CÁC
BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN - A
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC LỤC
27. Theo Chúa là
từ bỏ và vác thập giá Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
28. Đi theo con
đường của Chúa Lm Giuse
Đinh lập Liễm
29. Mất để được Lm Giuse Nguyễn Hữu An
31. Thập giá dẫn
tới phục sinh Lm. Phêrô Lê
văn Chính
32. Trong họa có
phúc Lm. Jos
Tạ Duy Tuyền
33. Đọc bản hợp
đồng cẩn thận Charles E. Miller
34. Nghị lực của
người công giáo . . . Achille
Degeest
35. Thập giá
Sưu tầm
36. Làm điều khó
Sưu tầm
37. Theo Chúa là
bỏ mình vác thập giá catholic. org. tw
1. Mất
và được
Ông Vincio, người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán. Hôm đó ngày
23.12.1993 đang trên đường đi thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp. Ông xuống xe
loay hoay thay bánh “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi
gần ráp xong bánh xe, thì người đàn ông này kiếu từ phải đi. Ráp xong bánh xe,
ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của mình bị mất cắp một số đồ
mắc tiền do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy. Ông buồn thở dài, nhưng ông thấy
một vé số rơi xuống đường có lẽ của tên ăn trộm. Ông lượm bỏ vào túi. Dịp xổ số
đầu năm 1994, ông mang vé số đó ra dò thì may quá vé số trúng 50 triệu lire
tiền Ý tức khoảng 60.000 đôla, ai mà chẳng thích. Nhưng lương tâm ông Vincio áy
náy vì vé số này không phải của ông. Lòng ông dường như đeo một tấn đá nặng nề.
Ông bỏ tiền đăng quảng cáo để tìm ra chủ nhân của tấm vé số đó. Nhiều người
tham tới nhận là của mình. Nhưng chỉ vài câu hỏi, ông biết là kẻ tham lam. Ba
tuần sau, tên trộm đồ sửa xe điện thoại tới nhận và tả lại mọi chi tiết. Ông
Vincio mang 50 triệu lire tới trả cho chủ nhân. Tên trộm quá cảm động, xin lỗi
ông Vincio và nói vì anh ta đang thất nghiệp lại nuôi 2 đứa con thơ nên buộc
lòng phải lấy đồ sửa xe bán lấy tiền. Tên trộm hỏi tại sao ông Vincio không giữ
lấy 50 triệu lire mà xài vì có ai biết gì đâu. Ông Vincio trả lời, lương tâm
ông không cho phép. Ra về, ông Vincio cảm thấy nhẹ nhõm tâm hồn hơn bao giờ
hết. Mất đồ sửa xe, nhưng được tiền nhiều, được tiền đó nhưng lại mất bình an
tâm hồn. Cái vòng mất - được đó cứ luẩn quẩn xoay tròn. Cuối cùng ông Vincio
chấp nhận mất số tiền để được bình an tâm hồn.
Phúc Âm hôm nay cũng nói tới cái Mất và cái Được. “Nếu ai dám
mất mạng sống mình ở đời này vì Thầy thì sẽ được nó ở đời sau”. Mất mạng sống
tức từ bỏ mình vác thập giá theo Chúa - được đời sau tức được nước thiên đàng,
được Thiên Chúa, được hạnh phúc muôn đời. Như vậy nếu so sánh chúng ta sẽ thấy
mình mất những cái gì tạm thời để được những cái gì vĩnh cửu - mất những thú
vui chóng qua để được hạnh phúc trường tồn, mất thân xác mục nát để được linh hồn
bất tử, mất tội lỗi và hình phạt để được ân điển và phần thưởng, mất sự cắn rứt
lương tâm để được bình an tâm hồn. Cái mất này so với cái được thì mất quá nhỏ
nhoi, còn cái được thì bao la vô tận. Cái mất này là “tấm vé” vào Nước Trời.
Nước Trời là thực tại không thể mua bằng quyền lực, tiền bạc, sống lâu, danh
vọng, tài giỏi... Nước Trời chỉ có thể mua bằng việc dám mất mạng sống, dám từ
bỏ mình.
Từ bỏ mình là khi chúng ta giữ 10 điều răn Chúa, là khi chúng ta
yêu thương và tha thứ kẻ thù, là khi chúng ta chấp nhận cái nóng lạnh của thời
tiết, là khi chúng ta chấp nhận những bệnh tật Chúa gởi đến, là khi chúng ta
chu toàn bổn phận của cha mẹ hay con cái trong nhà, là khi chúng ta phục vụ
những công tác của giáo xứ, là khi chúng ta dám bỏ giờ để thăm viếng bệnh
nhân... Nói chung là khi chúng ta chấp nhận phải hy sinh hơn, phải vất vả hơn,
phải thiệt thòi hơn.
Thiên Chúa không hứa hạnh phúc mau qua, Thiên Chúa không chiều
chuộng để chúng ta hư đi. Nhưng Thiên Chúa nói thẳng và nói thật “Ai dám mất
mạng sống thì người đó được lại”. Mỗi người chỉ sống một đời, đời đó lại rất cá
biệt không ai thay thế được, cho nên chúng ta đừng dại mang đời mình ra chơi
trò may rủi. Vì được lời cả thế gian mà sau này mất thiên đàng thì chúng ta còn
gì mà chuộc lại. Cái chắc ăn nhất là dám chọn cái “mất” tạm thời để nhận cái
“được” thiên thu.
2. Con đường
thập giá.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta tiếp xúc với một khuôn
mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô trong Chúa nhật tuần trước.
Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được Thiên Chúa mạc khải để ông
nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa Giêsu ca ngợi, đặt làm nền
tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút, Phêrô lại là người đầu tiên
vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa đã
trao phó.
Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ về cuộc hành trình
đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau khổ, bị giết, nhưng ngày
thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn
lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã xuất phát từ niềm tin của ông vào
tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng
dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng cánh chim, từng bông hoa. Thiên
Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt cho con cái. Một người cha thế
gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó xin cái bánh, thì làm sao Thiên
Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như
thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm sao có thể xảy ra được.
Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được chứng kiến quyền năng của Thầy
mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ
chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão táp, thì làm sao Ngài lại để
cho mình gặp phải sự khốn khó?
Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời, vì ông đã đơn giản
hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan. Thực vậy, khi Satan
đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì
hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để chân Người khỏi vấp
phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng trở nên một thứ
phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù phiến của mình.
Sự thực thì đây không phải là một cơn cám dỗ đặt ra cho một mình
Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã gặp phải.
Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao Chúa không cho tôi trúng số
để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời giờ làm những công việc đạo
đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí. Tại sao Chúa không cho Giáo
Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho Nước Chúa được mở rộng và
danh Chúa được cả sáng.
Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng
của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để cứu độ trần gian là con
đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội lại sứ mệnh của mình,
và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và đối với bản thân chúng
ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc phục vụ người khác, thì
chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi riêng tư của chúng ta.
3. Đầu
tư cho cuộc sống mai sau – Lm Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về
việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi nầy.
Cái tôi như một quả bong bóng mà cá nhân mỗi người cố thổi cho
phồng lên tối đa.
Cái tôi như một trung tâm điểm mà tất cả mọi năng lực của bản
thân đều quy về đó.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác:
giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân
xác...
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho
thân xác.
8,766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân
xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.
Châm ngôn của người ta là: Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc
sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con
dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để
rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Người ta chăm lo vun quén cho thân xác thật sung mãn như những
đứa bé thi nhau thổi ra những chiếc bong bóng xà phòng trông thật long lanh và
hấp dẫn... nhưng rồi... bụp, bụp, bụp..., bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia,
đua nhau nổ tan tành chẳng còn chi.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị
lực... đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để
rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:
"Trăm năm còn có gì đâu?
"Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!"
Tiếc thay, ngay nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không
còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau
khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giêsu dạy: "quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống mình thì sẽ mất"; và cho dù người ta có thu tóm "được cả
thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
* * *
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng
cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là "một nấm cỏ khâu" hay đơn
giản hơn, là "một lọ tro tàn" thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi
đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai dại dột đến nỗi đầu tư kiểu đó không??
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp
nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị một giải pháp tốt.
Người dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là
đầu tư theo hướng tâm linh, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác
thập giá.
"Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất
mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả
thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy
gì mà đổi mạng sống mình?"
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân quyết dồn mọi nỗ lực để phụng
sự thân xác, muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và
vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là
thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu
lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: "Nếu người ta
được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
Anh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy
tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phanxicô giã từ việc
theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi
vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh
hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
"Từ bỏ chính mình" tức là đừng lấy thân xác làm mục
tiêu cho mọi phấn đấu, mọi nỗ lực của ta; cụ thể là không dành toàn bộ công
sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
"Vác thập giá mình" là chấp nhận khổ chế, cụ thể là
khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác- sự khước từ nào cũng là một thập
giá, đều để lại đau thương - để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm
linh.
Chúa Giêsu đã đầu tư đời Người theo hướng đó và Người đã đạt tới
vinh hiển khải hoàn. Hôm nay, Người muốn chúng ta đầu tư theo hướng Người đã
đầu tư, bước đi theo con đường Người đã bước, để chúng ta được chung hưởng vinh
hiển như Người.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra
rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn
là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì
phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với
Chúa. Amen.
4. Đau
khổ và hạnh phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời luôn có đau khổ và hạnh phúc. Hai trạng thái này luôn
đan quyện vào một đời người. Con người vốn dĩ sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc.
Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy đời người, còn hạnh phúc lại thật mong
manh.
Phật Thích Ca khi nhìn vào cuộc đời chỉ thấy toàn là bể khổ. Sinh
- bệnh - lão - tử dường như là định mệnh bể khổ dành cho con người. Phật Thích
Ca đã đưa ra một con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ. Đó là con đường
diệt dục. Diệt mọi lòng ham muốn mới mong tìm được hạnh phúc.
Biết bao nhà lãnh tụ các quốc gia luôn nỗ lực hạn chế nỗi khổ và
gia tăng niềm vui hạnh phúc cho người dân.
Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giêsu đề nghị ta hãy đi vào
đau khổ? Phải chăng Ngài chỉ muốn các tín đồ của Ngài sống trong đau khổ?
Nhìn vào cuộc đời của Chúa, đó là một cuộc đời đi vào đau khổ.
Từ trời cao Ngài đã đi vào dòng đời trong thân phận con người. Sinh ra trong
thân phận thấp hèn, nghèo khó, thuộc giai cấp cùng đinh và hòa lẫn trong giới
lao động cùng khổ. Ngài đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là
hiện diện cùng với những con người đau khổ. Suốt 30 năm sống đời ẩn dật trong
một xóm nghèo lao động. Phải chăng Ngài đã phí thời gian khi ở với gia đình,
khi cùng với cha mẹ lao động để kiếm sống như bao con người khác? Tại sao Ngài
đã làm phép lạ hóa bánh nuôi trên năm ngàn người ăn mà lại phải chắt chiu từng
hạt cơm, chén mắm từ công thợ khi có khi không?
Bài Phúc âm hôm nay còn cho thấy, khi danh tiếng Ngài đã vang
dội khắp nơi. Uy tín Ngài đã bao trùm mọi nơi. Khi mọi người chỉ còn chờ Ngài
đi vào thành Giêrusalem là họ sẽ tung hô Ngài làm vua để giải thoát dân khỏi
cảnh đói khổ lầm than. Thế mà Ngài lại nói đến đau khổ và sự chết. Ngài còn đòi
hỏi các môn sinh của mình phải từ bỏ danh lợi thú để đi vào con đường thập giá,
con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Ngài lại mời gọi đi vào.
Tuy nhiên, con đường Chúa Giêsu đi không dừng lại ở đau khổ và
sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Ngài chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa
mồ của sự chết sẽ khép lại toàn bộ sự nghiệp của Ngài đã vun trồng. Ngài đã đi
qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã đi qua sự chết để mở ra cánh cửa
phục sinh vinh hiển. Giá trị đau khổ Ngài chịu đã đem lại niềm vui cứu độ cho
toàn thể nhận loại. Sự chết của Ngài đã khai mở cánh cửa thiên đàng cho tất cả
những ai tín trung theo Ngài.
Con đường Chúa Giêsu đã đi không phải là con đường trải thảm
rộng thênh thang. Đó là con đường hẹp và đầy chông gai. Con đường từ bỏ hằng
ngày. Từ bỏ thiên tính của mình để hòa nhập với khối đông của nhân loại. Từ bỏ
quyền lợi của mình để phục vụ lợi ích nhân loại. Từ bỏ những tiện nghi vật chất
để sống rầy đây mai đó, để thi ân giáng phúc cho tha nhân. Đó là con đường Ngài
mời gọi chúng ta. Hãy từ bỏ lòng tự cao tự đại để sống hòa đồng với anh em. Hãy
từ bỏ lòng tham của danh lợi thú để sống thanh khiết và công bình bác ái với
tha nhân. Từ bỏ đòi hỏi hy sinh. Hy sinh bản thân để đem lại niềm vui cho tha
nhân. Hy sinh thời giờ để phục vụ anh chị em chung quanh. Từ bỏ và hy sinh
không làm cho ta bé nhỏ đi nhưng được lớn lên và trưởng thành hơn. Một người
trưởng thành là một người biết hy sinh và nhường nhịn cho người nhỏ hơn. Một
người được gọi là trưởng thành là người dám lãnh lấy trách nhiệm với gia đình
và với xã hội.
Thế nên, sợ hãi đau khổ là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ
là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm đó là người vô dụng, và người
trốn tránh trách nhiệm chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Là người kytô hữu, Chúa mời gọi chúng ta vác lấy thập giá hằng
ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận và trách nhiệm
trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Người chồng và người vợ phải có bổn
phận và trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Người cha
và người mẹ phải có bổn phận và trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái nên
người. Con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, đồng
thời cũng biết chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng và sức lực của
mình.
Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý
thức và trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã
hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là
niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài sức và trí tuệ của mình để đem lại
hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Ngược lại, nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách
nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây Thập
giá đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.
Xin Chúa giúp chúng con biết noi gương bắt chước Chúa luôn can
đảm đón nhận thập giá của bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân. Cho dẫu
có chịu nhiều thiệt thòi mất mát khi phải chu toàn bổn phận với Chúa và tha
nhân, vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì? Amen.
5. Sống
mầu nhiệm Thập Giá – Cố Lm. Hồng Phúc
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn
đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phía cực bắc xa
thành Giêrusalem “hay giết các tiên tri”. Bỗng nhưng Ngài quyết định quay trở
lại. Ngài tỏ cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu
nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba
thỉ sống lại”. Mấy lúc gần đây, lời tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi
các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bầy tỏ rõ ràng những gì sắp
xẩy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài
là “tôi tớ”,
là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi Ngài vừa tiết lộ tất cả sự thật thì Phêrô, con người
vừa được đặt làm nền tảng Giáo hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời đã đứng
lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể thế
được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau, con
làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi sáng
cho Phêrô. Phêrô không hiểu nổi mối tương quan mật thiết giữa Cha và Con, giữa
ý muốn của Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ “bất
tuân”, ngày nay Con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu phải
đau khổ tột độ, cho dầu phải để cứu vãn nhân loại. Đây là lần đầu tiên Chúa
loan báo cuộc Tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Matthêô đã nói
lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: từ bỏ mình, vác thập
giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa trên
con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đau khổ như một điều kiện để theo Ngài,
làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình, vác
Thập giá và theo Ta” (Mt 16, 24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa
không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là cả Thầy, cả môn
đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong
thân xác tôi những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1,
24).
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu
đau khổ”
do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói
lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả
mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong
số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận
thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ,
nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
6. Mất
và được
(Trích từ ‘tinmung.net’)
Có câu chuyện kể như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm,
giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ
trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương
của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu
lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu
của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó
trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép
mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó
cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ
nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu
thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh
nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi
sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú
chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và
niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng
sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ
để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng mất đi của
cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự sống hay chết để được lại
sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì sẽ được lại đã không phải
là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí
nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn
giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã
từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để
sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã
quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ
chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là vác thập giá mình mà theo lại
không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm
túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh
báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả
đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống
muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn
viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị
thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho
người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và
cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ,
hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy
sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy
sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
7. Theo Thầy
Giêsu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn
nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn
chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.
Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách
dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám
phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó
phải tuyệt thực một lần nữa.
Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn
nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không,
ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng
bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với
hai bàn tay trắng mà thôi.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà
mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?”. Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng
trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì
sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời
ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất.
Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước, rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn.
Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn
đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái
được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh
cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có
gì mất cả. Mọi sự, nếu họ mất vì Thầy Giêsu, thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời
để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn,
ngời sáng hơn.
Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ
mình đi, vác thập giá mà theo”. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, phải "đi theo
Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo". Theo Thầy không
phải để vinh thân phì gia. Theo Thầy để tìm một lẽ sống cho cuộc đời, vì Thầy
là con đường dẫn về nguồn sống là Chúa Cha. Thầy là sự thật giải thoát muôn
dân. Muốn theo Thầy, không những phải "từ bỏ chính mình", tức là
"tư tưởng của loài người", mà còn phải mang thân phận như Thầy với
thập giá riêng trên vai. Thực tế, theo hay không theo Thầy, con người vẫn không
thoát khỏi khổ giá. Nhưng nếu theo Thầy, môn đệ sẽ tìm được hướng giải thoát.
Muốn theo Thầy "anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh
thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rm 12,1).
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường từ bỏ.
Từ bỏ là một quy luật.
- Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ, thì
ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó
đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
- Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng
phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào
những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó, cơ thể lớn dần lên.
Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh,
đứa trẻ con ấu trĩ... có thế mới phát triển dần thành người lớn.
- Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt
để lấy vào những cái tốt hơn.
- Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có
một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một
lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia... mà có khi
phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá
nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ
phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc
xe khác. (sợi chỉ đỏ).
Làm môn đệ Thầy Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không
lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần
"mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia
tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô
khác" hoàn toàn.
Như thế, từ bỏ nhưng không mất, mà lại được; không thiệt thòi mà
lại có lợi hơn.
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường sự sống
Theo Thầy Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục
sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết, mới
đến sự sống. Phải qua tủi nhục, mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ, mới đến
hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên
mãn.
Theo Thầy Giêsu, các môn đệ bị người đời chê là khờ dại vì
sống từ bỏ và vác thập giá hàng ngày. Thế nhưng họ vui mừng sống một nghịch lý
căn bản "mất mạng sống mình vì Thầy". Con người ta cứ tưởng rằng,
chiếm hữu càng nhiều thì càng làm cho mình giàu có thêm. Thực ra, chẳng có gì
quí hơn mạng sống. Nhiều người đánh đổi mạng sống để có của cải vật chất. Thực
tế chưa ai giàu có đến nỗi làm chủ được cả trần gian. Nhưng "nếu người ta
được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta
sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?" (Mt 16,26). Chỉ một cách duy nhất có
thể tìm lại được mình là "mất mạng sống mình vì Thầy" (Mt 16,25). Như
thế, phải chăng Thầy có sức thu hút khiến người ta không thể cưỡng lại được?
Giống như ngôn sứ Giêrêmia, họ phải thốt lên: "Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến
rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã
thắng" (Gr 20,7). Thầy có sức quyến rũ mãnh liệt, vì đã vận dụng được
nghịch lý của cây thập giá để "ngày thứ ba sẽ chỗi dậy" (Mt 16,21) từ
cõi chết. Cả thế giới cũng không đem lại sự sống. Chỉ một mình Thầy mới có thể
làm cho người môn đệ "tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25), vì Thầy là
"sự sống lại và là sự sống" (Ga 11,25). Bởi thế, Thầy có sức quyến rũ
hơn cả vũ trụ vì Thầy là "con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga
14,6).
Lời Chúa hôm nay gởi đến cho chúng ta sứ điệp: từ bỏ không
phải để mất, mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong
phú hơn gấp bội. Mất hiện tại, để được tương lai. Mất đời này, để được đời sau.
Mất phàm tục, để được thần thiêng. Mất tạm bợ, để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên
đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha
thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám
chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế
giới phú quý vinh hoa.
Cầu nguyện
"Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc
đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử
thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng, chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và
khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh
phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm
cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất
giữa chúng con. Amen." (Mẹ Têrêxa Calcutta).
8. Thập
giá.
Người môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay có thể trở thành một Satan,
một thứ kỳ đà cản mũi không cho Ngài thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó như
Phêrô ngày xưa.
Thực vậy, chúng ta thường hay quên đi một cách cố tình hay vô ý,
lời mời gọi của Chúa Giêsu:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày
mà theo Ta.
Chúng ta có thể dễ dàng loại bỏ sang một bên tư tưởng của Thiên
Chúa để chạy theo tư tưởng của loài người, để rồi cuối cùng đánh mất bản chất
người Kitô hữu. Môn đệ không trọng hơn thày. Nếu Chúa Giêsu đã chọn con đường
đau khổ và thập giá vì trung thành với sứ mạng phục vụ con người trong sự thật
và tình thương, thì người môn đệ của Ngài cũng phải dám liều mạng sống mình vì
Ngài, cũng như vì anh em, thì mới hy vọng tìm lại được mạng sống mình.
Đường lối Chúa Cha đã chỉ cho Đức Kitô thực hiện dường như không
đi đúng với cái lý luận thường tình của con người được phản ảnh qua thái độ của
Phêrô. Con người dễ dàng chọn theo chiến thuật của Satan, mau mắn xử dụng của
cải, danh vọng và quyền lực để thực hiện mọi ý đồ của mình. Và con người cũng
dễ viện cớ phục vụ vinh quang Thiên Chúa: Xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha
trị đến, để xây dựng sự nghiệp của riêng mình.
Trái lại, qui luật sống của chúng ta, những người môn đệ Chúa,
được thánh Phaolô xác quyết: vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Đừng
lầm tưởng rằng đó là một tâm trạng bệnh hoạn, ưa chuộng khổ đau. Dù muốn hay
không, thập giá vẫn có mặt trong cuộc sống con người, dưới những danh nghĩa
khác nhau, như đau khổ, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… nhưng thập giá không chỉ là
chịu đựng, chấp nhận một cách thụ động. Vác thập giá còn là một chọn lựa tích
cực, như Chúa Giêsu đã từng tâm sự: Thày sẽ phải chịu một phép rửa và lòng Thày
khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất. Phép rửa ấy chính là cái chết
trên thập giá.
Thế nhưng trong cuộc sống, chúng ta có biết bao sự chọn lựa đi
ngược lại với thập giá, tương tự như hành động của Phêrô lẩn trốn khỏi thành
Rôma đang khi hoàng đế Nêrôn ra tay bắt đạo. Và trên đường, Phêrô đã gặp Chúa
Giêsu đi ngược chiều. Phêrô lên tiếng hỏi: Quo vadis Domine. Lạy Thày, Thày đi
đâu đấy? Chúa Giêsu trả lời: Ta đi vào thành Rôma để chết thay cho con.
Người môn đệ Chúa vác thập giá mình mà theo Chúa khi đứng về
phía con người, phục vụ cho sự sống, cho tình thương, cho sự thật dù có phải
trả giá bằng chính mạng sống của mình. Thập giá sẽ không đè bẹp con người đi
theo Chúa, bởi vì chính Ngài tự nguyện làm một Simong ghé vai vác đỡ, đồng thời
chính thập giá sẽ nâng chúng ta lên và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Bởi vì, thập giá đã được đóng lên từng việc làm, sẽ đảm bảo chất
lượng yêu thương, đúng với nguyên mẫu của Chúa Giêsu.
9. Mất
trước được sau – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và
không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là
được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước
rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui
luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền
của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết
vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra
ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi,
vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bỏ.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ
bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi
vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do
ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha.
Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt
khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ.
Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả
đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một
chút danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá.
Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên
Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp
người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm.
Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá
thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá
nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có
lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng,
cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một
con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một
định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định
mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh.
Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống.
Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc.
Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu
Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh
hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong
nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải
mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi
vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp:
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách
sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương
lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ
để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã
thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha
thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn
mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo
thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác
thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn
có tâm đắc điều này không?
10. Nếu
được cả thế giới.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong đời. Cám dỗ bởi ma quỷ trong
sa mạc. Cám dỗ bởi đám đông đòi xem phép lạ từ trời. Cám dỗ bởi nhiều người
thách xuống khỏi thập giá.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ bởi chính
Phêrô, người mà Ngài đã đặt làm nền tảng cho Hội Thánh. Cơn cám dỗ này nguy
hiểm biết bao, vì đến từ tình thương của một người môn đệ.
Phêrô không thể nào chấp nhận được chuyện Đấng Mêsia phải chịu
khổ đau và chịu chết.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này. Ngài nói với ông
như nói với Xatan trước đây: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy!"
Phêrô đã đi trước Thầy. Ông quên mất vị trí đi sau của người môn
đệ. Ông không ngờ mình trở nên viên đá làm Thầy suýt vấp.
Lối nghĩ của Phêrô rất tự nhiên, rất "người", nhưng đó
không phải là lối nghĩ của Thiên Chúa.
Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy và dám mất tất
cả vì Thầy.
Sống ở đời ai cũng tranh phần được, và sợ mất.
Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền,
trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.
Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận
những mất mát tạm thời: mất công, mất của, mất thì giờ, mất uy tín, mất tương
lai và mất cả mạng nữa.
Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự họ mất vì Thầy
Giêsu, họ đều được lại.
Mất tạm thời để giữ được mãi mãi.
Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng
hơn.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp
nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú
quý vinh hoa.
Lắm người tưởng mình được, hoá ra lại mất
Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được.
Chúng ta cần suy nghĩ sâu về cái được, cái mất, để không phải
hối hận sau này.
Đức Giêsu đã mất tất cả và đã được lại tất cả.
Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh, dám vượt lên trên
lối sống thực dụng, ích kỷ.
Không cần đợi sau cái chết, ta mới thấy mình được.
Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu thương là những
cái được ta có ngay từ đời này.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ đời. Ai cũng phải
tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa để thắng được
người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công giữa chợ đời
không?
Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác thập gía. Có khi
nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá nào hiện nay bạn
còn sợ vác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúa đẵ chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc
đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử
thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và
khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh
phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm
cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất
giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
11. Thập
giá, biểu tượng của tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong
cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để
triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều
xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt
đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn
đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông
đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên
loạn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng
phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành
một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa
cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà,
bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không
thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu
diệt được thập giá. Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau,
người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh
nhà”.
Nhà văn đã kết luận: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì
chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới có thể sống được này”.
Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa Kitô, thập giá đã trở
thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu trên hận
thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Đập
đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận thù. Một thế giới
không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần phải leo lên tháp
chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập giá, dấu chỉ của
tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi người đều là giá
máu của Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn
đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo
Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những
điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của Ngài cũng là những điều kiện được
đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện này không dễ gì được chấp nhận, vì
nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không những loan
báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và
lời loan báo đó đã được thực hiện.
Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi
muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc
thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình
yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó
là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không
có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ cũng phải trả giá đắt.
Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô trong một môi trường thù
địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói khi cuộc sống xung quanh
chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài phung phí cho chính bản
thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn khi người ta cứ gian tham,
bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải trả. Hay nói như Tin Mừng
hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để chứng tỏ mình yêu Chúa
thật tình.
Thưa anh chị em, chúng ta thường bị cám dỗ thêm đường thêm mật
vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất là giới trẻ, thoạt tiên tỏ
ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về tình huynh đệ, về công bằng,
về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu: “Từ bỏ mình, vác thập giá của
mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như chàng thanh niên giàu có đã từ
bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa
trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập giá – Chính như thế đó mà đau khổ
có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau khổ làm cho người Kitô hữu giống
Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta
cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa
gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao
giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và cũng tránh tìm Thánh giá nào không
có Chúa Kitô”.
Cái nghịch lý của thân phận người Kitô hữu là: “Ai muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình (hiến dâng mạng sống mình vì
tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục
Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài sống lại”, thì người Kitô hữu
trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ bỏ mình, vác thập giá”, cũng
sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh quang. Con đường thập giá là
con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là con đường nhờ đó mà tình yêu
đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến thắng trên tội lỗi và sự chết
của cả loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành Thánh lễ là mỗi lần tái
diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau nguyện xin Chúa cho
chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm tình yêu và cứu chuộc
của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu cũng một cách như Chúa,
để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục sinh với Ngài.
12. Tại
sao có đau khổ?
Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ phải chịu đau khổ và người ta sẽ giết
Thầy”. Xa hơn một chút, Ngài sử dụng những từ ghê gớm này là vì chúng ta: “Từ
bỏ mình, vác thập giá mình, mất sự sống mình”
Chúng ta đừng thử thoát ra khỏi đó, lựa lọc Tin Mừng chính là từ
chối Tin Mừng. Dầu vậy điều đó không có nghĩa là chấp nhận Tin Mừng một cách mù
quáng nhưng trên lý thuyết mà thôi. Kẻ nào thực sự muốn đi theo Tin Mừng thì
không ngần ngại đặt vấn đề để biết rõ phải đi đâu và tại sao phải đi.
Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cực hình Thánh Giá? Đối với Phêrô
đây là điều không thể tưởng tượng được. Chúa Giêsu phản ứng nghiệt ngã bởi vì
hình dung điều sắp xảy ra là điều khó chịu đối với Ngài. Trong khi đấu tranh
chống lại sự âu lo, Ngài muốn hoàn toàn đi vào trong đường lối của Thiên Chúa,
thế mà Phêrô kéo Ngài về lại đường lối của con người. “Hỡi Satan, hãy cút đi!”.
Đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người. Điều này có nghĩa là
Ngài phải một lần nữa xua đuổi cám dỗ trở nên một Đấng Cứu Thế được toàn dân bỏ
phiếu ủng hộ, một Đấng Cứu Thế tành công mà không phải đi qua con đường khổ
nạn. Không, phải tới lúc Ngài sẽ bị lăng nhục và bị giết vì lòng ghen ghét. Đó
là đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con người.
Đường lối của Chúa sao? Đường lối của Chúa ở
đây đối với chúng ta thật khó hiểu! Thiên Chúa muốn có sự đau khổ sao? Thật là
phạm thượng. Chúng ta chỉ đoán thấy Thiên Chúa trao ban Con của Ngài để cứu
chuộc chúng ta và điều này dẫn đến giờ phút âu lo này. Trong một thế giới bất
công, bạo lực và theo đạo hình thức, Chúa Giêsu đã xử sự theo cách Ngài dứt
khoát phải chết. Đó là điều giờ đây Ngài cảm nhận được. Chúa Cha không giao phó
Ngài cho cái chết, Chúa Cha giao phó Ngài cho sự cứu chuộc mà sự cứu chuộc này
phải kinh qua cái chết.
Vẫn còn mầu nhiệm. Nếu tôi tự hỏi: “Tại
sao có đau khổ và chết chóc”, tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi đó, tôi không
thể hiểu được ý của Chúa. Nhưng tôi có thể nhìn xem Chúa Giêsu nắm bắt được ý
của Chúa như thế nào: “Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ phải chịu
đau khổ”.
Tôi có quyền xem đây là điều kỳ lạ, cách mạng, miễn là tôi chấp
nhận để cho gương của Chúa Giêsu dạy cho tôi môt bài học. Ngài đã không chấp
nhận đau khổ một cách mù quáng. Ngài đã thấy đường lối này rồi, Ngài đã thấy
rằng Ngài “phải” chịu đau khổ. Đàng sau Ngài, và đây là nghịch lý lớn của Kitô
giáo, chúng ta tiếp tục tiến vước trong bóng tối nhưng cũng trong ánh sáng nữa.
Do đó, khi chúng ta muốn “cứu mạng sống của chúng ta” bằng cách tách chúng ta
ra khỏi Ngài (vì sợ đau khổ) thì chúng ta sẽ mất nó. Giờ đây chúng ta có thể
hiểu rõ hơn khẳng định của Ngài: “Kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được
sống”
Nhưng các tiếng này đối với chúng ta có vẻ như không thể hiểu
được và khó nghe bao lâu mà chúng ta không biến chúng thành kinh nghiệm. Nếu
vậy, không ai theo Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Trái lại, những ai không đọc
Tin Mừng thì chắc hẳn những kẻ đó bị đóng khung trong những câu hỏi tại sao.
13. Thập
giá Đức Kitô.
I. ĐẠI DIỆN ĐỨC KITÔ HAY PHẢN NGHỊCH ĐỨC KITÔ (16, 21-23)
Trên đây, Đức Kitô vừa được các môn đệ nhìn nhận như Đấng phải
đến để thực hiện một khúc rẽ trong lịch sử. Vì thế, mặc dầu dân Do Thái không
nhận biết Chúa, các môn đệ vẫn tin nhận Ngài như vị Cứu Thế, Con Thiên Chúa
hằng sống. Thánh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin này. Nhờ thế, Ngài đã được Chúa
trao quyền thủ lãnh cùng với chìa khoá nước trời. Nền móng đầu tiên của Giáo
hội đã được thiết lập, căn cứ trên sứ mệnh của vị Tông đồ. Quyền lực ma quỷ
cũng không nổi lên chống lại được. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu vừa mới quyết định
hoàn tất việc kỳ diệu này, thì bóng đen hoả ngục đã bắt đầu quấy rối. Bối cảnh
bỗng thay đổi đột ngột.
1) Cảnh tương phản:
Chính Đức Kitô không ngần ngại loan báo, Ngài sẽ bị thất bại,
chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại. Đó thực là một tương phản ghê sợ: Ngài
là vị Cứu tinh, Con Thiên Chúa, sử dụng vương quyền Thần Linh, thiết lập một
cộng đồng mới cho Thiên Chúa, thế mà Ngài sẽ bị kết án, bị xử hình do chính dân
Ngài chọn. Nếu ngay từ bây giờ, Ngài rời bỏ dân Israel và các thủ lãnh, họ cũng
chẳng thay đổi ý kiến để cứu Ngài. Ngược lại, sự xa cách này càng làm họ ngoan
cố từ chối Ngài rồi tăng thêm lòng căm thù. Có ba tầng lớp được dân tín nhiệm:
Bậc Lão thành, đại diện giai cấp lãnh đạo, các Tư tế coi việc Phụng tự trong
đền thánh, các Luật sĩ, chuyên viên luật pháp. Tất cả các tầng lớp đều kết án
Ngài. Chúa Kitô bị chối bỏ nhân danh dân tộc , Đền thờ và luật pháp. Than ôi,
tình cảnh đó đã là một thảm trạng không phải cho Chúa Giêsu nhưng cho dân Do
thái.
Chúa Giêsu đã tiên báo định mệnh của Ngài quá đột ngột, khiến
cho các môn đệ xúc động không còn nghĩ đến biến cố Phục sinh nữa. Sự Phục sinh
đối với họ có lẽ quá khó hiểu. Các bản văn tiên tri ám chỉ những đau khổ của
tôi tớ Giavê vẫn là những giòng chữ chết, vô nghĩa trước mắt họ. Họ không nghĩ
tới mầu nhiệm Thập giá.
2. Đối với Phêrô, Phêrô cũng cảm thấy một tương phản như thế:
Chúa là người được chọn, được đặc ân, nắm trong tay vương quyền
tối thượng siêu nhiên, thế mà bỗng nhiên bị lao xuống vực thẳm. “Cút đi
Sa-tan”. Lời Chúa có vẻ thô bạo. Nhưng hình thức đó nói lên tầm nghiêm trọng
của vấn đề. Đường lối do Chúa Cha chỉ định sẽ đưa đến Golgotha. Ai muốn Ngài xa
khỏi đường lối này, là kẻ nuôi những tư tưởng hoàn toàn phàm tục để cám dỗ
Chúa. Thánh giá là tột đỉnh của đời Chúa Giêsu, là bí mật đích thực và là mầu
nhiệm chân chính của ơn cứu chuộc. Nhờ sự chết của Ngài, chúng ta sẽ được sống
nhờ việc Ngài tự huỷ, chúng ta sẽ được Phục sinh.
Đối với Phêrô, lời Chúa dạy thực là khẩn thiết. Vì yêu mến Chúa,
Phêrô can ngăn Chúa. “Thầy đừng chịu như thế”.
Hình như đó là lời can ngăn phát sinh do tình yêu giả trá, vì tình yêu chân
chính đưa đến Thiên Chúa. Tình yêu đó nhận biết rằng Thánh ý Thiên Chúa là tình
yêu, nên tất cả những gì không tùng phục thiên ý, chỉ là vẻ nhiệt thành bên
ngoài, chứ không phải lòng mến thực sự. Thánh Phêrô đã có đức tin đảm nhận tất
cả để đáp lại lời Chúa. Ngài còn phải học để biết tin tưởng và yêu mến một cách
trung thực. Người sẽ phải chu toàn phận sự theo tinh thần Thiên Chúa chứ không
phải theo quan niệm nhân loại. Người phải đổi cách sống và suy nghĩ. Người phải
biết đòi hỏi đó. Ngài và những người kế vị phải chấp nhận như thế.
Kết quả ra sao sau lời can ngăn của Phêrô? Chúa Giêsu đã khiển
trách “cút đi Satan”. Chúa khiển trách vì Phêrô đã nuôi những tư tưởng phàm tục
do ma quỷ xúi dục. Thế là đấng mà Chúa Giêsu tuyển chọn làm kẻ đại diện, đã vô
tình biến thành kẻ phản nghịch. Lời Luther sau này ám chỉ Giáo Hoàng là địch
thủ chí tử của Đức Kitô, hình như vô tình đã có một vài dấu vết nơi vị Giáo
Hoàng tiên khởi.
Nhưng chớ vội lầm tưởng! Tin Mừng đã đổi giọng điệu! Chắc hẳn
Người sẽ là địch thủ của Đức Kitô nếu Người đã ngoan cố theo cách suy nghĩ
riêng: “Như thế, người ta sẽ thấy rõ vẻ mâu thuẫn giữa chức vụ và tinh thần của
Người”. Song không phải như thế. Trong các đoạn Tin Mừng kế tiếp, ta thấy rằng
chính Thánh Phêrô được Chúa dẫn lên núi biến hình cùng với Thánh Giacôbê và
Gioan. Người đã được chiêm ngắm Chúa trong vinh quang. Lời Chúa tiên báo cách
nghiêm trọng sự phục sinh của Ngài lúc đó rất dễ hiểu với Thánh Phêrô. Trong
chương mười bảy Tin Mừng Matthêu, Chúa đã dùng một phép lạ đặc biệt, giúp Phêrô
được hiểu biết chắc chắn về chức vụ là con Thiên Chúa của Ngài. Trong chương
19, chính Phêrô đã nói nhân danh anh em đồng viện, rồi cũng chính người cùng
với hai con ông Giêbêđêô đã gần Chúa trong vườn Cây dầu. Sau đó, người đã chối
Chúa, lao sâu xuống vực thẳm lần thứ hai. Nhưng khi Chúa đã sống lại, theo Tin
Mừng Thánh Gioan, Ngài đã trao phó cho Thánh Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên.
Công vụ sứ đồ mô tả Phêrô là người hướng dẫn và là thủ lãnh của Giáo Hội sơ
khai. Quả thực, trong khoảnh khắc, Phêrô đã nghĩ lại. Ý tưởng nhân loại do ma
quỷ xúi dục đã nhường chỗ cho ý nghĩ do Thiên Chúa linh ứng. Môn đệ đã qua
ngưỡng cửa Thánh giá. Người đã chấp nhận tinh thần của Thầy Chí Thánh. Chức vụ
trong Giáo Hội phải nhằm mục đích phục vụ Thánh giá. Các viên chức trong Giáo
hội không được ích kỷ, không được để bị lôi cuốn bởi tính yếu đuối và lòng đạo
đức sai lạc trong các quyết định. Vị đại diện Đức Kitô phải theo tinh thần Đức
Kitô chu toàn nhiệm vụ đã nhận lãnh. Chỉ khi nào biết mặc lấy tinh thần Đức
Kitô, nhận lãnh chức vụ nơi Ngài, hoàn toàn giống như Ngài, được niêm ấn bằng
Thánh giá, bấy giờ họ mới không phải là địch thủ của Đức Kitô.
Vậy ngay từ khi bắt đầu huấn luyện tông đồ, Chúa đã nói về Thánh
Giá. Người ta không xứng đáng với danh hiệu tông đồ, nếu không yêu thích Thánh
Giá. Đó là chân lý không những có giá trị đối với Phêrô, nhưng còn đối với
chúng ta.
II. BẮT CHƯỚC ĐỨC KITÔ (16, 24-28)
Không phải chỉ có Chúa Giêsu và Thánh Phêrô mới được mời gọi
chịu đau khổ, nhưng tất cả các môn đệ của Chúa cũng đều phải chịu đau khổ.
Ở đây không mập mờ “Nếu ai muốn làm môn đệ của ta hãy bỏ mình”.
Phải từ bỏ những nguyện vọng, chương trình, tư tưởng riêng để hoà hợp với nhãn
quan Thiên Chúa. Vì tư tưởng loài người không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Về vấn đề này, lời Chúa nói với Phêrô rất rõ ràng. Kitô giáo không phải để mỗi
người tôn vinh chính mình theo chiều hướng nhân loại, nhưng Kitô giáo đòi phải
thực hiện một bước tiến mới mẻ tuyệt đối: Phải chết đi để được sống, từ bỏ để
lãnh nhận, từ chối để quyết đáp.
Tự thâm tâm phải từ bỏ để vác thập giá mình theo Chúa. Đó là một
tâm tình sẵn sàng chịu chung số phận với Chúa Giêsu, chịu bách hại và lùng bắt.
Thánh giá là sự hành quyết nhục nhã dành cho những tên nô lệ. Phải biết chuẩn
bị chịu khổ hình này. Phải liều chịu như vậy. “Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ
mất, còn ai mất mạng sống mình vì ta, sẽ cứu được”. Ở đây không những chỉ nói
về lợi lộc và thua thiệt đối với của cải tạm thời, nhưng đối với chính mạng
sống để bị thua thiệt hoàn toàn hay được lợi lộc hoàn toàn. Phải từ bỏ cả vũ
trụ hư nát hơn là đánh mất linh hồn hay làm hại linh hồn bất diệt. Cuộc sống
vĩnh cửu thực là vô giá. Lấy gì đền bù lại linh hồn. Vậy ta phải có mục đích
duy nhất là bắt chước Đức Kitô. Tôn giáo không phải chỉ là một lãnh vực hoạt
động trong hoạt động khác của cuộc sống. Kitô giáo cũng không phải chỉ là một
hỗ trợ phụ thuộc, ngược lại, Kitô giáo đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt để trở
nên con người hoàn toàn mới mẻ.
Sở dĩ Chúa Giêsu đòi hỏi như thế là vì một nguyên do rất đặc
biệt “Con Người phải đến trong vinh quang Chúa Cha với các Thiên thần, bấy giờ
Ngài sẽ thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự nghiệp của họ”. Sự kiện ấy đem lại một viễn tượng mới về
cùng đích tối hậu trường tồn và vĩnh cửu: Ta phải từ bỏ để chuẩn bị ngày Chúa
đến. Tất cả những gì thuộc về dương thế và thời gian đều có tính cách chuẩn bị
và tiên phong. Mục đích thực sự của chúng ta là Thiên đàng vĩnh cửu. Đức Kitô
đã đến lần thứ nhất để hoàn tất thực tại này. Nhưng thực tại ấy vẫn còn bí ẩn
nhiệm mầu để chỉ hiển hiện khi Chúa bày tỏ vinh quang rực rỡ trong lần tái
giáng. Như thế người công giáo nhìn về một vũ trụ khác mà ngay từ bây giờ họ có
thể hướng tới. Thế giới hiện tại tạm thời cũng có đôi chút hấp dẫn. Những ai
đứng bên ngoài Kitô giáo không biết đến thực tại khác ngoài thế giới này, thì
họ cho thái độ của Kitô giáo là một thái độ mơ mộng đầy ảo tưởng, không biết
lợi dụng thế giới và thời gian. Ngược lại người công giáo lại gọi kẻ dấn thân
hoàn toàn vào trần thế mà quên đi thực tại siêu việt, là kẻ mù quáng thiển cận
và suy bại. Đó là những lập trường không thể đội trời chung. Một đàng quá ích
kỷ vụ lợi, một đàng đòi xả kỷ hy sinh; một đàng thích hưởng thụ, một đàng thích
dâng hiến cuộc sống. Để đáng được làm môn đệ của Chúa Giêsu, phải nắm vững lập
trường: Sẵn sàng chịu thua thiệt để được lợi lộc. Thái độ chấp nhận này sẽ biến
đổi tất cả đời sống. Không gì nguy hiểm hơn việc tối thiểu hoá tinh thần bắt
chước Đức Kitô. Dù sao, không thể vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về ma quỷ.
Thiên quốc vinh quang của Thiên Chúa thực bao la! Được vĩnh viễn tham dự vinh
quang này là một ơn huệ cao trọng, vì thế ta sẵn sàng bỏ những gì khác để đền
đáp ơn huệ này. Đó là một thái độ đáp trả vô điều kiện, phát xuất từ một tâm
hồn vui vẻ, bằng lòng bước theo đường Thánh giá, chịu vác Thánh giá hằng ngày.
Chết là điều kiện tiên khởi và tuyệt đối để được sống lại. Chỉ có ai hiểu được
điều ấy mới là người Công giáo.
14. Chúa Giêsu Kitô là ai?
– Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về "Trang Giấy Gấp
Lại". Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt,
chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:
"Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá
Những giọt mưa trên mái lá.
Tôi vẫn mở những quyển tập cũ
Bất chợt cho tôi gặp thấy
Một trang tập đã bị gấp lại
Và bên ngoài tôi đọc thấy
Dòng chữ do chính tay tôi viết
Lúc còn thiếu thời như sau:
Thầy giáo chúng ta bảo ta rằng,
Hãy tạm gác lại vấn đề.
Vì ở đây ngay trong lúc này
Nó quả thật là khó hiểu.
Tôi mở trang tập bị gấp lại
Đọc vấn đề tôi đã viết,
Mỉm cười tôi gật đầu rồi nói
Đúng vậy, thầy giáo nói có lý
Bây giờ tôi mới hiểu ra.
Có nhiều trang sách của cuộc đời
Đã ghi lại thật khó hiểu.
Bây giờ ta hãy xếp lại đây
Và để lại nơi bên ngoài.
Thầy cao cả của chúng ta bảo
Hãy để những vấn đề này nằm yên,
Vì chúng thật khó hiểu,
Rồi ngày kia trên thiên đàng
Chúng ta hãy mở ra và đọc,
Rồi chúng ta có thể nói
Thầy cao cả thật là có lý,
Bấy giờ chúng ta mới hiểu.
Bài thơ này như là một kinh nghiệm sống, có những điều bây giờ
trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên đàng, đọc lại chúng ta sẽ
hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm hôm nay quả thật là khó
hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho chúng ta hôm nay khi phải đối
diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong cuộc đời: "Ai muốn theo
Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo Thầy".
Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài Phúc Âm tuần trước (x. Mt
16,12-23) trả lời cho câu hỏi: "Các con bảo Thầy là ai?", thánh Phêrô
đã nhanh nhẹn trả lời: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống".
Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng không phải do tự sức người
của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu lúc đó đã khen
Phêrô là kẻ: "Có phúc", vì được Thiên Chúa Cha chúc phúc mạc khải cho
biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói chúa Giêsu đã lên chức cho
Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo Hội của Chúa: "Phêrô con
là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và sống trọn vẹn điều ngài đã
tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức tầm thường của con người,
là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ nhục, bị giết chết trên
thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài tại
Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: "Lạy Thầy không thể thế được, Thầy
sẽ chẳng phải như vậy đâu!". Nhưng Chúa Giêsu trách Phêrô là Satan, là kẻ
cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn về Chúa Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại.
Con đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn
vẹn con đường này và Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó:
"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta". Thầy
Cao Cả của chúng ta có lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu
khi chúng ta được gặp Ngài trên thiên đàng như bài thơ đã nói: "Thầy Chúng
Ta Thật Có Lý", khi chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những
khó khăn, những thập giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con can đảm, trung thành cho
đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người đi qua, con đường này
không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với nhiều thập giá đau khổ.
Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12), thánh Phaolô Tông Đồ đã
mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ sống động và thánh thiện
làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn cuộc đời làm của lễ dâng
hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức tin mà chúng con tuyên xưng
qua kinh Tin Kính.
15. Từ
bỏ.
Caretto là chủ tịch Công giáo Tiến hành thuộc nước Ý. Ông là một
nhân vật nổi tiếng được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới. Đi tới
đâu, ông cũng mang theo một cuốn địa chỉ dày cộm, để liên hệ với nhiều người và
nhiều tổ chức. Thế rồi, một hôm ông chợt tỉnh và thấy rằng mình chỉ là một kẻ
sống bằng nghề buôn bán tư tưởng đạo đức. Thế là không đầy 24 tiếng đồng hồ,
ông đã từ bỏ tất cả để vào Dòng Tiểu Đệ, sống một nếp sống nghèo hèn và khiêm
hạ. Tại đây, người ta đòi hỏi ông phải từ bỏ mọi sự để bắt đầu thời kỳ tu tập.
Ông trả lời: tôi đã từ bỏ tất cả rồi. Người phụ trách cho biết: anh chưa từ bỏ
hết đâu. Ông suy nghĩ một lát và nhận ra mình còn giữ cuốn địa chỉ. Thế là ông
ta bèn đốt cuốn đó đi và cảm thấy thực sự nhẹ nhõm. Ông đã viết như sau: Ôi,
tôi thật hạnh phúc đến nỗi có thể lăn lộn trên cát và tôi thưa lên: Lạy Chúa,
con thực sự yêu mến Chúa.
Trường hợp của Caretto tuy độc đáo nhưng cũng chỉ là một cách áp
dụng lời Chúa Giêsu phán dạy: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi. Vậy từ bỏ
mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên
ngoài. Chẳng hạn như những níu kéo của tiền bạc, của danh vọng và ngay cả của
những người chúng ta thương mến. Con đường vào nước trời là một con đường nhỏ
bé gập ghềnh, chúng ta không thể mang theo những dụng cụ lỉnh kỉnh, như nồi
niêu xoong chảo, củ hành củ tỏi. Chúng ta giống như người leo núi, để chinh
phục một đỉnh núi cao, chúng ta chỉ được phép mang theo những dụng cụ thật cần
thiết mà thôi.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi
những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là
chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự
thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như
lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều
ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng.
Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng
giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng
nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời
gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là
Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi
buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống
và làm gương trước cho chúng ta như lời Ngài đã phán: Con cáo có hang, chim
trời có tổ, nhưng Con Người không có cả chỗ tựa đầu.
Và thánh Phaolô đã diễn tả về sự từ bỏ ấy như sau: Là ngôi vị
Thiên Chúa, Ngài không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài
đã tự hủy mình đi, mặc lấy thân phận con người, trở nên giống chúng ta ngoại
trừ tội lỗi, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Còn chúng ta
thì sao? Để trở nên môn đệ của Chúa, chúng ta có thực sự sống tinh thần từ bỏ
chưa? Nếu có thì chúng ta đã từ bỏ được những gì?
16. Tiền
của.
Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn
của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau
những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: “Có
tiền mua tiên cũng được”. Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh
doanh giàu có này? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn
nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ
vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên
sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực.
Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một
nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước
ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái
lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà
thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù
trong một vụ dính líu về tội tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong
danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa kỳ trong thập niên hai
mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.
Bức tranh trên đây không hẳn là số phận tất yếu cho sự giầu có
nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống an lành, hạnh phúc. Tiền
bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta cũng cần phải có tiền bạc
để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng thiếu, bần cùng là một sự dữ
mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc
của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được xử dụng như một phương tiện,
tiền bạc sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn, trái lại,
khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho cuộc đời, nghĩa là chúng
ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, một
lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần là điều tất yếu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Nếu
người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
hoặc “Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích gì?”. Qua những
lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta trở lại với nền tảng chân lý trong cuộc sống
là hãy chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống vĩnh
cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm lại, hãy dùng tiền của
và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống hiện tại mà cho cả linh
hồn và cuộc sống mai sau nữa.
Đối với sự vật, người ta có thể nhìn bằng hai cách khác nhau:
người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật nhiều tiền của, vì lòng
tham của họ không bao giờ được thoả mãn. Thu tích cho nhiều mà lòng vẫn không
toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá trị đích thực của đồng
tiền, của sự vật nữa. trái lại, người nghèo mà có tâm hồn thanh thoát, không
ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi sự trên đời. Dưới mắt
họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương đối. Tất cả phải đặt
vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.
Tiền của là để phục vụ con người, để giúp con người sống và chu
toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên Chúa đặt vào họ. Nhưng một
khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá huỷ giá trị và ý nghĩa của chúng, đồng
thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa cuộc đời mình. Thực vậy, vì
tiền bạc, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời; vì tiền bạc, người ta có
thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác; vì tiền bạc, người ta có
thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị
của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm tiền
bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành động bất
chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần quảng đại để biết mở
rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những người anh em túng nghèo
khốn khổ hơn.
“Được lợi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn thì ích gì?” Chúng
ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó: không bao giờ được quên mối tương quan giữa
của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao giờ được quên mối tương quan
giữa cuộc sống đời này và đời sau: sẵn sàng hy sinh của cải vật chất để bảo đảm
linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược lại; sẵn sàng hy sinh đời này chứ
không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần lợi dụng từng giây phút, cần hoàn
tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để làm giàu cho cuộc sống, để làm cho
đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chúa không cấm chúng ta làm giàu, không cấm
chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm
giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên
Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và thánh thiện, bằng một cuộc sống
quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là cách đầu tư bảo đảm cho gia
nghiệp đời mình mai sau.
17. Theo Thầy.
Trong cuốn sách “The 911 Handbook”, Kent Crockett nói rằng ở bên
trong mỗi chiếc máy bay có những dụng cụ để quyết định phương hướng cho máy
bay. Những dụng cụ này sẽ chỉ dẫn chính xác, ngay cả khi phi công phán đoán một
cách khác. Vào ngày nắng ráo, bầu trời trong sáng, phi công có lẽ không cần đến
những dụng cụ này, nhưng vào ban đêm hay sương mù, những dụng cụ này quyết định
mạng sống của phi công.
Ngày 16.7.1999, John F. Kennedy Jr., con trai của cố tổng thống
John Kennedy, đã bị rớt máy bay ngoài biển đông, gần Martha’s Vineyard, tiểu
bang Massachusetts, gây tử vong cho vợ là Carolyn Bessette Kennedy và người chị
vợ, Lauren Besette. Kennedy đã lái phi cơ bay vào vùng đêm tối ngập sương mù –
haze. Sương mù là sự kết hợp của hơi nóng, độ ẩm và khí ô nhiễm thường xảy ra
trong vùng biển đông của Hoa Kỳ vào những đêm mùa hè. Trời vừa tối, vừa bị
sương mù, Kennedy đã bị mất đường chân trời và vùng đất phía dưới cần thiết để
hướng dẫn máy bay. Khi đó phi công phải biết sử dụng những dụng cụ máy móc
hướng dẫn, và phải có kinh nghiệm. Kennedy không được huấn luyện cẩn thận để sử
dụng những dụng cụ này nên bị mất phương hướng, thay vì bay lên trời cao, lại
cắm đầu đâm xuống biển.
Bài Phúc âm hôm nay, trình bày một hoàn cảnh giằng co giữa hai
phương hướng. Chúa Giêsu theo thánh ý của Thiên Chúa Cha, sẽ đi lên Giêrusalem
chịu đau khổ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Còn Phêrô muốn
theo phương hướng trần gian: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải
như vậy đâu”. Chúa Giêsu quay lại mắng Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau
Thầy... con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết
những sự thuộc về loài người”. Rồi Ngài dạy các môn đệ: “Nếu ai muốn theo Thầy,
thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.
Căn bản của sự từ bỏ chính mình là phải quyết định xem ai sẽ
kiểm soát cuộc đời của mình. Người ta thường nghĩ sự từ bỏ mình giống như việc
hãm mình trong mùa chay, từ bỏ ăn kẹo, ăn kem, hút thuốc lá... Những sự hy sinh
hãm mình này vẫn tốt, nhưng không phải là sự từ bỏ mà Chúa Giêsu đề cập đến.
Điều chính yếu là Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác cuộc đời trong bàn
tay của Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta chấp nhận sự hướng dẫn và ý định của
Ngài cho cuộc đời của chúng ta. Đây mới chính là sự từ bỏ thực sự.
18. Theo Thầy
Năm 1991, trung tá Jeff Patton đã lái phản lực cơ chiến đấu F-15
trong trận đánh được mệnh danh là Desert Storm – Bão sa mạc. Ngay đêm đầu tiên
của chiến trường, sứ mạng của ông là hộ tống những chiến đấu cơ thả bom xuống
những nhà máy chế tạo vũ khí hoá học ở phía bắc Iraq. Ngày giờ của cuộc hành
quân đã được chọn lựa. Bởi trời tối, không có ánh trăng, lại nhiều mây mù đã
giúp cho cuộc tấn công của những phản lực cơ đồng minh không bị theo dõi bởi
dàn phòng không của Iraq, nhưng cũng rất nguy hiểm cho các phi công. Họ phải
hoàn toàn tuỳ thuộc vào những dụng cụ máy móc điều khiển.
Vừa bay vào không phận Iraq, phản lực cơ của Patton đã bị “khoá
chặt” bởi dàn ra-đa chống hoả tiễn của Iraq. Ông cố gắng vùng vẫy mãnh liệt để
thoát ra khỏi sự kiểm soát của ra-đa. Tuy thành công, nhưng ông lại gặp một vấn
đề mới. Sự vùng vẫy đảo lộn trong đêm tối làm ông chóng mặt, và mất phương
hướng. Tâm trí ông phán đoán rằng phi cơ quay về bên phải là phóng lên trời
cao, nhưng khi kiểm soát lại những dụng cụ máy móc, ông thấy rằng chiếc máy bay
đang ở vào 60 độ cắm đầu xuống đất! Trong khi lý trí nghĩ rằng phải điều chỉnh
lại phi cơ về một hướng khác, thì những dụng cụ hướng dẫn cho biết phải làm
ngược lại. Vì đang bay hoàn toàn trong đêm tối, ông phải quyết định nhanh chóng
tin vào phán đoán của lý trí hay dụng cụ hướng dẫn. Số mạng của ông tuỳ thuộc
vào sự quyết định đúng lúc này. Ông trở cánh phi cơ lại cho thăng bằng và kéo
chiếc F-15 phóng thẳng lên trời. Sức kéo mạnh gấp bảy lần lực hút của trái đất,
để lôi chiếc phi cơ khỏi lao xuống đất. Chỉ trong giây lát, ông nhận ra mình đã
quyết định đúng. Nếu ông hạ mũi phi cơ xuống giống như điều đã nghĩ, phi cơ đã
đâm vào những dãy núi ở Iraq. Tin tưởng vào dụng cụ hướng dẫn đã cứu mạng sống
của ông. Mặc dù quyết định theo dụng cụ hướng dẫn, ông cũng nhận ra rằng nếu
trì hoãn thêm ba giây nữa thôi, phi cơ vẫn có thể đụng vào núi. Quyết định
đúng, nhưng trễ cũng vẫn chết.
Trong cuộc hành trình tinh thần, Thiên Chúa cũng ban cho chúng
ta “những dụng cụ hướng dẫn”. Đó là tiếng nói của lương tâm, lề luật, Thánh
Kinh và những giảng huấn của Giáo Hội. Chúng ta phải từ bỏ tính ích kỷ và dục
vọng để vâng theo những hướng dẫn tinh thần này là điều kiện căn bản cho đời
sống thiêng liêng. Từ bỏ mình, vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha như chính Chúa
Giêsu đã làm là điều kiện để trở nên môn đệ của Ngài.
Đây là hành động chứng tỏ việc từ bỏ chính mình để mang lại vinh
danh cho Thiên Chúa và giúp xây dựng vương quốc Thiên Chúa. Thập giá Chúa Giêsu
đề cập ở đây không phải là cái gì áp đặt lên chúng ta, nhưng là điều chính
chúng ta đã chọn lựa với sự tự do để trung thành với Chúa Giêsu.
Thập giá là một sự hy sinh như chu toàn bổn phận của một người
cha, mẹ, chồng, vợ, con cái... trong gia đình, việc dạy giáo lý ngày Chúa nhật,
viếng thăm người ốm đau. Đó là một lời mời gọi tham gia vào việc tông đồ mục
vụ, sứ mạng truyền giáo, hay thi hành một việc từ thiện bác ái trong xã hội.
Sách Giáo lý Công giáo số 618 đã nói: “Thập giá là hy sinh độc
nhất của Chúa Kitô vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng,
trong ngôi vị Thiên Chúa nhập thể của Ngài, Ngài đã một cách nào đó hiệp nhất
với tất cả mọi người, Ngài dành cho tất cả mọi người khả năng kết hiệp với mầu
nhiệm Vượt Qua của Ngài, theo cách thức mà Thiên Chúa biết”. Ngài kêu gọi các
môn đệ:”Vác thập giá và đi theo Ngài”, bởi vì Ngài đã chịu đau khổ vì chúng ta,
Ngài đã vạch cho chúng ta con đường để bước theo Ngài.
Khi ta biến đổi đau khổ thành ơn cứu độ, bước theo những vết
chân của Chúa Giêsu đã đi. Là người Kitô hữu, đã đón nhận ơn sủng của Thiên
Chúa trong đời sống mình, chúng ta phải thể hiện ơn sủng đó ra bằng hành động,
qua những công việc bác ái yêu thương đối với những người cần giúp đỡ. Chúng ta
phải sống thế nào để người khác nhìn thấy Chúa Giêsu đang sống trong chúng ta.
Carol Kent, trong cuốn “Detours, Tow Trucks, and Angels in
Disguise” đã chia sẻ câu chuyện của một người đàn bà tên là Katherine. Chồng
của Katherine đã ra đi, bỏ bà và đứa con trai 11 tuổi tên là John. Vài năm sau,
John đòi dọn vào ở với cha nó. Nhưng rồi người chồng cũ của Katherine cũng bỏ
rơi John luôn. John phải ra sống ở ngoài vỉa hè đường phố. Một ngày nọ,
Katherine đã nhận được một cú điện thoại cho biết con trai của bà đang bị giữ
trong trung tâm cải huấn của tiểu bang vì tội sử dụng thuốc phiện.
Sau cùng John đã được phục hồi, trở về nhà, làm lại cuộc đời,
trở nên một thanh niên tử tế. Nhưng một số người hàng xóm vẫn từ chối cậu vì
tiếng xấu của cha cậu. Quá đau khổ, một ngày kia, John phải la lên với mẹ mà
rằng: “Tại sao người ta lại cứ luôn luôn so sánh con với cha con? Con sẽ kết
thúc cuộc đời giống như cha con sao?” Katherine ôm lấy con vào lòng và trả lời:
“Johnny, con có tới hai người cha cơ. Con phải chọn lựa xem theo người cha
nào”.
Phải, chúng ta có hai cha, một người cha dưới đất và người cha
trên trời. Chúa Giêsu đã luôn ao ước và hoàn toàn gắn bó với kế hoạch cứu chuộc
của Thiên Chúa Cha trên trời: “Điều này đã mang lại sinh khí cho tất cả cuộc
đời của Ngài, bởi cuộc khổ nạn cứu chuộc là lý do hiện hữu của sự nhập thể của
Ngài”. Và chúng ta, nếu muốn trở nên hoàn thiện, thì cũng phải bước theo con
đường Ngài đã đi như lời Ngài phán hôm nay: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ
mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”.
19. Từ
bỏ
Có hai vị ẩn sĩ lên đường hành hương. Một vị chủ trương cần phải
có tiền bạc và những phương tiện vật chất đầy đủ, thì mới bảo đảm được cho đời
sống tu trì. Còn vị kia thì luôn tin tưởng vào tinh thần từ bỏ và sự quan phòng
của Chúa.
Vừa đi hai vị vừa tranh luận với nhau mà chẳng ai thuyết phục
được ai. Khi họ đến bên bờ một dòng sông thì trời bắt đầu tối. Vị có tinh thần
từ bỏ liền đề nghị:
- Vì không có tiền, chúng ta không thể thuê được đò. Nhưng thôi,
tại sao chúng ta lại lo lắng quá nhiều đến thế. Chúng ta hãy nghỉ đêm ở bên này
và dâng lời chúc tụng Chúa. Sáng mai thế nào chúng ta cũng tìm ra người giúp
chúng ta qua sông một cách an toàn.
Thế nhưng, vị tin tưởng vào sức mạnh của tiền bạc và những
phương tiện vật chất liền quả quyết như sau:
- Ở bên này sông thì không có làng mạc và thú dữ sẽ tấn công
chúng ta bất kỳ lúc nào. Hơn thế nữa, làm sao chúng ta chịu đựng nổi cái lạnh
của đêm nay? Bên kia sông, chúng ta sẽ nghỉ đêm an toàn trong một quán trọ. Tôi
có mang theo tiền và chúng ta hãy thuê người chèo đò qua sông.
Khi hai người đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và
nói với người bạn của mình như sau:
- Anh đã thấy được ích lợi của việc giữ tiền trong túi chưa?
Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?
Nghe thế, vị tu sĩ luôn sống tinh thần từ bỏ liền mỉm cười và
nói:
- Chính tinh thần từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta. Anh đã
không tiếc tiền để thuê người lái đò là gì? Hơn thế nữa, mặc dù không có một
đồng xu dính túi, nhưng tôi cũng vẫn được qua sông, vì Chúa lo liệu cho tôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay. Thực
vậy, đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy rất nhiều lần Ngài đã đề cập tới tinh thần
từ bỏ.
Lần kia Ngài đang đi đường thì có một người đến và thưa:
- Tôi xin theo Thày bất cứ nơi nào Thày đi.
Và Ngài đã nói:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có
lấy một nơi tựa đầu.
Lần khác Ngài nói với một người:
- Hãy theo Ta.
Nhưng người đó thưa lại:
- Xin cho tôi được về chôn táng cha tôi trước đã.
Và Ngài bảo:
- Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi, hãy đi rao giảng nước
Thiên Chúa.
Rồi Ngài kết luận:
- Ai cầm cày mà còn quay trở lại thì không xứng đáng làm môn đệ
Ta.
Và qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài còn xác quyết:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.
Như thế, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ dứt khoát, không
thỏa hiệp, không lửng lơ, không bắt cá hai tay. Bởi vì giữa Thiên Chúa thánh
thiện và tội lỗi xấu xa, không thể nào đội trời chung với nhau.
Thế nhưng, trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta đã thỏa
hiệp với tội lỗi, với những ước muốn riêng tư, mặc dầu những ước muốn riêng tư
ấy đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Và tệ hại hơn nữa, nhiều khi chúng
ta đã đầu hàng tội lỗi, chúng ta làm điều xấu, cho dù chúng ta không muốn.
Chúng ta giống như một người tân tòng khi được dìm xuống nước,
cứ nhất định giơ một cánh tay lên, để cánh tay đó mai mốt có đi ăn trộm thì
không có tội vì đã không thuộc về Chúa.
Thế nhưng, nếu chúng ta nói rằng: Chúng ta dâng cho Chúa tất cả,
mà chỉ dừng lại một xó góc nhỏ bé của con tim cho tội lỗi, thì đó là dấu chỉ
chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta dâng gì cho Chúa.
20. Đánh
đổi
Trong bài Tin Mừng của thánh lễ Chúa nhật tuần trước ta thấy ông
Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa hằng sống. Mà
theo suy nghĩ của người Do thái nói chung và của các Tông đồ nói riêng thì Đấng
cứu thế sẽ là Đấng giải phóng dân bằng uy quyền và sức mạnh, bằng quân đội và
vũ khí. Do đó, khi Chúa Giêsu loan báo cho các Tông đồ về cuộc khổ nạn và cái
chết Người sẽ phải chịu, các ông không thể chấp nhận được.
Ông Phêrô đã kéo Chúa Giêsu ra một nơi và can gián Người: “Thưa
Thầy không thể thế được. Thầy chẳng phải chịu như thế đâu”. Nói câu đó, ông
Phêrô đã bày tỏ lòng thương mến và lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Vì thương mến
Chúa Giêsu nên ông không muốn Người phải khổ. Vì tin tưởng Chúa Giêsu nên ông
nghĩ rằng không lẽ gì Người đầy quyền năng như thế mà lại phải chịu để cho
người ta bắt bớ, hành hạ và giết đi. Nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông: “Hỡi
Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng
hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài
người thôi”.
Thì ra giữa tư tưởng của Thiên Chúa và tư tưởng của con người có
một khoảng cách và khác biệt rất lớn.
* Tư tưởng của con người là muốn mọi sự dễ dãi, tiện nghi, không
vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay ta sẽ thấy rõ điều ấy.
- Khi coi truyền hình người ta muốn ngồi một chỗ và dùng bộ phận
điều khiển từ xa, khỏi mất công đi lại điều chỉnh.
- Nếu ngại nấu ăn thì đã có mì, có cháo ăn liền, có cà phê uống
liền khỏi mất công nấu nướng, pha chế.
- Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không phải leo lên từng
bậc vất vả…
Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không phải là điều xấu. Trái lại,
nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa học để phục vụ đời sống con
người. Nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng tâm lý thích dễ dãi ấy vào
chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được Nước Trời một cách dễ dàng
thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy sinh bao nhiêu tốt bấy
nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm mình, giữ đạo một cách
tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được.
Với một lề lối suy nghĩ và một cách sống như thế, con người
không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn con đường thập giá, con đường
đau khổ để cứu độ con người. Tại sao Người không chỉ phán một lời tha tội cho
con người có phải dễ dàng hay không?
+ Cho dù con người suy nghĩ thế và muốn thế nhưng Thiên Chúa thì
khác. Người vẫn chọn con đường thập giá, chọn những hy sinh, chọn những thống
khổ, chọn cái chết để cứu độ con người. Và Người kêu gọi những ai muốn tìm hạnh
phúc, tìm niềm vui, tìm sự sống, tìm Nước Trời cũng hãy biết và hãy dám chọn
lựa như Người. “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo tôi”.
Chúa chọn con đường khổ giá không phải vì Người thích đau khổ.
Chúa muốn con người từ bỏ bản thân và vác thập giá không phải vì muốn đày đọa
con người. Nhưng đau khổ chính là thước đo của lòng yêu mến, bởi vì chỉ khi yêu
nhau thật lòng người ta mới dám hy sinh cho nhau, mới dám chịu khó, chịu khổ vì
nhau. Điều quan trọng là tình yêu được biểu lộ qua những đau khổ ấy.
Hạnh phúc không bao giờ là một món quà được cho không, biếu
không, nhưng phải mua bằng chính những nỗ lực, những hy sinh của mình.
Hạnh phúc Nước Trời là một món quà quí giá nhất và to lớn nhất.
Nếu phải mua nó bằng những vất vả hy sinh, bằng những từ bỏ đau đớn thì đó cũng
là điều dễ hiểu thôi.
21. Phải
từ bỏ mình
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong Chúa Nhật XXII Thường
Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chúng ta đã chia
sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi các tông đồ: "Người ta
bảo Con Người là ai?", và Chúa Giêsu hỏi chính các tông đồ; "Phần các
con, các con bảo Thầy là ai?", Phêrô đại diện cho các tông đồ tuyên xưng
đức tin: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống".
Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các
tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó là con đường khổ nạn mà
Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại can ngăn Chúa:
"Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng Chúa Giêsu quở
trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo Chúa: "Nếu ai
muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy theo Thầy. Vì chưng,
ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ
được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà mất lình hồn thì được ích
gì!".
Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ về cuộc đời
của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có hai con người: Một con
người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người chấp nhận cộng tác với
ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ vững đức tin của mình.
Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những khuynh hướng nghiêng
chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó cần phải thanh tẩy để
mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.
Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về đề tài này, về đời sống của
người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một câu chuyện vui như sau:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn,
nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên
là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị
thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc
đầu và xin được sang căn phòng khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới
thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ,
nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước
một vị đang bị treo trên Thập tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời:
"Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Kitô". Với chút xúc động lộ
trên gương mặt, anh Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người
bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi
thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì
đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng
lại sao giờ đây anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục
nhã trên Thập tự như vậy?”
Anh Intyra giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau
khổ trên trần gian này là lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những
đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người
sống khiếp hèn tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ.
Vì tránh được sự đau khổ này thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.
Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người Kitô chấp nhận đau khổ vì
người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời gọi hiểu ý nghĩa của đau
khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ, thì
niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất này. Đó là lý do tôi cảm thấy
lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập giá và muốn làm môn đệ của
Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người Kitô sống để được trở thành
người Kitô.
Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận theo làm môn đệ, Ngài
không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng Ngài mời gọi chúng ta:
"Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá hằng ngày mà theo
Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất sự sống mình vì Thầy thì
sẽ được sống muôn đời".
Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà có thể nhiều người hay mỗi
người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi
tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích lợi gì, chúng ta cần phải
sống và thực hành những chân lý ấy
Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ Makia còn một đoạn kết
thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra đến nhà thờ những người
Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào làng của người Công giáo
thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây thì có nhóm những
người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp giết nhau, nơi công cộng
thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà đạo sĩ: "Đây là
đâu vậy?" Đạo sĩ Makia trả lời: "Đây là làng của người Công
giáo". Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ: Chúng ta
hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, nhưng tôi
không muốn trở thành người Kitô nữa.
Nếu chúng ta chỉ nói: "Lạy Chúa, Lạy Chúa" ngoài môi
miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình, có thể chúng ta sẽ rơi
vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên. Chúng ta nói mình sẵn
sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận những hy sinh, chấp
nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng ta có thự hành điều
này hay không?
Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự sống những gì mỗi người chúng
ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không phải để khoe khoang, nhưng để
góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta đang sống, góp phần giúp anh chị
em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta là người đầu tiên phải đi trên con
đường này để đến với Chúa trước tiên, thì mới có thể hy vọng giúp anh chị em
đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta trong đức tin mà giờ đây
chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
22. Sống
mầu nhiệm Thánh giá
“Ai muốn theo Ta…”
Phúc Âm Thánh Matthêô mô tả diễn tiến cuộc đời của Chúa và đoạn
đường ở Cêsarê Philipphê là một khúc quanh lịch sử. Chúa đi về phí cực bắc xa
thành Giêrusalem “hay giết các Tiên tri”. Bỗng dưng Ngài quyết định quay trở
lại. Ngài tỏ ra cho các môn đệ biết rằng “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu
nhiều đau khổ bởi các kỳ hào, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba
thì sống lại”.
Mấy lúc gần đây, lời Tiên tri về “người tôi tớ đau khổ” hay phảng phất trong trí khôn Ngài, trong khi
các môn đệ không hay biết gì cả. Ngài quyết định bày tỏ rõ ràng những gì sắp
xảy ra. Đối với Ngài, việc phải đến sẽ đến, vì đó là Thiên Ý Chúa Cha và Ngài
là “tôi tớ”,
là Con sẽ thực hiện tất cả.
Nhưng khi ngài vừa tiết lộ tất cả những sự thật thì Phêrô, con
người vừa được đặt làm nền tảng Giáo Hội và được trao cho chìa khóa Nước Trời
đã đứng lên phản đối. Ông kéo Thầy ra một nơi để can gián: “Lạy Thầy, không thể
thế được”. Chúa Giêsu phản ứng lại mạnh mẽ: “Hỡi Satan, hãy lùi ra đàng sau,
con làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Lần này, chính “xác thịt và máu huyết” đã soi
sáng cho Thánh Phêrô. Phêrô không hiểu nỗi mối tương quan mật thiết giữa Cha và
Con, giữa ý muốn Cha và Con. Ngày xưa, nguyên tổ nhân loại đã nói lên hai chữ
“bất tuân”, ngày nay con Thiên Chúa đáp lại bằng hai chữ “xin vâng”, cho dầu
phải đau khổ tột độ, cho dầu phải chết để cứu vãn nhân loại.
Đây là lần đầu tiên Chúa loan báo cuộc tử nạn của Ngài.
Cũng trong giòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu, theo Thánh Matthêô đã
nói lên luật hy sinh cho những ai muốn làm môn đệ, gồm 3 điểm: Từ bỏ mình, vác
Thập giá, và theo Chúa. Ba điểm đó, tuy là ba nhưng cũng chỉ là một: theo Chúa
trên con đường khổ giá. Chúa lấy sự nhẫn nại đu khổ như một điều kiện để theo
Ngài, làm đồ đệ Ngài. Ngài long trọng tuyên bố: “Ai muốn theo Ta thì hãy bỏ mình,
vác Thập giá mà theo Ta” (Mt 16,24).
Chúa phán cùng các Tông đồ: “Này, chúng ta lên Giêrusalem”. Chúa
không nói: Thầy lên Giêrusalem, mà chúng ta cùng lên, nghĩa là Thầy, cả các môn
đệ, Chúa và chúng ta. Vì thế mà Thánh Phaolô cũng nói: “Tôi phải hoàn tất trong
thân xác những gì thiếu sót trong cuộc thương khó của Chúa Kitô” (Col 1,24)
Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương cùa nhóm “Tự nguyện chịu
đau khổ”
do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói
lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả
mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong
số 6.000 được ghi lại, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận
Thánh giá.
Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ,
nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ”.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.
23. Hai con đường
– Lm Nguyễn Ngọc Long
(Bài giảng cho Thiếu Nhi)
Các con thương,
Ở tuổi thiếu niên ai trong các con cũng từng nghe những bài hát
Con đường đến trường: “Một chiều đi trên con đường này, hoa điệp vàng trải
dưới chân tôi, ngập ngừng trong tôi như thầm hỏi, đường về trường ôi sao lạ
quá…”
Ngoài con đường đến trường, mỗi ngày các con còn đi trên nhiều
con đường khác nữa: đường đến nhà thờ, đường đi chơi, đường đến siêu thị… rồi mỗi đường có những đặc điểm khác nhau:
đường nhựa, đường đá sỏi, đường rộng, đường hẹp, có đường sình lầy nếu đi không
cẩn thận sẽ xuống ao!…
Tâm lý bình thường ai cũng muốn đi đường nhựa rộng rãi, thích đi
trên những con đường bằng phẳng thoải mái. Còn những con đường chật hẹp sình
lầy ai cũng ngán và sợ hãi. Vừa qua Cha và một số cha đi đến vùng sâu vùng xa,
trên những con đường vừa chật hẹp vừa sình lầy trơn trợt, tí nữa là cả người
lẫn xe xuống kinh uống nước chết rồi…
Các con thương, con đường ở trần gian là như thế, còn con đường
về nước trời thì thế nào? Có phải thênh thang rộng mở nhiều người muốn đi, và
con đường xuống hoả ngục thì chật hẹp ít người muốn đến? Lời Chúa hôm nay muốn
các con đi con đường nào?
Trong bài đọc 1, các con nghe lời than van của ông Giêrêmia: vì
làm tiên tri cho Chúa, ông phải chịu biết bao nhiêu gian nan khốn khổ, nào là
bị người khác chế nhạo, nào là bị phản đối, bị khinh chê thậm chí ông bị mưu
sát nữa.. Và đã nhiều lần ông không muốn đi theo Chúa làm tiên tri nữa, ông
không muốn làm theo ý Chúa nữa… nhưng ông đã không thể bỏ sứ mạng đó được vì
Chúa đã lôi cuốn ông…
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiên báo mình sẽ phải chịu
khổ hình, chịu người khác bắt bớ thế nào “Người sẽ đi Giêrusalem, chịu nhiều
đau khổ…
sẽ bị giết chết và ngày thứ ba thì sống lại. Và Ngài còn mời gọi con người theo
Ngài, đi với Ngài trên con đường thập giá với điều kiện: “Nếu ai muốn theo
Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”
Các con thương,
Con đường của Chúa Giêsu là con đường thập giá, con đường hy
sinh và đau khổ. Chúa Giêsu đã đi đường này ngay khi Ngài xuống thế: chấp nhận
sinh làm người phàm; đi trên con đường sang Ai Cập tránh sự truy sát của bạo
chúa Hêrôđê, con đường rao giảng rày đây mai đó, Ngài đi trên đường tới
Giêrusalem, con đường thập giá tiến về núi Sọ- con đường cứu độ. Tất cả chuẩn
bị cho con đường về trời ngự bên hữu Chúa Cha.
Con đường đó các tông đồ và các thánh cũng đã theo, Giáo hội
ngày hôm nay đang tiếp bước theo chân Chúa. Chúa Giêsu hôm nay vẫn mời gọi các
con hãy đi theo Ngài. Chúa cho thấy rõ điều kiện của những ai muốn theo Chúa:
“từ bỏ mình và vác thập giá mình”. Từ bỏ con người cũ của mình để mặc lấy con
người mới, con người theo hình ảnh của Thiên Chúa dựng nên từ ban đầu. Chấp
nhận bỏ mình đi đồng nghĩa với việc thay da đổi thịt, thay con người của ích kỷ
nhỏ nhen, con người tội lỗi, của tính tự ái, kiêu căng tự phụ… từ bỏ hết để nhận thập giá của mình mà theo
Chúa với lòng yêu mến.
Có một vị thánh đã tưởng tượng chuyện như sau: Một hôm Chúa
Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn
đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do
lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở
hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan:
“Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế!”. Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ
ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên,
Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.
Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang
theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi,
ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên
tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh
đâu”. Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng
quảng đại tính toán”.
Xin Chúa giúp các con đón nhận những hy sinh hằng ngày, chấp
nhận đi trên con đường thập giá là những khó khăn, những mệt nhọc trong việc
học tập và rèn luyện những nhân đức.
Xin giúp con ghi nhớ rằng công khó của học tập và rèn luyện hôm
nay, chính là hoa trái của niềm vui và hạnh phúc mai sau.
Xin giúp chúng con trung thành theo đạo Chúa, giữ đạo Chúa cho
đến cùng.
Xin giúp chúng con biết tiếp bước con đường thập giá của Chúa
mỗi ngày với lòng quảng đại vì yêu mến Chúa.
24. Đức
Giêsu tiên báo khổ nạn lần thứ nhất
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Lời tiên báo đầu tiên về Thương Khó được trực tiếp nối kết với
“cuộc thẩm vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu trả lời của các
môn đệ. Tâm trí của các ông hình như đang hướng về một lý tưởng thiên sai trần
thế và có tính quốc gia. Lúc đầu Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c.
20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ
đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết sức khao
khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược lại
mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu
bắt đầu …” được tác giả dùng hai lần để đánh dấu hai phần lớn của tác phẩm
(4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc
trong sinh hoạt của Đức Giêsu.
Trong phép rửa của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy Người là tôi
tớ (3,17 dựa theo Is 42,2). Trong các cám dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người đi theo
hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi giảng Bài Giảng trên núi, Người đã
chúc phúc cho những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các sứ giả của Gioan Tẩy
Giả, Người đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của người nghèo (11,5), của những
người đau khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của sứ vụ Galilê không tiên báo
một tương lai màu hồng. Nhưng các tông đồ không để ý đến các hoàn cảnh đó, cũng
như không quan tâm đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố rõ ràng của Đức Giêsu.
Các ông chờ đợi mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật sự. Các câu trả lời ở
Xêdarê Philípphê cho thấy tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý tưởng
vinh quang và uy hùng trần thế.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):
a)
Khúc quanh quan trọng (c. 21a),
b)
Mô tả chi tiết tương lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);
2)
Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):
a)
Phêrô ngăn cản Đức Giêsu (c. 22),
b)
Đức Giêsu xác định vị trí của Phêrô (c. 23).
3) Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):
a)
Quy luật tổng quát của đời môn đệ (c. 24),
b)
Nghịch lý “cứu – mất” (c. 25),
c)
Một suy tư mục vụ: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),
d)
Một biến cố tương lai, “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang”: nên khôn ngoan
cân nhắc mà chọn lựa (c. 27).
3.- Vài điểm chú giải
- Từ lúc đó (21): Công thức này đánh
dấu hai phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là 4,17–16,20 được dành để nói về
Nước Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con Người trên đường đi tới
Thương Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ
biết” cho thấy tất cả mức hệ trọng của quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối nguy
hiểm mà Người đang đi vào.
- tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng
động từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi động từ này ưu tiên diễn
tả giáo huấn luân lý.
- Người phải đi (21): Động từ “phải” (hy
lạp dei = cần thiết) có ý nói đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc chương trình
của Chúa Cha.
- đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế
và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21):
Đức Giêsu mô tả chi tiết chương trình Người đang đi vào. Điều này cho thấy
Người biết trước và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết (apoktanthênai, aor.
inf. pass. apokteinô) và … sống lại (egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây
là những động từ ở thái bị động cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các
thủ lãnh Do Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.
- ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời
gian ngắn.
- Phêrô liền kéo riêng … bắt đầu trách … (22):
Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của sự khôn ngoan loài người khi đứng trước
sứ điệp về thập giá. Vị tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích nghi, chấp nhận
buông xuôi theo những áp lực của tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới đây còn là
gương mẫu của người tin (16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì
ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con đường như Tên Cám Dỗ đã đề nghị (4,1-11).
- Anh cản lối Thầy (23): dịch sát “Anh đang
trở thành tảng đá làm cho Thầy vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy sẽ xây
Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá “cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật
ra, tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác thuyền chài Simôn, mà là
niềm tin của ông đặt nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất cả công việc của
ông đều sụp đổ.
- từ bỏ chính mình (24): có nghĩa là bỏ đi cả
những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi
hỏi của kẻ khác. Tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau
những quyền lợi chính đáng của riêng mình.
- đi (bước) theo (24): đồng nghĩa với “học
với; làm môn đệ”
(x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh
dự cho thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa
của thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh
đau khổ.
- việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là
“lối sống, lối cư xử”,
hàm ý là có các kinh nghiệm nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể bởi vì ngữ
cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi” (erga) hiện tại của người môn đệ, nhưng
nói về sự đau khổ tích cực của họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)
Sau lệnh im lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành những
người ở bên trong, có sự hiểu biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức Giêsu
loan báo cho họ những dau khổ và sự phục sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu
sự hiểu biết đặc biệt của các môn đệ.
Với công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu”, chúng ta hiểu rằng
lời tiên báo Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một lời sấm biệt lập, nhưng
là một chương mới mà Đấng Cứu thế đang mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không
riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng thế gian, một cung cách cứu
thế vinh quang trần tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến chỗ quan niệm ngược
lại. Tuy nhiên, Đức Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới. Người trình bày chi
tiết: (“tỏ cho biết”, deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án tử hình phải
chịu, những người sẽ xét xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là điều nằm
trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha. Các động từ ở thái bị động (apoktanthênai và
egerthênai) cho thấy Đức Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái,
hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật cuộc Thương
Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu cũng chủ động. Người đi theo con đường được chỉ định
trong tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.
Qua phản ứng của các môn đệ mà đại diện là Phêrô, tác giả cho
thấy sự vấp phạm của cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng trước chướng kỳ thập
giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm 1,16).
* Phêrô ngăn cản Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)
Phản ứng của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài người
khi đứng trước sứ điệp về thập giá. Mới trước đó, với lời tuyên xưng Đức Giêsu
là “Đấng Kitô (= Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát biểu dưới ánh sáng mạc
khải của Chúa Cha, Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá trị như thế! Ông
không ngờ bây giờ ông đã trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản bước
Đức Giêsu đi theo kế hoạch của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh thật mong
manh nếu không tin tưởng cạy dựa vào Đức Giêsu.
Ở đây, còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa: Phêrôi là
người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ, giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c.
16 với những lời lẽ của các môn đệ và lời tuyên xưng của Giáo Hội. vậy hẳn là
Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau
khổ của người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư cách là môn đệ, ông sống tình
trạng nhị giá giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và sợ hãi hậu quả
của lời tuyên xưng ấy, giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô chẳng xấu
hơn các môn đệ vì ông đã phản bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không tốt hơn
các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở 16,16-19.
Đức Giêsu đã phản ứng rất mạnh lại với lời can gián của Phêrô:
“Xatan, lui lại đàng sau Thầy (Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước
cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại bỏ việc thống trị thế giới theo đề
nghị của quỷ. “Anh cản lối Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy.
Skandalon là một từ mạnh để diễn tả dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại với “tảng
đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn
bản giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban, Phêrô là một “tảng
đá (xay dựng Hội Thánh)”; do chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá vấp”.
“Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác
định vị trí duy nhất được dành cho Phêrô.
* Đức Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (24-27)
Quy luật sống của người môn đệ được tổng hợp trong ba điểm: từ
bỏ chính mình, vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình” là bỏ đi cả
những khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát vọng và đòi
hỏi của kẻ khác; tức là không phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ ra sau
những quyền lợi chính đáng của riêng mình. “Vác thập giá mình” là chấp nhận bản
án thập giá; tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và cả mạng sống mình vì
muốn trung thành với Đức Giêsu và với sứ mạng của Người. “Bước theo” không có
nghĩa là “đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho thầy, nhưng là bắt chước
các phong thái của thầy, lặp lại những chọn lựa của thầy, tức là nối tiếp công
trình mà thầy đã bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau khổ của Đức Giêsu và
đời môn đệ với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có thể thực sự hiểu Đức Giêsu
bằng cách bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai,
nhưng ông không sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.
Chương trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều ý chí và
can đảm. Người môn đệ sẽ bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy mạng sống mình khỏi
những đau khổ và một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một ảo tưởng. Rõ ràng là đau
khổ không phải chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một hình thái sống tích cực:
“Nếu ai muốn… (ei tis thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp hiểu
rằng nếu kiên trì trong đời môn đệ, người tín hữu có thể phải chết sớm nhưng
sau đó sẽ được sống muôn đời; trái lại, nếu người ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc
sống trần thế của người ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian nữa, nhưng
sau đó sẽ kết thúc bằng một cái chết thật sự.
Một suy tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và “cứu” mạng
sống. Viễn tượng được mở rộng ra nữa: Người ta có thể đạt được tối đa thành
tích trần thế trong cuộc đời này, tới mức chinh phục được cả thế giới, nhưng
nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân
thật, thì tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích, bởi vì với các của cải trần thế
đã tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể vớt lại được những gì đã mất và
không thể chinh phục những gì họ không có.
Thế rồi, Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng sẽ đến với các thiên
thần để xét xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối sống (praxis) của loài người
mà tác giả sẽ mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc quang lâm của Đức
Giêsu “Con Người” cũng nhắc nhở người ta biết chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, Đức
Giêsu, là “Con người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là Đấng đang ở cùng các
môn đệ, để dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có
phúc”, vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng
được tôn vinh “cho đến tận thế”
(28,20). Sự phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con Người đang được
chờ đợi không là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh biết và Đấng xuyên
qua dòng lịch sử đã đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài ra vị Thiên Chúa mà Người
Con sẽ cho thấy vinh quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con
Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện của Hội Thánh.
+ Kết luận
Lời phản đối của Phêrô được dùng như một điển hình. Khi phải đối
đầu với đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”, tức là duy lý, ích kỷ, đi từ
một tình yêu loài người. Đức Giêsu trả lời bằng một kiểu đối lập sắc bén. Các
tiêu chuẩn này của loài người không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Các
môn đệ phải chấp nhận công việc của Đức Giêsu và phản ánh lối sống và sự đau
khổ của Người. Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức Kitô chính là nét tiêu biểu
của đời môn đệ, của Hội Thánh.
Về phương diện Kitô học, tác giả đã diễn tả mầu nhiệm Đức Đức
Kitô bằng cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con Thiên Chúa” bằng một
phân đoạn nói về Hẳn là Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không sẵn sàng
sống sự hiểu biết ấy.”Con Người”. Nếu với lời tuyên xưng của Phêrô về “Con
Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có
thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên xưng về “Con người”, mục đích là giới
thiệu con đường mà vị Thầm phán thế gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự
khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và sự sống lại; các môn đệ thông phần vào
tất cả các tình trạng này. Đối với tác giả Mt, điều đã rõ là không một văn
phòng huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có thể là thẩm phán xét
đoán tính đúng đắn trong lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con
Người mới có thể xét đoán praxis của các môn đệ đang tuyên xưng người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Làm tín hữu là “bước theo Đức Giêsu”.
Vừa chào đời, mạng sống của Người đã bị đe dọa; sau đó Người đã làm nghề thợ
mộc ở Nadarét trong một thời gian dài. Khi bắt đầu cuộc đời trần thế, Người đã
bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các
môn đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng họ đang đi theo một vị Thầy đã chấp nhận
một cuộc sống hiểm nghèo, thì mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.
2. Cuộc Khổ Nạn nằm trong chương trình cứu độ:
đây là điều “cần thiết”, tức thuộc về kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu độ loài
người. Đây là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ mạng
Người. Nhưng đây cũng là lý do từ bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu nhiệm
này vừa là cớ vấp phạm đối với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây thắc mắc
cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy
đã là vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày, Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của
“đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân được tuyển chọn, dân
của Thiên Chúa, làm đối tượng của tình yêu Người, nghĩa là gì? Nhờ mạc khải của
Đức Giêsu, chúng ta thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại lệ (= đau khổ
của người công chính), đã trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua
Thập giá.
3. Kinh nghiệm của Phêrô rất quý cho chúng ta.
Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại dễ ảo tưởng là mình “trước sau như
một”. Một tư tưởng thánh thiện có trước, phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa,
không bảo đảm là tư tưởng tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan
tâm tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải biết ngờ vực chính mình, đồng
thời không thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra nơi bản thân.
4. Nên đề phòng một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau
khổ trở thành mục tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một phương tiện, một
con đường đưa tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng chỉ nói về hy sinh, từ bỏ,
hãm mình, chứ không nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui thỏa (coi đây là
những điều xấu!). Thật ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng “sự thiẹn
Kitô giáo” cả. Bổn phận của người Kitô hữu không phải là dạy chịu đau khổ,
nhưng là dạy sống; không phải là dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh,
nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra những điều đó. Mục tiêu của
con người là hạnh phúc, ơn gọi của con người là thực hiện một thiên đàng trên
trái đất trước khi đạt tới thiên đàng trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là
cái giá phải trả để có niềm vui mà người Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho
được. Điểm nhắm của ngươi Kitô hữu thì ở trên cao, nhưng để đến được đó, phải
chấp nhận vượt qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy sinh một cái gì đó để
không đánh mất điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải đau khổ,
nhưng Ngài có thể yêu cầu họ chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm phát sinh
niềm vui cho kẻ khác.
25. Chú giải
của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Chúa sẽ có đâu như thế!":
Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết chóc
gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần" (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện
với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: "Nếu Ngài là Con
Thiên Chúa...", “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ" (Mt 4,
5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa "Nếu
Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô - điều đó không thể nào xảy ra
được". Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
"Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”:
Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để
trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài,
chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời
loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới
được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây
giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ
ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền
móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở
nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của
Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của
các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới
lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại
ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc:
"Xéo đi, Satan" (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và
Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó
như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
"Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên
Chúa": Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa
Giêsu đã nói ở câu l7: "Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là
Cha Ta, Đấng ngự trên trời ". Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc
Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông
không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. "Quả thế, ý nghĩa của Ta
không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối
của các ngươi" (Is 55, 8).
"Nếu ai muốn đi sau Ta":
Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên
sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn
theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc
sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng
là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
"Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất
sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được ":
Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước
tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng
thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải
ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống
vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ
tìm được sự sống vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước,
nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý
Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế
gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong
thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có
ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt
mất sự sống vĩnh cửu.
"Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?":
Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người
quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh
cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu
trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ:
đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét
này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất
"cần thiết". Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, "mới
mẻ" nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường
cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài
thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề
của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự "công
chính" của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được
làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa
Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người
công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập
giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài
học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà
nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm
cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình,
tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ
ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào
Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên
đá đỉnh góc.
2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với
thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc,
bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta.
Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo
Người.
Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử
thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát
sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm
vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của
Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. "Kẻ nào mất sự sống
mình sẽ tìm được lại". Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã
từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả
phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên
nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian
chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc
nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời
chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là
trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết
và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi
có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.
26. Chú giải
của Noel Quession
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống.”
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng
Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức
Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có
phúc vì đã nhận được "mạc khải" ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu
trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội
Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các
môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho
chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan
niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó...
Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của
Đức Giêsu, việc "tuyên xưng đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc
quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự
đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có
sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ
lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi
Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước
ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông
Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn
sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về
Giêrusalem.
Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người
‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc
chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức
Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định
mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể
làm khác được.
Từ ngữ "Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy
chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt
đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có
khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức
Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa.
Đến lượt chúng ta khi nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý
muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng
định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp
chúng ta dù chỉ trong một lúc.
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục,
các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người
(Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang
tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ
vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn.
Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không
cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi.
Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân
chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát
triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh
sư...", mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi
đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những
hoàn cảnh khó khăn.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin
Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại
bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."
Phêrô bị kết án là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu
"Xatan hư hại!"
Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã
cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại
với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước
muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén
này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn
thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và
bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm
thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện
cũng như ta, nhưng không phạm tội ... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà
dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu
là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng
phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau
khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại
Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa, mà là của loài người.
Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt
qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về
Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong
những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt
qua "quan điểm con người" để chấp nhận "quan điểm của Thiên
Chúa".
Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ
"giản lược" cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của
con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người
ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên
Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng
ta.
Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng
ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo..."
Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào
những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do,
sáng tạo thú vui: "Tôi muốn sống đời sống của tôi! " .
Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận
của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian
đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: "phải từ bỏ chính mình". Không
có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa
ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng
tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng
mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người
phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu
bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài
cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những
quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để
yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.
Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin
Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn,
họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương.
Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn
là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo
sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở
mỗi thánh lễ "phải nộp thân mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta
không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất
mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả
thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì
mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải "mất" để
“được".
Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự
Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh
hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người
chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều
chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề
ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không,
con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu
Thiên Chúa".
Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với
thế giới điều mà thế giới cần nhất.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với
các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ
làm.
Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung
cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống
lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác
thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến
gần.