảm, hai cha Vinh Sơn Điểm và Phêrô Khoa xử giảo. Cũng ngày ấy ba vị được dẫn đến pháp trường ngoại thành Đồng Hới. Sau mấy phút cầu nguyện hai cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần, còn Đức Cha Cao bị chém đầu.
Thánh Đinh Văn Thành (tử đạo ngày 28.4.1840, 44 tuổi) thánh Nguyễn Văn Hiếu và Cha Phạm Khắc Khoan cùng bị xử trảm một ngày.
Thầy Đinh Văn Thành sinh năm 1796, gốc Nộn Khê (Bình Bát, Ninh Bình) . Năm 1839 thầy Thành và Thầy Hiếu cùng đi với cha Phạm khắc Khoan về giúp họ Đông Biên. Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về thị xã Ninh Bình. (Coi thánh Phạm Khắc Khoan)
Dù bị hành hạ dã man đến đâu hai thầy vẫn thản nhiên nhẫn nhục, không bao giờ có lời than trách, chỉ lập đi lập lại một điều: “Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức Tin.” Niềm an ủi lớn nhất của hai thầy là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh Bí Tích hòa giải. Các thầy coi những ngày ở tù như thời gian tẩy luyện và lập công, đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu.
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, lính đẩy ba vị vào khu vực riêng, xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thầy hiệp ý cầu nguyện với vị linh mục: “Vinh danh Chúc Tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho đức vua được cai trị lâu dài và thái bình thịnh vượng. Xin biến đổi trái tim đức vua, để đức vua và đình thần tin theo đạo thật, đạo duy nhất đem lại cho quốc gia hạnh phúc đích thực.”
Ba chứng nhân lại cầu nguyện bằng Thánh ca. Như trong đêm phục sinh, cha Khoan hát lên ba lần Alleluia, Alleluia, Alleluia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Đối đáp lại, hai thầy hát theo cung độ của vị chủ sự.
Ba cái đầu cùng một lúc rơi xuống. Thi thể ba đấng được an táng tại Phúc Nhạc.
Thánh Đaminh Huyên (tử đạo ngày 5.6.1862, 45 tuổi) và thánh Đaminh Toại (tử đạo ngày 5.6.1862, 50 tuổi) cùng bị thiêu sinh với nhau.
Đang khi bị giam, thánh Toại thường nói với các đồng bạn:
“Nào anh em, hãy can đảm lên. Chúng ta chịu khổ hình vì Đức Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng, và nếu cần, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Danh Chúa.”
Thánh Toại và thánh Huyên cùng bị thiêu sinh ngày 5.6.1862.
Ông Toại sinh năm 1812. Ông Huyên sinh năm 1817 cả hai ông đã lập gia đình và là những gia trưởng đạo đức gương mẫu. Hai ông làm nghề đánh cá trên sông Nhi Bình gần của Ba Làng.
Theo chiếu chỉ “Phân Sáp”, tính đến bắt ông Đaminh Huyên và giải lên Huyện Quỳnh Côi . Ông Toại vì bệnh tật không thể đi bộ theo lính được, nên họ đề nghị ông nộp tiền chuộc nếu muốn được tha. Nhưng ông đã từ chối, vì không muốn để mất cơ hội quý báu là hiến dâng mạng sống mình làm chứng cho tin Mừng và Tình Yêu Thiên Chúa. Ông xin quan cho phép đi xe đến Huyện trình diện.
Tại huyện đường Quỳnh Côi, sau khi khẳng định lập trường đức tin của mình, hai ông Toại, Huyên bị tống giam vào ngục Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người thấy rõ lòng quả cảm kiên cường của hai ông. Nào đói khát, nào đòn vọt và ngay cả án tử hình cũng không làm nhạt chí khí anh hùng của các ông. Ngược lại, hai ông còn động viên các đồng bạn kiên trì giữ vững đức tin. Cả hai đã bị kết án thiêu sinh
Đến ngày xử án, sáng 5.6.1892. trước sự chứng kiến của rất đông người, hai ông trước vào cũi tre và chờ đợi. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng cầu nguyện thật lớn trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai Ông.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK