SUY
NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC LỤC
27. Thiên Chúa
là Đấng....Lm. Carôlô
Hồ Bặc Xái
28. Chúa ban
lương thực cho loài người Lm Giuse Đinh lập Liễm
30. Hãy bắt đầu
từ việc nhỏ Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
33. Lương thực
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
34. Thánh lễ là
những gì? Charles E. Miller
35. Vai trò của
Giáo hội Sưu tầm
36. Lòng thương
Sưu tầm
37. Thiên Chúa
nuôi sống con người catholic.org.tw
1. Quan tâm tới
cái đói
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm
đến cái đói cái khát, cũng như đến những khổ đau, bệnh tật là những sự kiện rất
bình thường của thân phận con người. Từ đó chúng ta ghi nhận được những khác
biệt cần suy nghĩ.
Trước hết là các tông đồ, những người đã từng
chứng kiến cách cư xử của Chúa Giêsu, thế mà các ông cũng chưa có được cái nhạy
cảm của Ngài. Các ông đã đề nghị Ngài giải tán đám đông khi trời đã xế chiều,
để mỗi người tự giải quyết lấy vấn đề cơm ăn thức uống của riêng mình. Bởi vì
đâu có gì bắt buộc các ông phải giải quyết cho họ. Hơn nữa các ông là những
người cộng tác với Chúa, có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, một nhiệm vụ
thiêng liêng và cao cả, chứ đâu có phải là ba cái chuyện tẹp nhẹp, vụn vặt là
ăn và uống.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã phản ứng như
thế nào? Tin Mừng cho chúng ta thấy giữa Chúa Giêsu và đám đông có một sự gắn
bó mật thiết: Đám đông đói khát giáo huấn của Ngài. Họ đã đi theo Ngài ngay cả
khi Ngài muốn lẩn tránh họ. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ thấy được cái
đói khát lời đem lại chân lý và sự giải phóng cho họ. Mà hơn thế nữa, Ngài còn
thấy cả cái đói đang giày vò thân xác họ. Ngài không chỉ thấy suông, như một
con người bàng quan. Trái lại, Tin Mừng đã ghi lại một chi tiết đầy ý nghĩa:
Thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương xót và chữa lành những kẻ đau yếu. Ngài
đã làm phép lạ cho 5 chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều đến độ tới 5.000
người, không kể đàn bà và trẻ em, có thể ăn no mà còn dư tới 12 thúng bánh vụn.
Chúa đã chẳng làm phép lạ từ con số không, nhưng từ những chiếc
bánh và những con cá, đang có sẵn là khẩu phần của một người nào đó đã biết
tiên liệu mang theo mình. Dĩ nhiên lương thực ấy phải là kết quả của mồ hôi
nước mắt, của lao công khó nhọc. Khẩu phần ấy giờ đây được bẻ ra và phân phát
cho mọi người.
Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói,
còn có những dân tộc đói bởi vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho những cá
nhân, và không hề được bẻ ra để chia sẻ, để giúp đỡ. Chúng ta không có khả năng
thực hiện được một việc làm ngoạn mục như Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta luôn được
mời gọi để chạnh lòng thương xót, để chia sẻ và quan tâm tới người khác, nhất
là những kẻ nghèo đói. Chính mối quan tâm này sẽ giúp chúng ta dần dần tìm thấy
cách thức giải quyết, bởi vì có rất nhiều cái đói chồng chất trong xã hội này:
đói của ăn thiêng liêng, đói của ăn vật chất, đói tình thương, đói văn hoá, đói
giáo dục, đói sự thật, đói chân lý, đói những quyền căn bản để làm người. Thế
nhưng chúng ta đã làm được những gì để giải quyết phần nào những cái đói ấy cho
bản thân cũng như cho những người chung quanh.
2. Cộng
tác với Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho
bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Theo thánh Gioan, thì số thực phẩm
ít ỏi này là của một em bé. Em bé này đã trao cho Chúa tất cả và rồi hàng ngàn
người đã được ăn uống no nê. Giá như em bé này đã không trao cho Chúa, thì có
lẽ đám đông đã không được nuôi ăn giữa nơi hoang vắng khi trời đã về chiều. Từ
hành động của em bé, chúng ta đi tới một kết luận, đó là hãy cộng tác với Chúa
để xoa dịu nỗi đớn đau của người khác, cũng như để đem lại cho họ niềm vui mừng
và hy vọng.
Có một hành khách vừa mới bước lên chiếc xe taxi, anh liền nói
với bác tài xế: Bác lái giỏi quá. Bác tài nhìn anh và hỏi: Bộ anh định xỏ xiên
tôi hả. Anh trả lời: Không phải vậy đâu, tôi khen bác thực mà. Bác tài mỉm
cười, lát sau bác nói: Anh làm vậy với mục đích gì? Anh trả lời: Tôi muốn, đem
lại tình yêu, niềm vui mừng và hy vọng cho những người sống quanh tôi. Tôi nghĩ
rằng một khi bác cảm thấy vui, bác sẽ niềm nở với những khách hàng của bác. Rồi
những người này cũng sẽ niềm nở với những người mà họ gặp. Như vậy, sự niềm nở
và tử tế sẽ được trải rộng đến hàng trăm, hàng ngàn người. Lời nói của anh làm
chúng ta nghĩ tới một câu danh ngôn: Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi
đó mà rủa sả bóng đêm.
Trở lại với đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy em bé đã trao
cho Chúa tất cả những gì mình có. Và Chúa đã chia sẻ quà tặng ấy cho hàng ngàn
người. Như thế, mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở thành dụng cụ cho
Chúa thực hiện những phép lạ. Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở trở
thành phương tiện cứu giúp cho hàng ngàn người.
Có một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh quốc đã trở lại
Công giáo. Anh cho biết: Sở dĩ có cuộc đổi đời này là do ảnh hưởng của Mẹ
Têrêsa Calcutta. Anh nói: Làm sao tôi có thể diễn tả được tôi đã mang ơm Mẹ như
thế nào. Mẹ đã chỉ cho tôi thấy một Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã dạy cho tôi
biết quyền năng của tình thương. Mẹ đã làm cho tôi xác tín: Một cá nhân giàu
lòng khoan dung từ ái có thể khơi dậy cả một ngọn sóng thương yêu, để rồi ngọn
sóng này sẽ ùa tràn vào thế giới.
Đó cũng là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay: dù chỉ là một cá
nhân, nhưng hành động của chúng ta vẫn có một tầm mức quan trọng và đáng kể,
nếu chúng ta biết chia sẻ những gì mình có với Chúa, thì Ngài sẽ làm phần còn
lại, là biến cái ít ỏi, nhỏ nhoi ấy trở thành hữu ích, đem lại hoa trái vượt quá
điều chúng ta mong ước. Chúng ta hãy dâng cho Chúa mọi khả năng, vật chất cũng
như tinh thần để tuỳ Ngài sử dụng. Và rồi Ngài có thể dùng chúng để làm những
phép lạ.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thơ của một thi sĩ: Lạy
Chúa, con chỉ là một sợi dây, xin hãy biến con trở thành chiếc đàn. Con chỉ là
một giọt nước, xin hãy biến con trở thành một dòng suối. Con chỉ là một tia
lửa, xin hãy biến con trở thành một ngọn đuốc bùng cháy.
3. Các con hãy cho họ
ăn – Lm Đam. Trần Văn Điều
Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế
giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng
vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên
không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai
cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả
lầm than.
Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông
dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp
đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các
vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục
vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những
cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải
làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom
hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua
đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại
to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải
bơ vơ hiu quạnh nữa.
Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn
cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này
người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã
không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới
công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ
chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ
giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời
trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.
Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ
tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con
hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
A. Tình trạng đói khát trong cuộc sống.
1. Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ
thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người
khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường
(2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng,
Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
2. Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân
chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ
thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé
mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm
ngàn người ăn dư dả.
3. Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực
hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó
hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không
đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
4. Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo
đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2
sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc
nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp
Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
B. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn.
1. Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân
cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.
* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát
uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen
cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh.
16-17,1-6).
* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát
hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho
mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng
bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V.
19,1-8).
* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân
Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không
có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh
Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.
2. Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ
ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của
tha nhân.
* Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha
là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo
dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ,
Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp
kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn
hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.
* Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans
và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng,
tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ
vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu:
đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn
một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại
đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi
xót xa Katrina của mình.
* Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả
chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa
không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến
nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng
ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
C. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người.
Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát
khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và
lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn
no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện
phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho
con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình
của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết
thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).
* Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ
hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày
xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp
tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế
này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường
xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương
thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với
Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa
hoàn toàn, không trưởng thành được”.
* Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi
nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự:
“Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp,
chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng
hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người
nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.
D. Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương,
Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình
làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con
được no nê và được sống dồi dào.
Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa
biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt
làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.
4. Bài học
tiết kiệm – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và
Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước
Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác... Hôm nay xin được chia sẻ
về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn
Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn
kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc
8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba
thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh
no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại
tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh
Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy
đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những
miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta
cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt
15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là
đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh
nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao
Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo
phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta
thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc
đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm.
Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu
và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn
vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh
nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội
cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp
xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ
trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các
môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất
bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các
môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải
Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự
quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại
để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài
năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu
gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy
làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất
cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên
rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự
nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng
được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt
được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui
luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt
và chặt chẽ”.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít
biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải
bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn
nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để
thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người
ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những
khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí
nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm
việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra
một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới
nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào
tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất
xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta
sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ
hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo
đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong
nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là
“gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí
tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây
cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất
tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà
nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình
như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót
xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào
số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy
phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi
giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp
loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng
lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng).
Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai
năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp
7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà
không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao
mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60,
70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho
đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho
con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà
đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất
nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3,
lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển
cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và
có lãng phí không?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu
giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn
đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô
khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt
lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí
khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí
dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc.
Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là
một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của
thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay,
thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất
kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí
vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên
có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài
việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu
thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng
hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện
họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ
biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó
dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa
bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình
thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày
nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì
để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào
phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép
cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có
thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn
đem đốt một cách “vô tư”.
Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả
tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không
ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ
công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và …
trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí
rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in
thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong
là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công
giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất
nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống.
Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn
lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì
chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường
rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở
nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn
thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt
trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù
biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có
những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường,
có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất
khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh
đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ
trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người
giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn
dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này.
Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ
chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết
nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây
cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi
đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật
chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết
kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là
tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu
có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương
mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng
vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc,
sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản
thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không
chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết
kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân,
cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn
cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong
cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp
lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người,
mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong
là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô
gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông
chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên
và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của
rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những
ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con
thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
5. Năm
chiếc bánh và hai con cá
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an,
dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh
tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương
xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở
mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên
Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem
chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh
em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và
sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng:
"Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các
ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy"( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh
và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người.
Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi
con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng
ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn.
Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng
được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi
người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng
đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân
thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh
mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút
bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn
lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái
tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy
trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các
nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách
cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang
chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này
không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền
đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người
không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu
cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo,
mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ
giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung
cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh
nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều
nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người
ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp
vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh
chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng
tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người
nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng
tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết
rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là
hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường.
Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng
là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh.
Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và
cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân
càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi
không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần
gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành,
sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm
dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta
thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa
yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn
nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai
trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi
được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ
bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra
nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt
để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô
đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô
sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên
Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong
tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép
hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập
tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo
đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm
nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó
thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa
chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi
là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn
nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban
nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu
độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống,
Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay
Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình
ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa
Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu
được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng
của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi
toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người
dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không
được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn:
Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng
bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó
cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu
người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi
và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ
muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao
và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất
công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình,
trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa
mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng
phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được.
Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa
ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức
lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một
cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo
Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng
con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.
Tất cả là hồng ân!
Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
6. Chúa chạnh
lòng thương
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Chúa Giêsu trong ba năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ, Ngài
đã đối diện với đám đông dân chúng. Ngài đã hiểu rõ dân cần gì, dân khao khát
gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã không dạy giáo lý với những lý thuyết xa vời,
khô khan. Ngài đã không cho dân chúng những lời nói cứng nhắc, hay những tư
tưởng cao vời, những khái niệm trừu tượng, trên mây trên gió. Chúa luôn thực
tế, Ngài chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền, xoa dịu những người đau khổ, khó
khăn. Ngài thương dân chúng bơ vơ, lạc lõng không có người chăn dắt. Hôm nay,
Chúa thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy, Ngài sợ họ đói,
họ khát, nên "Ngài chạnh lòng thương" (Mt 14, 14).
Lịch sử dân Do Thái còn rõ rành rành cho nhân loại và bài học
Thiên Chúa nuôi dân Do Thái đi trong sa mạc về đất hứa xưa luôn là bài học để
đời. Môsê đã cầu khẩn Chúa khi dân chúng không có lương thực, không có nước
uống trong sa mạc tiến về hứa địa. Lời khẩn cầu của Môsê luôn được Chúa chấp
nhận. Ngài đã ban Manna cho họ. Hôm nay, trước một đám dân đông đúc, Chúa
thương họ. Dù rằng các môn đệ cũng thương dân nhưng các Ngài vẫn chưa hiểu thấu
nỗi lòng của những người dân trong hoang địa hiu quạnh, xa vắng, không có gì
ăn. Nên, lòng thương xót của Chúa quả thực cao vời, Ngài đã làm cho bánh và cá
hóa ra nhiều để nuôi dân chúng. Và chỉ với năm chiếc bánh, với hai con cá, Chúa
đã làm phép lạ để nuôi "năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ
con" (Mt 14, 21) được ăn no nê và còn dư dật. Chúa thực hiện phép lạ này
để minh chứng lòng thương xót của Chúa đối với đám đông, đối với nhân loại, đối
với mỗi người chúng ta. Nếu giải pháp các môn đệ đưa ra là " giải tán đám
đông " được coi là ổn thì quả thực lòng thương xót chưa phải là thật vì đó
mới chỉ là thương xót nói trên đầu môi, chóp lưỡi. Chúa thực hiện phép lạ ấy để
dạy chúng ta hãy làm như Chúa, hãy sống và đối xử, có thái độ như Chúa trước
nhu cầu thiết thực của con người.
Ngày nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và hết sức
âm thầm của mình cho anh em đồng loại, đặc biệt cho những người nghèo chung
quanh chúng ta. Chúa đợi chờ chúng ta một chút tế nhị, một chút tình thương.
Chắc chắn, qua cử chỉ bác ái, qua tình thương của chúng ta đối với những người
nghèo, những người gặp khó khăn, nhiều người sẽ nhận ra bộ mặt đầy nhân từ và
lòng thương xót của Thiên Chúa.
Vâng, những người nghèo sẽ không đáng chết vì thế giới còn biết
bao nước giầu, thế giới còn biết bao lương thực, tài nguyên chưa được phân phối
đồng đều. Tin Mừng cho thấy, người phú hộ giầu có đâu có biết chạnh thương
người nghèo Lazarô ăn xin.Thế giới còn nhan nhản những người giầu ăn không hết,
của cải không biết bỏ đâu, nhưng họ không biết cho đi, chia sẻ và làm việc từ
thiện. Nhiều nước giầu đã đem lương thực đổ ra biển vì sơ quá hạn xử dụng. Thế giới
quả không thiếu lương thực nhưng chỉ thiếu những người biết chạnh lòng thương.
Lương thực rất cần thiết để sống nhưng con người rất cần tình thương để tồn
tại. Chúa Giêsu đã thấu hiểu điều đó, nên Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ:
"Chính các con hãy cho họ ăn".
Biết bao nhiêu gương của những vị thánh, của những con người có
lòng tốt, có lòng chạnh thương đã để lại cho nhân loại sự kính phục, trân trọng
vì nhờ họ mà bao nhiêu người được chia sẻ, được cứu sống. Chân phước Têrêsa
Calcutta đã làm say đắm và thán phục cả thế giới vì gương bác ái của Mẹ. Biết
bao vị thánh đã trao ban chính bản thân của mình để cứu nhiều người. Bạc tiền,
lương thực cần thật đó, nhưng lòng thương sâu xa sẽ giải thoát và cứu sống con
người. Thánh Phaolô đã nói: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh".
Thế giới này, nhân loại này sẽ đẹp, sẽ tốt hơn, sẽ ấm áp hơn nếu
con người có lòng chạnh thương và biết cho đi, biết trao ban. Chúa Giêsu đã làm
gương cho nhân loại khi Ngài trao ban chính Mình Máu của Người làm lương thực
nuôi sống con người. Tình yêu vô vị lợi, tình yêu xả kỷ của Người được thể hiện
nơi Thập Giá. Chính cái chết của Chúa Giêsu nơi Thập Giá là lời chứng hùng hồn
nhất về tình yêu xả kỷ, tình yêu trao ban Chúa để lại cho nhân loại, cho mỗi
người chúng ta.
Trao ban sẽ được lại và cho đi sẽ đem lại hạnh phúc cho con
người. Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại tình yêu cao vời nhất, tình yêu hoàn
hảo nhất: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng
sống vì người mình yêu" (Ga 15,13) và Ngài nói: "Chính tôi là bánh
trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao
giờ" (Ga 6,35).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng ban ơn phù trợ và lấy bánh bởi trời
bồi dưỡng chúng con; xin tiếp tục chở che nâng đỡ để chúng con xứng đáng hưởng
nhờ ơn cứu chuộc muôn đời (Lời nguyện hiệp lễ, Chúa Nhật XVIII thường
niên, năm A).
7. Đói
khát tâm linh... SOS!! – Lm Anmai
Các bài đọc trong Thánh lễ 18 thường niên hôm nay phảng phất lên
những phép lạ, những dấu lạ mà Thiên Chúa vẫn làm chỗ này chỗ kia trong cuộc
sống hiện tại. Những dấu lạ ấy thật ý nghĩa với con người thời hiện tại.
Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta là dân chúng vì đi theo
Chúa Giêsu, vì nghe Chúa Giêsu giảng nhiều quá nên rồi họ đói và họ khát. Chúa
thấy hiện trạng của họ để rồi Chúa chạnh lòng thương, Chúa làm phép lạ hoá bánh
ra nhiều. Không chỉ hoá bánh ra nhiều mà thôi mà Chúa còn chữa lành nhiều bệnh
nhân của họ nữa.
Thời đại ngày hôm nay, gần nhất là con người Việt Nam đây thật
sự mà nói thì cuộc sống vẫn còn đó, vẫn còn ngổn ngang những mảnh đời khó khăn
thiếu thốn nhưng thật ra thì đời sống vẫn ổn hơn thời bao cấp nhiều. Ngày hôm
nay thật sự mà nói thì đói khát cơm bánh thì ít mà đói khát tâm linh thì nhiều.
Ai đã trải qua thời đó thì đều có cảm nghiệm, đều trải nghiệm
được những khó khăn vất vả của thời ấy. Thế nhưng có điều lạ là chính trong
những lúc thiếu thốn cơm bánh thể xác, cơm bánh vật chất ấy thì Thiên Chúa được
con người đón nhận, tin nhận nhiều. Ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, đời sống
vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật nó tỷ lệ nghịch với niềm tin. Những
ngày bao cấp, sống trong cái bấp bênh của cuộc sống, sống trong cái lo lắng
thiếu ăn thiếu mặc nhưng mà tình thương, tình huynh đệ, lòng tin nó cứ rực lên
như lửa, nồng nàn và ấm áp dường bao.
Và như vậy, cái trống vắng, cái thiếu vắng niềm tin, cái mất mát
về tình huynh đệ, cái đói khát về tâm linh nó quan trọng hơn đói khát về vật
chất nhiều. Đành biết rằng vật chất, của cải, bánh ăn, nước uống cần cho đời
sống con người như thế nào nhưng nó vẫn chưa là điều căn cốt của con người. Con
người còn cần hơn cái lương thực, cái bánh ăn hay hư nát đó chính là Lời Chúa
như trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa được nghe:
"Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất
vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi
được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy
nghe thì các ngươi sẽ được sống". (Is 55,3).
Không chỉ trong đoạn sách Isaia này Chúa mới nói về chuyện lắng
tai, nghe nhưng mà chúng ta thấy phảng phất đâu đó rất nhiều trong Thánh Kinh
từ Cựu Ước đến Tân Ước Chúa vẫn nhắc với dân của Ngài về tầm quan trọng của
Lời, tầm quan trọng của thức ăn thiêng liêng, thức ăn tâm linh. Phảng phất rất
nhiều, rất nhiều trong áng văn Tân Ước Chúa gợi lên cho chúng ta về chuyện khát
Lời, khát tâm linh.
Có lẽ chúng ta hoặc là vô tình hay cố ý nên không phân biệt được
lương thực nào là cần hơn cho cuộc sống chúng ta. Chúa không phủ nhận nhu cầu
của thân xác để rồi hôm nay Chúa làm dấu lạ để nuôi thân xác. Nhưng bên cạnh đó
Chúa muốn gửi đến cho con người dấu lạ. Vấn đề ngày hôm nay là Chúa vẫn làm dấu
lạ này dấu lạ khác cho con người thời đại nhưng chuyện quan trọng là con người
có nhận ra dấu lạ của Chúa, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này
hay không mới là chuyện quan trọng.
Thời gian gần đây chúng ta thấy khá nhiều dấu lạ đấy chứ! Không
phải là dấu lạ ban cho con người được nhiều bánh như trong tin mừng theo Thánh
Matthêu nhưng dấu lạ cảnh báo cho con người biết rằng con người đang thiếu về
tâm linh, đang thiếu về niềm tin.
Chuyện lạ ở La Vang, chuyện lạ ở Tapao, chuyện lạ ở nhà thờ Đức
Bà, chuyện lạ ở giáo xứ Bạch Lâm (Gia Kiệm) không phải là chuyện lạ nói lên đời
sống tâm linh của con người ngày nay xuống dốc đó sao? Tại sao Đức Mẹ khóc? Tại
sao Đức Mẹ nhắn nhủ phải ăn năn lần hạt Mân Côi?
Tại vì con người ngày hôm nay đã quá tôn sùng của cải vật chất.
Tại con người ngày hôm nay quá tôn sùng chủ nghĩa danh giá, chủ nghĩa bề ngoài,
chủ nghĩa chức quyền, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ.
Đáng tiếc là ngày hôm nay con người cứ mãi miết sống trong lời
trách than của Đức Chúa: "Sao lại phí tiền bạc...". Vâng! Đức Chúa đã
phán đúng như vậy, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta đã quá phí sức
vào để tìm cái ăn, cái mặc, cái vật chất nuôi thân mà chúng ta quên đi tình
trạng thiêng liêng của mình.
Mới đây, một người chị họ đến với tôi nhờ tôi giúp cho con của
chị vì con của chị đang bị "sơ cứng" về tâm linh. Chúng gần như bỏ
đạo!
Nhìn lại gia đình chị, cuộc đời của chị hoá ra là gia đình chị
may mắn hơn nhiều người là có của ăn của để và thậm chí dư ăn dư để nữa nhưng
hiện tại đang phải đối đầu với sự đói khát tâm linh. Giàu có đó nhưng chắc gì
là hạnh phúc? Nhà lầu xe hơi bạc tỷ đó nhưng lấy gì bình an? Hình như bên dưới
sự dư dật về của cải vật chất thì gia đình chị vẫn đói, vẫn khát về tâm linh.
Và chuyện đói khát tâm linh này chẳng ai có thể bù đắp cho chị, cho chồng, cho
con ngoài Chúa. Linh mục, các soeurs, các giáo lý viên, các đoàn thể cũng chẳng
có thể giúp gì được cho chị nếu như chị không "lắng tai và đến với Ta, hãy
nghe Ta thì các ngươi sẽ được sống". Thế thôi! Đứng trước sự lựa chọn là
lắng nghe Chúa hay bôn ba vất vả đi tìm cái đời tạm này đó chính là lựa chọn
không phải của riêng chị mà của mọi kitô hữu.
Lý do tại sao? Lý do chắc ai cũng biết rồi: đó chính là không
kết hợp mật thiết với Chúa. Như Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta ai cũng biết,
gần như cả đời Ngài đã không biết Chúa, Ngài đã bắt Chúa nhưng khi cảm nghiệm
được tình yêu thương của Chúa dành cho mình Ngài đã hoán cải cuộc đời. Chính
tình yêu sâu đậm giữa Ngài và Chúa thắm thiết để rồi Ngài gửi tấm chân tình của
mình cho cộng đoàn Rôma mà chúng ta cũng vừa nghe: "Thưa anh em, ai có thê
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khó,
đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?" (Rm 8, 35)
Thế đấy! Ngài nói rằng dù khốn khó, dù có đói đi chăng nữa cũng
không thể tách được ra tình yêu của Chúa trong khi đó nhân loại, con người ngày
nay lại được dư đầy vật chất của cải nhưng lại đói, lại khát tâm linh!
Ngài còn khẳng định với chúng ta: "Nhưng trong mọi thử
thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta". (Rm 8,37).
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, Chúa yêu chúng ta lắm rồi,
quá yêu, yêu cho đến chết nhưng chúng ta có tin vào tình yêu của Chúa hay không
mà thôi.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta nhận ra cơn đói cơn khát
tâm linh của mỗi người chúng ta để chúng ta chạy đến Chúa kín múc nguồn mạch
tâm linh từ nơi Chúa để chúng ta được mạnh sức, được bình an trên con đường lữ
thứ về nhà Cha trên trời.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tân linh đến
và ở lại với mỗi người chúng ta để dẫu rằng trong cuộc sống chúng ta còn thiếu
điều này khát điều kia nhưng chúng ta không khát về tâm linh, không khát về
Chúa.
8. Chính anh em hãy liệu
cho họ ăn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Các Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời. Ngài cho
hay rằng Nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé nhưng cứ từ lớn dần đến nỗi không ai có
thể hiểu nổi tại sao Nước Thiên Chúa lại lớn mạnh đến thế! Chúa Giêsu trong
đoạn Tin Mừng hôm nay nhờ các tông đồ cộng tác với Ngài để Ngài huấn luyện các
ông tham gia vào việc thành lập Giáo Hội ở trần gian…
Tin Mừng diễn giải khi được tin ấy, nghĩa là khi nghe kẻ gian ác
là Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả, nhắc tới tên của mình, Chúa Giêsu bỏ
nơi đó, lánh đi nơi khác vì chưa tới giờ Ngài được tôn vinh. Chúa Giêsu thường
đi vào nơi hoang vắng, yên tĩnh trước mỗi sự việc, biến cố xảy ra với dân chúng
và đặc biệt khi người Pharisêu phản kháng lại lời rao giảng của Ngài hay sự
cứng đầu cứng cổ, sự cứng tin của dân chúng, để cầu nguyện, tâm sự và lãnh ý
Thiên Chúa Cha. Khi thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, Chúa Giêsu thương họ,
Ngài không nỡ lòng nào để họ ra đi bụng đói. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi các tông
đồ tham gia vào việc lo cho dân, dù rằng các ông ngại vất vả, ngại không có giờ
nghỉ ngơi, và nếu không có Chúa, các ông chẳng làm được gì cả… Chúa muốn các ông cộng tác, tham gia vào công
việc của Chúa. Câu: “… trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân”, cho
chúng ta hiểu rõ Chúa mời các môn đệ cộng tác vào phép lạ của Chúa. Cử chỉ của
Chúa Giêsu giờ này, khiến chúng ta liên tưởng tới Bí tích Thánh Thể mà Chúa sẽ
thiết lập trong Bữa Tiệc Ly chiều ngày thứ năm tuần thánh.Chúa Giêsu cho các
môn đệ cộng tác vào việc Chúa làm là tìm bánh, và cá để Chúa làm phép lạ. Các
môn đệ lãnh nhận trước, rồi trao lại cho dân, sau đó thu những thứ còn sót lại
(Mt 14,20). Những điều các môn đệ làm lúc này, làm chúng ta liên tưởng đến các
ngài là trung gian ban phát các bí tích trong Giáo Hội. Trong đoạn này, thánh
Matthêu muốn ám chỉ Chúa Giêsu là Môsê mới, cho dân chúng ăn no nê (Xh 16).
Chúa Giêsu với tấm lòng thương xót bao la, tình thương vô biên,
Ngài đã không để dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy bị đói, bị khát.
Ngài đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều để nuôi dân chúng.
Tình thương, lòng nhân từ của Chúa vẫn tồn tại tới ngày hôm nay và cho tới muôn
thế hệ. Hôm nay, Ngài không làm phép lạ như xưa, nhưng Ngài đã dùng Lời của
Ngài nuôi dưỡng Giáo Hội, dùng Giáo lý của Ngài hướng dẫn Dân Chúa để qua Giáo
lý, qua Lời yêu thương, bác ái, qua sự soi trí lòng con người, qua tác động của
Chúa Thánh Thần, con người sẽ làm ra lương thực, của cải, sẵn sàng chia sẻ với
tha nhân, với người nghèo. Mười hai tông đồ của Chúa lúc xưa không làm phép lạ
như Chúa để nuôi dân, nhưng lãnh nhận bánh, cá từ tay Chúa, phân phát cho dân,
nuôi dân. Ngày nay, các môn đệ của Chúa không làm được phép lạ hóa bánh, cá ra
nhiều để nuôi dân, nhưng bằng Lời Chúa, bằng Giáo lý, các môn đệ của Chúa loan
truyền để người người cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, để người người
được hạnh phúc vì có Thiên Chúa là Cha, là Đấng nhân từ giầu lòng thương xót
v.v… Chúa luôn luôn mong muốn con người được hạnh phúc, được có cơm ăn, áo mặc.
Chúa luôn soi sáng, nuôi dưỡng con người bằng Lời Chúa và bằng sự trợ giúp của
ân sủng của Ngài.
Xin mượn lời của Henri Caro để kết luận bài chia sẻ này: “Đức
Giêsu nghe tiếng kêu của đám đông. Khi họ xin bánh, Người biết họ đói một thứ
khác, đói một tình yêu trung thành để cho và để nhận. Người cho một dấu hiệu
khác: thứ bánh Người ban làm thỏa tất cả mọi cơn đói, và khi mọi người đã no nê
thì còn dư lại mười hai thúng, đủ để nuôi cả dân Israel. Bánh này một ngày kia
sẽ là Mình Người, sẽ vì yêu mà bị nộp vào tay loài người”.
“Anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Đây là lời kêu gọi cho ngày
hôm nay. Giờ đây, đến phiên chúng ta phải nuôi sống các đám đông, bằng cách
chia sẻ cơm bánh của chúng ta và làm chứng cho đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn quảng đại chia sẻ
cơm bánh, và tình thương cho những người khác vì chính khi chết đi là khi vui
sống muôn đời. Amen.
9. Tấm
bánh liên đới – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước
Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực
nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học
Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông,
Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật,
bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để
được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ,
được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người
chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều.
Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư
hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì
tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách
nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm.
Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay:
“nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào
các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn
người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo
phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì
thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không
cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho
họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì
phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm
việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình.
Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh?
Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ
khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con
cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó:
“Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt
đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự,
nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để
làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành
thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra
một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát
lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao
cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ.
Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục
sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên
bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới.
Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái
tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư
thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này
quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực
trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia
sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế
giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét
văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ
chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người
nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?
10. Anh em hãy cho họ
ăn
Suy Niệm
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui. Ngài rút lui vì
chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15). Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp
cập bến. Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh.
Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều, các môn đệ xin Ngài
cho đám đông đi mua đồ ăn. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói:
"Chính anh em hãy cho họ ăn."
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, làm sao họ có thể cho đám
đông này ăn được?
Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình. Họ chỉ có thế, nên không
làm được điều Thầy muốn.
"Hãy đem lại đây cho Thầy."
Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta, Ngài cần chúng
ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có,tất cả những gì chính chúng ta đang
cần: năm cái bánh và hai con cá.
Chúng ta nên nhìn lại đường đi của những tấm bánh: từ tay các
môn đệ đến tay Đức Giêsu, từ tay Đức Giêsu nâng cao dâng lên Cha, rồi trở lại
tay các môn đệ, và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông. Chúng ta tự
hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai.
Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ để có một đống bánh
và cá thật to, rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát. Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ
bánh trao cho họ, rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông, và có lẽ những
người trong đám đông cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác. Chẳng
mấy chốc, ai cũng có bánh ăn.
Như thế, những tấm bánh từ tay Đức Giêsu đã được bẻ ra, trao đi
và hoá nhiều. Đó là cốt lõi của phép lạ.
Có thể các môn đệ và dân chúng đã góp phần của họ: bẻ ra, trao
đi và hoá nhiều.
Đây là phép lạ quan trọng vì có đông người chứng kiến, vì được
cả bốn sách Tin Mừng kể lại, và vì Chúa muốn nó được kéo dài đến tận thế: bẻ
ra, trao đi và hoá nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời chúng ta tham dự để biết phép lạ
không phải là chuyện viển vông.
Đừng sợ bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt. Nếu giữ lại, 5 chiếc
bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh.
Hãy nhìn đến biết bao người đang cần bánh: bánh mì, bánh sự
thật, bánh tự do, bánh công bằng, bánh yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Đừng lo vì bạn không có chi nhiều.
Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn đang có thì thế giới sẽ được no
nê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiến trao chẳng những không làm mình nghèo đi, mà còn làm mình
được thêm giàu có, phong phú, trưởng thành. Bạn có kinh nghiệm trên đây không?
Đứng trước cơn đói của con người hôm nay, bạn có thấy mình bó
tay không? Họ đang đói điều gì hơn cả? Bạn có thể làm gì để giúp họ một cách cụ
thể?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con
biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng
thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý
trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết
xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ
ăn đi."
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
11. Chia sẻ
cho người nghèo đói
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trại Trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một
người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi
ông:
- Ông muốn ăn không? Vâng, muốn.
- Tên ông là gì? -Dinenraj (Đinh Văn Rao)
- Ông bao nhiêu tuổi? -Tôi chẳng biết.
- Tên ở đây bao lâu rồi?- Bốn hôm.
- Ông từ đâu đến? – Tôi ở ngoài đường phố.
- Ông mắc bệnh gì? – Bao tử tôi hoàn toàn thất bại, vì hoàn toàn
trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm
thành lập trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với càri, khoai tây, sữa đặc, chuối
và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng đồ ăn.Ông mở miệng
to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay
chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22/8/1952) trong 25 năm trung tâm đã
tiếp nhận 36.000 người, trong đó 16.000 người “đã chết trong tay Chúa”. Trung
tâm của những người hấp hối này điển bình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các
nữ tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế
giới. Các soeurs từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những
thân xác gầy gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường
phố đưa về. Các soeurs từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý
thức nào đó về nhân phẩm, đồng thời truyền đạt cho họ về một thế giới bên kia
khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang
nặng nhiều thương tích. Lễ Ngân khánh của Trung tâm này tại Calcutta được tổ
chức vào ngày lễ Các Thánh (1/11), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình
là biết qui về Thiên Chúa Tình Yêu.
Mẹ Têrêsa đã mời các bà đích thân đến, mang theo đồ ăn họ đã dọn
sẵn ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có tài thu hút người
thuộc đới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công
việc mà các nữ tu Thừa Sai Bác Ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc
những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Anh chị em thân mến,
Phải chăng việc Mẹ Têrêsa thành Calcutta làm trên đây là việc áp
dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay một cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao
cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn
đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại
bảo các ông: “Chính anh em phải cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5
cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn
ông, thánh Matthêu con thêm “không kể đàn bà và trẻ em”. Vậy tổng số có thể lên
tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã
nuôi một đám đông rất lớn đi theo Chúa Giêsu vào nơi hoang địa. Họ hoàn toàn lệ
thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng triệu
người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày và
450 triệu người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bản thống kê quốc tế). Ngay ở
đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu
dinh dưỡng. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, nhiều người đã ủng hộ nuôi
dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn đối với con người,
chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần
sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải
tán để dân chúng đi về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự
đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa
khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói.
Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn
người ăn no vả còn dư thừa.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài
cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ
mấy cái bánh mà môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách
đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái
bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng
vâng phục của các môn đệ. Bài học mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng
ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên
bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn
đệ. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ đó: Chúa dạy chúng ta là hãy
vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi
chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ
nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được
chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có
nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng
còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì,
vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thời giờ… bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất,
là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga 15,13) và đó là tình yêu của Chúa
Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ,
bệnh tật của dân nghèo và ra tay cứu giúp.
Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng
thương xót trước những nỗi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm
cho chúng ta “thành người”mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Ông Malcolm Muggeridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh
Quốc, đã trở lại đạo Công giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ
làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm:
“Không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ Mẹ Têrêsa thế nào. Mẹ đã tỏ cho tôi
thấy Kitô giáo trong hành động. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu có
thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế giới…”
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh
Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các
môn đệ”.
Chúa vẫn tái diễn phép lạ ấy hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và cả thế giới.
Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo
đói? Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có
những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm
nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của chúa thì cũng biết
cạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi
sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
12. Chúng ta có đói
không?
Chúa Giêsu biết những cái đói của con người, Ngài nhìn đám đông
với cặp mắt tinh tế của tình yêu khiến bừng dậy nơi Ngài lòng trắc ẩn của Thiên
Chúa: Tôi sẽ cho anh em bánh ăn, và còn hơn thế nữa chính tôi là bánh mà anh em
đang hết sức đói khát. Một cách kín đáo, tác giả Tin Mừng làm ta nghĩ đến Thánh
Thể: “Ngài cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao
cho họ”.
Đó là đề tài chúng ta sẽ suy niệm: phải chăng chúng ta sẽ chịu lễ vì cơn đói mà
chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể làm dịu đi được?
Có lẽ chúng ta đã được đào tạo để nghĩ một cách khác: “Bỏ lễ là
phạm một tội trọng”. Khi người ta không còn sợ cái tội này nữa, người ta sẽ hết
đi lễ. Tôi ít thấy các bạn trẻ đi lễ chỉ vì bị bắt buộc. Họ sẽ đi lễ nếu người
ta khơi dậu được nơi họ sự đói khát.
Khi luật buộc đi lễ ngày ngày Chúa nhật liên kết với cái đói
Thánh Thể, luật buộc đó sẽ là điều tốt, nó tăng thêm cái đói, nó bổ túc cho cái
chán ăn tạm thời. Nhưng luật buộc cũng có thể che đậy sự thiếu vắng cái đói,
khi ấy người ta chỉ còn giữ luật vì thói quen, vì câu nệ vào luật. Bây giờ nếu
không ai đi lễ nữa, ta sẽ phải nhắc lại luật buộc hay khơi dậy cái đói?
Phép lạ hoá bánh ra nhiều và vấn đề có nhiều người bỏ đi lễ đặt
chúng ta trước cái đói của người khác. Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta
đi lễ mỗi Chúa nhật, và có khi mỗi ngày? Nếu chúng ta đi lễ mà không cảm thấy
đói khát muốn ca ngợi Chúa, muốn kết hợp với hiến tế của Chúa Kitô và muốn sống
bác ái yêu thương như Ngài, chúng ta sẽ chỉ làm một việc không có giá trị đích
thực và sẽ chẳng đón nhận được Chúa Kitô.
Để được Chúa nuôi dưỡng, chúng ta cần phải có một đức tin rất
tỉnh táo, vì thế mà chúng ta được chuẩn bị bằng việc sám hối và bằng những lời
tuyên xưng đức tin. Người tín hữu phải sống với hai thực tại. Trước hết là thực
tại của cuộc đời: làm việc, nghỉ ngơi, những lo toan, những yêu thương và những
nỗi khổ. Và thực tại của Thiên Chúa. Đó không phải là hai thực tại đặt bên cạnh
nhau hay đối nghịch nhau như ta có thể nghĩ. Không có Thiên Chúa, thực tại của
cuộc đời sẽ nghèo nàn, bị đóng kín và nặng nề. Được xâm nhập bởi thực tại của
Thiên Chuá, cuộc sống chúng ta sẽ triển nở không có giới hạn và được biến đổi.
Những điều đó chúng ta đã biết cả, nhưng chúng ta lại quên đi
mau chóng và Bánh sự sống chẳng nuôi dưỡng chúng ta được bao nhiêu. Nếu lúc này
chúng ta không cảm thấy muốn ăn, chúng ta hãy khơi dậy niềm tin, chúng ta sẽ
lại cảm thấy đói khát thực tại của Thiên Chúa và chúng ta sẽ biết tại sao mình
đi lễ. Luôn luôn cái thực tại làm chúng ta thấy đói. Nhưng thực tại của cuộc
sống đang có đấy, rất cụ thể, nó gợi lên cả ngàn cái đói, trong khi đó thực tại
của Thiên Chúa, thường xuyên phải cần đến đức tin mới nhận ra được. Chỉ mình
đức tin mới có thể nói cho chúng ta hay Thiên Chúa hiện thực hơn mọi sự tới độ
nào, và khi đức tin nói cho chúng ta biết điều đó, chúng ta sẽ cảm thấy hết sức
đói.
13. Chia sẻ
cơm áo – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng
hôm nay. Các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua
được trên bình diện con người, đó là 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con
trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn, và vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi
sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như bị đóng lại. Các ông lo sợ và
nói theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức khóa khăn
ấy, từ đó đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng cũng muốn Chúa Giêsu làm như
vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về, hoặc cho họ vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối
và họ có thể kiếm được gì lót dạ qua cơn đói chăng?”.
Thế giới ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa
học kỹ thuật tân tiến, nhưng theo thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp
Quốc cho biết, mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngũ với bụng đói
không có gì để ăn, và 15.000 người phải chết đói hằng ngày. Điều này không phải
vì thế giới thiếu tài nguyên, thiếu lương thực, nhưng vì tài nguyên của quốc
gia bị mánh mung, ăn cắp một cách khéo léo bởi một số người không còn lương
tâm.
Chúng ta không cần dẫn chứng đâu xa, hãy nhìn vào môi trường
trong cuộc sống của chúng ta. Nơi cộng đoàn chúng ta sinh sống, thử hỏi có bao
nhiêu người đang đói khổ? Bao nhiêu người trẻ thiếu phương tiện đến trường học?
Bao nhiêu người bị bóc lột sức lực và làm việc với đồng lương bất công? Tại Phi
Luật Tân 70% dân chúng sinh sống dưới mức phân biệt nghèo túng. Chúng ta đang
đứng trước những thách thức bao la và có lẽ cũng muốn bỏ chạy trốn, hoặc đổ
trách nhiệm sang cho kẻ khác với những lý do an ủi mình như, nhiều người đói
khổ quá làm sao tôi có thể lo cho họ được, sức tôi có hạn làm sao tôi có thể
chia sẻ với từng ấy người đang cần đến lương thực để sinh sống.
Thật lạ lùng, một cộng đoàn đông đến 5.000 người đàn ông, không
kể đàn bà con trẻ mà không còn chút lương thực, không còn chúng gì để ăn tối,
hay là mỗi người đã đem giấu phần thức ăn của mình? Hay có thể vì sợ không đủ
cho kẻ khác? Nếu không có năm cái bánh và hai con cá của một em nhỏ nào đó thì
làm sao Chúa Giêsu có thể nhân thêm để nuôi sống hàng mấy ngàn người như vậy.
Em bé này đáng được khen ngợi, vì tâm hồn rộng lượng của em, một tâm hồn đơn sơ
không nghĩ ngợi, dám dâng cho Chúa phần đóng góp nhỏ nhoi của em.
“Chúng con hãy cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh mà
Chúa truyền lại cho các Tông đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người
Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể
chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy
biêt sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho
đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh
sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa
để gìn giữ que diêm đó khỏi gió thổi tắt.
Thánh Matthêu mô tả hành động phép lạ của Chúa Giêsu giống như
hành động Chúa cử hành bí tích Thánh Thể với các Tông đồ trong bữa tiệc ly:
“Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn và trao cho các môn đệ để các ngài đem đi phân phát”.
Bí tích Thánh Thể được gọi là “Bữa tiệc chia sẻ tình yêu, Agapae: Bữa tiệc bẻ
bánh”. Trong thời Giáo Hội sơ khai, bí tích Thánh Thể là phương tiện hữu hiệu
nhất để giúp cho các đồ đệ có được sức sống của Ngài, có được tình yêu và sức
mạnh của Chúa.
Đừng chạy trốn trước sự mời gọi chia sẻ của anh em. Chúng ta hãy
xét lại xem mình đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bí Tích Thánh Thể có
tác dụng thế nào trong đời sống chúng ta? Bí Tích Thánh Thể được chúng ta cử
hành, chia sẻ trong nhà thờ và chúng ta có kéo dài nó trong cuộc sống bên ngoài
nhà thờ hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa một
ngày một hơn nhờ việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, cũng như qua việc chia sẻ sự
sống của Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành
trong đức bác ái, sẵn sàng đóng góp phần nhỏ của mình để phục vụ anh em, xin
Chúa giúp chúng ta trưởng thành trong Đức tin mà chúng ta chia sẻ qua kinh Tin
kính.
14. Suy niệm
của Lm Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN
NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả
Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt
14,13-21 và 15,32-38) và Mác cô (6,35-44 và 8,1-10) Luca (9,12-17) và Gioan
(6,1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan
trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì
thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm
thú, chim trời cá biển được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân
trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình
thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng "người thì
ăn không hết, người thì làm không ra".
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn
người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy
vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang
theo để dành cho ngày mai, ngày mốt và cho con cháu... thế là những khách mời
đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn
sẵn cho mọi người. Lương thực trên mặt đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng
dùng. Nếu mọi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải
thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những phương tiện
sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư
đầy của cải, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền
miên.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người
rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi
người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Người giảng
dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám
đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi
người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ
ăn". Các môn đệ đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai
con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?"
Thế rồi "Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Người
cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng,
bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông."
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và
bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát
phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng
hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho
người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều,
cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người
ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sarépta: Dù đang giữa cơn
hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi
trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo
lời tiên tri Êlia truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người
khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa
xuống làm hoa trái tốt tươi. (1V 17, 7-16)
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: "Các
con hãy cho họ ăn" để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung
quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần
kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ
nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ
Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm
hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại phân làm hai.
Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình
người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để
ăn".
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu
người ta biết chia sẻ cho nhau.
15. Bánh hoá nhiều
Đám đông dân chúng say mê đi theo Chúa vì những lời Ngài giảng dạy
và những phép lạ Ngài đã làm. Không một ai đã nghĩ đến việc mang thực phẩm dự
trữ. Ngoại trừ một em nhỏ có được 2 con cá và mấy chiếc bánh.
Khi các tông đồ hỏi xin, em đã đưa hết không một chút ngần ngại.
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, rồi trao cho các tông đồ đem đi
phân phát. Hiệu quả năm ngàn người đã được no nê mà vẫn còn dư lại những 12
thúng đầy. Đám đông kinh ngạc và hớn hở, họ thầm nghĩ phải chăng Ngài sẽ là
Đấng dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại vàng son. Họ đang cần một vị vua lẫm
liệt oai phong. Biết được ý đồ ấy, Ngài đã một mình rút vào nơi thanh vắng.
Nhưng dân chúng một khi đã được khích động thì khó mà thay đổi được tình cảm và
mục đích, cho nên ngày hôm sau tại hội đường Capharnaum, họ lại xin Ngài thực
hiện phép lạ ấy một lần nữa.
Từ khởi điểm này, Ngài đã giới thiệu một thứ lương thực thần
linh và thực hiện một phép lạ còn kỳ diệu hơn nữa. Ngài phán: Hãy làm việc
không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn dẫn tới cuộc sống đời đời. Của ăn
ấy Ta sẽ ban đó chính là Mình Ta cho thế gian được sống. Ai ăn Thịt Ta và uống
Máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Những lời này, khiến họ lấy làm chướng tai khó nghe nên họ đã bỏ
Ngài, chỉ còn lại nhóm 12. Mặc dù biết các ông còn bàn tán, Chúa Giêsu đã không
cắt nghĩa mà Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật
là của uống. Sau này trong bữa Tiệc Ly Ngài đã lặp lại: Hãy cầm lấy mà ăn vì
này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, vì này là Máu Ta. Lời Chúa về lương thực
thần linh đã trở nên một điểm làm phân rẽ nhân tâm, để rồi nhiều người đã bỏ
Chúa. Từ đó cho đến nay, Bí tích Thánh Thể vẫn là một mầu nhiệm cao cả nhất và
cũng là một điểm làm cho nhiều người vấp ngã. Nhưng lập trường của Chúa vẫn
luôn dứt khoát và rõ rệt trước sau như một: Nếu các ngươi không ăn thịt và uống
máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống. Đây cũng là một định luật căn
bản: được nuôi dưỡng hay là sẽ phải chết. Sự sống cần đến những năng lượng để
sinh hoạt và phát triển, bằng không sẽ bị tàn lụi.
Bánh cho người tây phương và cơm gạo cho người đông phương là
những hình ảnh thật cụ thể và quen thuộc, mà chúng ta cần đến hằng ngày. Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã chuyển hình ảnh ấy vào lãnh vực siêu nhiên. Bánh đó không
phải là thứ của ăn mà Ngài đã ban cho đám dân chúng, nhưng là lương thực thần
linh nuôi sống linh hồn.
Sự sống siêu nhiên khởi đầu từ Bí tích Rửa tội, lớn lên bằng Bí
tích Thêm sức và được bồi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể. Với Bí tích Thánh thể
tâm hồn chúng ta được nuôi dưỡng và khỏe mạnh. Nếu chúng ta siêng năng rước lễ,
chúng ta sẽ không còn khô khan nguội lạnh và xa tránh được nhiều tội lỗi, vì
lúc bấy giờ Chúa sẽ ở cùng chúng ta và ai mạnh mẽ uy quyền cho bằng Chúa.
Trong thời buổi Giáo Hội bị bách hại bởi các bạo vương Lamã,
người ta đã bí mật đem Mình Thánh Chúa cho các tín hữu bị bắt và bị giam cầm,
nhờ đó mà các tín hữu ấy tìm được nguồn an ủi và trung thành với Chúa cho đến
hơi thở cuối cùng.
Cũng vậy, trong những trại tập trung, người ta đã chuyển bánh và
rượu vào cho các linh mục bị tù đày để các ngài âm thầm cử hành thánh lễ, rồi
phân phát Mình Thánh cho những bạn tù bất hạnh, lúc bấy giờ nhà tù trở thành
gian cung thánh cho Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta cần đến của ăn như thế
nào thì tâm hồn chúng ta cũng cần đến Bí tích Thánh thể như vậy. Nhờ Bí tích
Thánh Thể chúng ta kín múc được nguồn sinh lực, để vượt thắng mọi tội lỗi và
mọi khổ đau, đồng thời bảo đảm cho chúng ta sự sống lại và niềm hạnh phúc vĩnh
cửu.
Hãy xét mình xem chúng ta đã đáp trả lời mời gọi ân tình của
Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể như thế nào?
16. Cộng
tác
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại
hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng
hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức
là vào năm thứ hai giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì với chúng ta khi
làm phép lạ này?
Điều thứ nhất, Chúa muốn nói với chúng ta về lòng thương xót.
Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái đã kêu xin Chúa ban
lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó Thiên Chúa đã không làm ngơ và đã
ban man – na cho họ. Cũng vậy, Chúa Giêsu đã không làm ngơ trước cảnh dân chúng
đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy ở một nơi đồng không mông quạnh mà không có
gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no, Ngài đã thương xót họ. Trong bối
cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời
đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa:
“Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ
thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì
là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ. Vì thế, Chúa muốn
các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào
thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Các con hãy lo cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi,
nhưng chưa đủ. Có những lời nói xót thương người khác cũng là một điều tốt rồi,
nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, phải có hành động xót thương
thực sự nữa, Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như
thế. Chúng ta hãy nghĩ xem; trước những nỗi đau của người khác, trước những
túng thiếu của người anh em, chúng ta thường có những thái độ nào? Thái độ
ngoảnh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc là thái độ không thể nào chấp nhận được,
mà trong thực tế có nhiều người trong chúng ta đã có thái độ đó. Rồi có lòng
trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, thông cảm là thái độ tốt rồi, nhưng
tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta
những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những
gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực
hiện. Chúng ta hãy nhớ: điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều
nhưng là ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị
em của chúng ta.
Trong ý tưởng đó, chúng ta hãy suy nghĩ những lời phát biểu
trước quốc hội của ông Ganhdi, vị anh hùng đã áp dụng phương pháp bất bạo động
để giải phóng dân tộc An Độ khỏi ách thống trị của Anh Quốc. Ông Ganhdi đã nói:
“Theo quan niệm của tôi thì về một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người ăn
cắp. Bởi lẽ nếu tôi có một vật nào đó mà tôi không cần ngay bây giờ nhưng tôi
vẫn giữ nó, thì đó là tôi ăn cắp vật đó từ một người khác đang cần đến nó. Tại
An Độ hiện nay, chúng ta có ba triệu người mỗi ngày chỉ ăn một bữa và thức ăn
của họ chỉ là một miếng bánh và một nhúm muối. Trước thực tại này, quí vị và
tôi không có quyền sở hữu một vật gì mà chúng ta không trực tiếp cần đến, cho
đến khi ba triệu người này được ăn no, mặc ấm”. Những lời phát biểu đó cũng là
những gợi ý giúp chúng ta hiểu và sống lời Chúa hôm nay.
Điều thứ hai, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ hóa
bánh này là sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa.
Với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi
người ăn, nhưng Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài khi Ngài bảo các ông:
“Các con hãy lo cho họ ăn”. Khi các môn đệ tìm được 5 chiếc bánh và 2 con cá
rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng
tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là
bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để
xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự,
nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể
cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa
làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng
thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh. Đừng kể trong đời thường
mà thôi nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa
tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng
ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Câu chuyện sau đây minh họa cho điều đó: Một nhà văn Kitô
giáo đã dựng một vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị
trấn nhỏ thời Trung Cổ. Theo phép nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là
nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số
vàng 700 đồng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây, hoàng hậu theo gương
có 200 đồng cũng giúp hết, các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được
999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành
pháp lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi
sắp sửa rút dây thì có một tiếng kêu lớn: “Khoan đã, lục soát người nó đi, biết
đâu đấy”, tên đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn
giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng,
tên tử tội được thoát chết. Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này phải
không? Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta, các
thánh cũng trợ giúp chúng ta, và chính chúng ta cũng phải góp phần. Tóm lại, dù
chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả
năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta.
17. Hãy cho
Bắt đầu bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu nói rõ Chúa Giêsu
nghe tin Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, nên Ngài buồn bã rút lui khỏi vùng
Galilêa vào nơi yên tĩnh.
William Barclay đã đưa ra ba lý do. Ngài là con người, cần nghỉ
ngơi. Ngài không bao giờ liều lĩnh lao vào nguy hiểm, phải rút lui kẻo sớm chia
sẻ chung số phận với Gioan. Và trên hết, với thập giá đang đến gần kề, Chúa
Giêsu đã biết Ngài phải gặp gỡ Thiên Chúa trước khi tiếp xúc với con người,
Ngài tìm kiếm sự nghỉ ngơi cho thể xác và củng cố tinh thần nơi thanh vắng.
Phúc âm thánh Matthêu ở chương 14 đã mô tả hai bữa tiệc xảy ra
nối tiếp nhau để độc giả so sánh và suy nghĩ: Bữa tiệc sang trọng với chiếc đầu
của Gioan Tẩy giả và bữa tiệc của dân nghèo với năm chiếc bánh và hai con cá.
1. Gioan bị chém đầu: tại bữa tiệc ở cung
điện của vua Hêrôđê với các quan khách sang trọng quí phái. Họ có tất cả mọi sự
trên đời, quyền hành, danh vọng, tiền bạc, sắc đẹp, lạc thú, lương thực cao
lương mỹ vị, rượu ngon thỏa thích, vũ nữ duyên dáng… và có cả hận thù, ích kỷ,
máu đổ đầu rơi!
Vài tuần lễ trước khi chết, một phóng viên đã phỏng vấn Elvis
Presley – nổi tiếng là vua của nhạc Rock: “Elvis, khi anh bắt đầu chơi nhạc,
anh đã nói anh muốn có được ba điều trong cuộc đời. Anh muốn giàu sang. Anh
muốn nổi tiếng. Và anh muốn sống hạnh phúc. Giàu sang và nổi danh chắc chắn là
anh đã có. Thế còn hạnh phúc, không biết anh thực sự có hay không, Elvis?”
Chàng ca sĩ trả lời, “Không, tôi sống cô đơn như ở trong hỏa ngục”.
Giàu sang. Danh vọng. Những người hâm mộ vây quanh gồm đủ mọi
hạng người, các giai nhân tài tử tuyệt trần, vậy mà Elvis diễn tả cuộc sống của
anh như hỏa ngục! Thật lạ lùng! Như thế, cuộc sống của vua Hêrôđê với tiệc tùng
nào có khác chi!
2. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất:
tại bữa tiệc nơi hoang vắng với đám dân nghèo đói. Họ chẳng có gì, ngoài sự tin
tưởng, hy vọng vào tình thương và sự chia sẻ của Chúa Giêsu. Sự thiếu thốn về
vật chất dễ làm đời sống tinh thần của con người trở nên ích kỷ. Họ không muốn
đóng góp sự gì, mà chỉ mong mỏi đấng Thiên Sai đến giải thoát họ khỏi khổ cực
đang chịu vì sự áp bức của đế quốc Rôma và những người Do Thái giàu có.
Đây không chỉ là phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều nhưng còn là
phép lạ thay đổi đám dân chúng ích kỷ trở nên quảng đại nhờ sự hiện diện và
tiếp xúc với Chúa Kitô. Đây là phép lạ của tình yêu sinh ra trong những con tim
oán hờn. Phép lạ này là một biểu tượng của Bí tích Thánh Thể.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Một hệ quả đầy ý nghĩa
khác của chiều hướng cánh chung gắn liền với Thánh thể còn là sự kiện nó thúc
đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng
sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ của chúng ta. Quả
thế, nếu tầm nhìn Kitô giáo dẫn đến việc mong chờ một “Trời mới” và “Đất mới”,
nó không làm suy giảm, mà trái lại làm gia tăng ý thức trách nhiệm của ta đối
với thế giới hôm nay… Những vấn đề đang bao phủ chân trời của chúng ta thật là
nhiều. Chỉ cần nghĩ đến nhu cầu cấp bách phải kiến tạo hòa bình, thiết lập
những mối tương giao giữa con người với nhau dựa trên nền tảng vững chắc là sự
công bình và tình liên đới… Và chúng ta sẽ nói gì đây về vô vàn mâu thuẫn trong
một thế giới “toàn cầu hóa”, trong đó những người yếu ớt nhất, không có quyền
lực nhất và nghèo nhất dường như không có chút hy vọng! Chính trong thế giới
này, niềm hy vọng của người Kitô hữu phải tỏa sáng! Cũng vì lý do đó, Chúa đã
muốn ở lại với chúng ta trong Thánh Thể, bằng cách làm cho sự hiện diện của
Người trong bữa ăn và trong hy tế, trở nên lời hứa đổi mới nhân loại bằng tình
yêu của Người”.
3. Vai trò của Giáo Hội: Phép lạ còn nhấn mạnh
đến vai trò của các môn đệ trong công việc của Chúa Kitô nữa. “Xin Thầy giải
tán dân chúng để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn… Họ chẳng cần phải đi, các
con hãy cho họ ăn”. Câu chuyện kể rằng Chúa Giêsu đã trao bánh và cá cho các
môn đệ và chính các ông phân phát cho đám đông.
Sự thật là các môn đệ chẳng làm gì được nếu không có Chúa Giêsu.
Và Chúa Giêsu cần đến những bàn tay cộng tác của các môn đệ. Nếu Chúa Giêsu
muốn trẻ em được dạy dỗ, người nghèo đó được nuôi nấng, người ốm đau được săn
sóc, Ngài phải có người nào đó làm công việc này.
Vào một đêm người đàn ông rút cây nến nhỏ từ trong ngăn kéo ra,
thắp nó lên, và bắt đầu bước lên chiếc cầu thang dài hình trôn ốc. Cây nến hỏi
người đàn ông: “Ông đi đâu vậy?” Ông trả lời: “Đi lên chỗ cao hơn nóc nhà nơi
chúng ta đang ngủ”.
“Và ông sẽ làm gì ở đó?” cây nến hỏi. “Tôi sẽ chỉ cho những con tàu ở biển khơi
biết đâu là hải cảng”, người đàn ông nói, “vì chúng ta đang ở ngay lối vào hải
cảng, và một số con tàu ngoài biển khơi đang gặp bão táp, có thể tìm thấy ánh
sáng của chúng ta”. “Không có con tàu nào nhìn thấy ánh sáng của tôi cả”, ngọn nến nói “tôi quá nhỏ bé mà”. “Mặc dù
ánh sáng của ngươi nhỏ bé”, người đàn ông đáp, “cứ hãy thắp sáng nó lên, đừng e
ngại, hãy để phần còn lại cho ta tính”. Rồi người đàn ông trèo lên những nấc
thang cho tới đỉnh của ngôi nhà hải đăng, cầm cây nến nhỏ bé, châm lửa vào
những cái đèn vĩ đại đã đứng sẵn ở đó với những tấm gương phản chiếu bóng láng
ở phía sau. Một cây nến nhỏ cũng có thể làm nên một ngọn lửa lớn hơn.
Đây là công việc của Giáo Hội. Giáo Hội được gọi là tông truyền
vì luôn tiếp tục các công việc của các tông đồ. Giáo Hội vẫn được thánh hóa và
hướng dẫn bởi các tông đồ qua giám mục đoàn với sự cộng tác của các linh mục,
hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô.
18. Hãy cho
Trong cuốn sách có tựa đề “Healing Through The Mass”, linh mục
Robert De Grandis SJ. kể câu chuyện như sau:
“Nasa, Cơ quan Không gian của Hoa Kỳ, đã làm một số thí nghiệm
qua một loại máy chụp hình đặc biệt có thể nhìn thấy mức độ năng lực trong cơ
thể con người. Điều này được nhìn thấy trên màn ảnh máy điện toán. Năng lực này
xuất hiện giống như hơi phát ra xung quanh cơ thể. Sự quan tâm của trung tâm
Nasa trong cuộc thí nghiệm này là để nghiên cứu về những ảnh hưởng của cuộc du
hành không gian trên những phi hành gia bay trong quỹ đạo. Đang khi thí nghiệm
tại một bệnh viện, họ khám phá thấy rằng khi một người đang hấp hối gần chết,
hơi người xông ra (mà tôi nghĩ đó là năng lực) xung quanh cơ thể trở nên mỏng
hơn, và nó càng lúc càng trở nên mỏng dần cho đến khi người ấy chết.
Đang khi nhà khoa học làm cuộc thí nghiệm này trong bệnh viện,
thì người phụ tá của ông núp đàng sau một tấm kính hai chiều. Họ trông thấy qua
máy chụp ảnh một người khác đang tiến vào trong phòng với ánh sáng phát ra từ
cái túi áo của ông. Rồi từ trong túi áo người đàn ông đó đã lấy ra một vật và
làm một điều gì đó tới nỗi qua máy chụp, toàn thể căn phòng tràn ngập ánh sáng,
và qua máy chụp sau đó họ không còn có thể nhìn thấy điều gì đang xảy ra nữa.
Họ đã chạy vào trong phòng để nhìn xem điều gì đã gây ra ánh sáng tràn ngập như
vậy xuất hiện trên máy chụp của họ. Họ đã khám phá thấy rằng người hấp hối đang
được trao ban Mình Thánh Chúa. Sau đó, qua máy chụp, họ có thể nhìn thấy hơi
người xông ra xung quanh người bệnh trở nên sáng hơn. Mặc dù tuổi đời đã trên
50, nhà khoa học hướng dẫn cuộc thí nghiệm đã quyết định đi tu trở thành một
linh mục sau khi chứng kiến sự kiện lạ lùng này”.
Người hấp hối đã trở nên mạnh mẽ bởi rước lấy Mình Thánh Chúa.
Chúa Giêsu hiện diện trong hình thức của tấm bánh là lương thực nâng đỡ tinh
thần của người hấp hối. Người ốm đau nằm trên giường bệnh là người chẳng còn có
sự gì. Họ không thể làm được điều gì cho bản thân mình. Chúa Giêsu cũng chạnh
lòng thương họ như thương đám đông ngày xưa.
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng truyền dạy chúng ta “hãy cho họ ăn”.
Bí tích Thánh thể diễn tả ý nghĩa tông truyền này, như Công đồng Vatican II
dạy: “Các tín hữu tham dự tế lễ Thánh Thể nhờ chức tư tế vương giả của họ, song
chính linh mục có chức thánh, “hành động trong tư cách của Đức Kitô, cử hành Hy
tế tạ ơn và nhân danh toàn dân mà dâng lên Thiên Chúa”.
19. Lòng thương
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm,
có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản
tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải
cung cấp lương thực cho 9 ngàn người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn
dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời:
- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định
không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những
người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
- Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã.
Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ
hàng?
Họ thưa:
- Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt.
Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp
vào.
Món quà cưới của đôi bạn trẻ trong câu chuyện trên đây quả là
cao đẹp. Nó cao đẹp bởi vì nó được làm nên bởi những hy sinh quá lớn. Nó cao
đẹp bởi vì nó kết tinh bằng một tình yêu trao ban. Họ không chỉ hy sinh tiền
bạc mà còn hy sinh cả vinh dự và niềm vui. Họ không chỉ trao ban của cải mà còn
trao ban cả tấm lòng. Bởi vì họ đã học được nơi Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm
nay: “Người thấy đám dân đông đúc thì chạnh lòng thương”.
Chính vì chạnh lòng thương mà Đức Giêsu đã chữa lành những người
bệnh hoạn tật nguyền.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã không để cho đám đông tự
mua lấy thức ăn.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã bảo các môn đệ: “Họ không
cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.
Và cuối cùng, lòng thương xót bao la của người mục tử tốt lành
đã thực hiện một phép lạ ngoạn mục nhất trong Kinh thánh là chỉ với năm chiếc
bánh và hai con cá Đức Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ
em được ăn no nê mà còn dư giả.
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm
của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và
cả thế giới sẽ được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Có lẽ người nghèo sẽ không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng
vì thiếu những con người biết chạnh lòng thương. Người ta cần có lương thực để
sống, nhưng cũng rất cần có tình thương để tồn tại. Những người đang chờ chết
là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Những người giàu có mà không
biết chia sẻ cũng là những người đang chết đi cái nhân tính của mình. Nếu Đức
Giêsu đã bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn thì đó không phải lời khuyên mà là
một lệnh truyền.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết
chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà
thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có
biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong
cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết: “Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi
làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng
thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
Tình yêu trao ban mà Đức Giêsu mời gọi những tín hữu Kitô hãy
thực hiện thì chính Người đã làm gương trước. Vào bữa tiệc ly ngày thứ năm Tuần
thánh, Người chính là tấm bánh được bẻ ra, và trao ban cho các môn đệ. Tin Mừng
thuật lại sáu lần hóa bánh ra nhiều cũng là để nói lên hình bóng của Bí tích
Thánh thể là chính Đức Giêsu: tấm bánh được bẻ ra, được trao ban cho một thế
giới mới.
Và môn đệ trao cho đám đông. Khi nhận lấy bánh Hằng Sống, chúng
ta không thể giữ lấy cho riêng mình, nhưng là sẵn sàng chia sẻ trao ban cho
những người chung quanh.
Ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái
thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất. Trao ban đích thực là trao ban
chính bản thân. Con người chỉ trở nên giàu có khi trao ban chính bản thân mà
thôi. Mẹ Têrêsa Calcutta không mang đến Ấn Độ một đồng xu dính túi, không cho
những người nghèo tiền rừng bạc bể, không mang đến đó tiền của dư thừa. Mẹ trao
ban chính mình. Nhưng chắc chắn khi qua đời ít có ai giàu có hơn mẹ.
20. Lòng quảng
đại
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang
qua một gia đình Hin đu đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gao cho gia đình ấy.
Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc.
Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình đã chia số gạo ra
làm hai phần. Rồi bà đem một nữa cho gia đình nhà bên cạnh, tình cờ là những
người theo Hồi dào.
Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ “Bà còn lại được bao
nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”.
“Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”, người đàn bà ấy trả
lời.
Lòng quảng đại như thế làm chúng ta phải trở nên khiêm nhường.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều ấy còn được gọi là phép lạ của lòng
quảng đại. Trước hết là lòng quảng đãi tuyệt vời của cậu bé, vì với món quà của
cậu là năm chiếc bánh và hai con cá mà phép lạ mới được thực hiện. Có thể tự nó
là ít ỏi, nhưng đối với cậu bé đó là to lớn vì đó là tất cả những gì cậu có.
Cho vật gì mà cả người cho lẫn người nhận rất cần. Đó mới thật sự là cho và là
một sự hy sinh.
Do đó có sự quảng đại kỳ diệu của Đức Giêsu. Để đánh giá điều
đó, chúng ta cần xem xét hoàn cảnh của phép lạ. Đến với những người khác khi
không gặp sự phiền nhiễu nào là một việc dễ dàng. Nhưng sự việc không dễ dàng
khi nó ào đến chúng ta vào lúc mà chúng ta đang gặp rắc rối. Ở đây bao hàm một
sự hy sinh. Chúng ta phải để mọi dự định của chúng ta qua một bên và quyên cả
chính mình. Đức Giêsu đà làm như thế. Người vừa mới biết tin người anh họ là Gioan
Tẩy Giả đã bị giết chết. Người cần được yên tĩnh và thinh lặng. Đó là lý do
khiến Người vừa bước ra khỏi thuyền, Người thấy đám đông dân chúng chờ Người.
Hẳn Người có thể tức giận và giải tán họ. Thế nhưng Người lại thương xót họ và
hoàn toàn cống hiến cho họ.
Rồi với lòng quảng đại tuyệt đối, người đáp ứng cơn đói của dân
chúng. Người không chỉ cho họ ăn, nhưng còn cho mỗi người nhiều hơn họ cần, và
còn dư mười hai thúng đầy.
Bạn có thể thấy tại sao phép lạ này được gọi là một phép lạ của
lòng quảng đại. Lòng quảng đại không phải là lúc nào nào cũng biếu đồ vật.
Thường gặp hơn, dâng hiến chính mình là cho thời gian và các tặng vật của mình.
Cho đồ vật có thể là dễ dàng, nhưng cho chính mình không bao giờ dễ dàng. Trước
khi Người ban chính mình như của ăn, của uống trong Thánh Thể, Đức Giêsu đã ban
chính mình cho dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đã được các Kitô
hữu tiên khởi trân trọng giữ gìn. Phép lạ nhắc lại câu chuyện Man-na trong sa
mạc thời Cựu Ước. Đối với họ, Đức Giêsu là Môsê mới, nuôi dân chúng trong sa
mạc. Vì thế, họ nhìn thấy trong phép lạ này một sự tiên báo của Thánh Thể.
Chính ở bàn tiệc Thánh Thể mà Đức Giêsu nuôi dưỡng họ.
Và Đức Giêsu giờ đây cũng nuôi dưỡng chúng ta ở đó. Chỉ ở bàn tiệc
của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự nuôi dưỡng và tâm hồn chúng ta hằng
mong ước. Trong Thánh Lễ chúng ta được nuôi dưỡng với Lời Chúa và Bánh Sự Sống.
Và khi mời gọi chúng ta đến chia sẻ bữa tiệc sự sống nơi trần gian, Thiên Chúa
mời gọi chúng ta chia sẻ bữa tiệc sự sống đời đời trên Thiên Đàng.
Khi dân chúng trở về nhà vào cuối ngày hôm ấy, họ biết rằng họ
đã có kinh nghiệm và lòng tốt và tình yêu của Thiên Chúa tình yêu mà Thánh
Phaolô nói không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Trong Thánh Lễ chúng ta nếm hưởng tình yêu của Thiên Chúa. Bằng
chứng việc chúng ta có kinh nghiệm tình yêu ấy là chúng ta sẵn lòng yêu thương
những người khác. Chúng ta có thể chỉ cho bằng những phương tiện nhỏ bé và số
lượng nhỏ bé. Tuy nhiên, từ cậu bé trong Tin Mừng, chúng ta thấy một số lượng
nhỏ bé có thể trở thành một số lượng lớn khi được đặt vào đôi tay của Chúa.
21. Bánh hoá nhiều
Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5
chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác,
sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu
nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái
đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết
chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến
một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa
bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ
ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói
với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ
lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”.
Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho
chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới
những khát vọng tầm thường.
Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác: ăn
uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với
những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa
mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý.
Chúa Giêsu nói: “Hãy xem chim trời… hãy xem hoa huệ ngoài đồng…”
Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn: bình an sâu sắc, tình
yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, nỹ tuyệt đối… Những khát vọng này
không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên
Chúa.
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng
bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như
không ai làm nổi: biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại
chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này:
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà
này từ chối:
Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một
viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng
có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi
vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật
của nồi súp tuyệt vời ấy. Hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao
lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm:
“Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon
tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người
khách lại nếm và lại nói “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt
nữa thì hết chỗ chê”. Một người khách vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế…
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn.
Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì
vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra
đi.
22. Đào
tạo lòng tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ
bằng sự lạ lùng.
Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm
ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình
xuống từ nóc đền thờ.
Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác
của họ.
Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại
bảo các gia nhân: "Hãy đổ nước đầy các chum!" (Ga 2, 7). Các môn đệ
sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy
thuyền mà bảo Simon "ra khơi mà thả lưới đánh cá" (Lc 5, 4 -7). Trong
phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: "Các anh có mấy chiếc bánh?" (Mc
6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo
lòng tin của các môn đệ.
Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài
đối với dân chúng "vì họ như cừu chiên không người chăn giữ". Chúa
chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn
sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa
Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành
về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được "tập sự" chia
sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu
lượm những gì còn sót lại.
- Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể "Ngài cầm
lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra,
trao cho các môn đệ" (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly "Ngài cấm lấy bánh,
chúc tụng" (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa
Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
- Được bánh ăn, dân chúng muốn "bắt lấy Ngài tôn lên làm
vua" (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc
nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh "Hãy ra công làm việc,
đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời
đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi" (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi
thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: "Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với
ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ" (Ga 6, 35). Chóp
đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là "Ai ăn thịt ta và uống máu
ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau
hết" (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá
của Chúa.
"Bánh ta sẽ ban" hướng về cái chết của Chúa Giêsu và
gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập
giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi
trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình
Máu Chúa Giêsu.
- Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công
trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu
hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời
Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa:
"Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga
1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ
mạng công bố lời Ngài "Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói
với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ" (Dt1, 1).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay
"Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh
nhân" (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ
"Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn"
(Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên "khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng". Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố
Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn
công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi
cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng
và hiệu năng ở đây là hiệu năng "do nhân" (ex opere operantis), tuỳ
thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử
hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân
danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.
Lời Bí Tích mang hiệu năng "do sự" (ex opere operato),
qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh
Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ
quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói
cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng
là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người
vì: "Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh
Thần" (1 Cor 12, 3) và "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ
là uổng công" (Tv 127, 1).
Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn
luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì
người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian,
cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi
lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao
giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là
hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách
nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh
là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi
nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người
và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế
cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng
khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống
chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả
đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của
chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời
sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của
cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã
được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của
nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý
nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng
chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa
Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm
của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu
Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân
sủng của Thánh Thể Chúa Kitô "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với
tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (Ga 6, 35).
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn
đời" (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con
người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực
thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh
lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp
lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi:
‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không
tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh
giá”. (Đường Hy Vọng #349).
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô
hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua,
‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua
cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực
của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để
biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng
đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống
hàng ngày. Amen!
23. Các con hãy cho họ
ăn đi.
Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng
nghèo về của cải vật chất, nhưng giàu có về của cải tinh thần. Bà cầu nguyện
rất nhiều. Trong khi người chủ nhà sống ở căn hộ sát bên, ông ta không có đức
tin, không cầu nguyện, không tôn giáo. Ông ta lại thường chế nhạo bà già về
lòng tin vào Thiên Chúa. Có một ngày bà già cầu nguyện lớn tiếng, thưa với Chúa
rằng: “Bà không còn chút thực phẩm nào trong nhà”. Người đàn ông không có đức
tin ờ sát căn hộ bên nghe được, và quyết định: “Ta phải chơi khăm mụ già này”.
Thế là ông ta đem một ổ bánh mì đặt ở trước cửa nhà, bấm chưông rồi vội vã trở
về căn hộ của mình, và lắng nghe qua bức tường tiếng kêu sung sướng của bà già:
“Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, con biết rằng Chúa không bỏ rơi con”. Ông già nham
nhở trở lại cửa trước nhà bà già và bảo bà: “Bà già thật ngờ nghệch. Bà nghĩ
rằng Thiên Chúa đáp lời bà xin ư! Phải, tôi là người đem ổ bánh mì cho bà đấy!”
– Bà già dũng cảm kêu lên: “Ngợi khen Chúa! Ngài luôn giúp đỡ tôi trong lúc
thiếu thốn, dù rằng Ngài phải dùng ma quỉ mà đáp lời tôi xin”.
Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay, các môn để xin Chúa giải
tán dân chúng... để họ đi mua thức ăn. Chúa Giêsu bảo các ông: “Các con hãy cho
họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với năm chiếc bánh mì và hai con cá – với
12 thúng bánh vụn còn dư lại.
Hôm nay đám đông dân chúng đó đã phát triển nhanh tới hàng triệu
người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói, một trăm ngàn người một ngày,
theo như một số ước lượng. Ngay ở quê hương chúng ta đây, còn rất nhiều người
thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng.
Nhiều Kitô hữu và cả người ngoài Kitô giáo có những hy sinh anh
hùng để nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối
với con người. Chắc chắn chúng ta phải làmhết sức, với khả năng con người.
Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp ở trên và vượt qua con người. Chúng ta nghe thấy
có tiếng kêu: “Người đói cần thực phẩm - không cần lời cầu nguyện”. Dĩ nhiên là
thế, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho bánh cho người chết đói, cho đến khi
chúng ta cũng cho họ lời cầu nguyện. Chỉ riêng các tông đồ không thể nuôi đám
đông người đói đó. Họ đã giải quyết được với sự giúp đỡ của Chúa Kitô. Phải,
đức tin của tôi chỉ đủ tin rằng nếu chúng ta nài xin Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp
đỡ chúng ta nuôi dưỡng người đói như bà già trong câu chuyện. Tôi tin tưởng
Chúa sẽ thực hiện ngay cả với một phép lạ, có lẽ với phép lạ của lòng bác ái.
Chúng ta cầ cầu nguyện cho vấn đề người đói, vì chúng ta biết
tất cả sự việc, số đông vô kể những người đói, sự khó kiếm được thực phẩm cho họ,
hay làm cho họ kiếm được lương thực, hệ thống phân phối nhiều khi và thường đầy
tội lỗi, thì chỉ nhờ lời cầu nguyện mà các cá nhân và tập thể sẽ bị lay động để
làm những gì thiết yếu cho việc cung cấp lương thực cho những người đói khổ.
Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên và thành thực để chúng ta ý
thức và luôn ý thức rằng: hàng triệu người đang chết đói.
Sự tin tưởng cầu nguyện được diễn tả trong bài đáp ca: “Muôn
loài để mắt trông cậy vào Chúa và Chúa sẽ ban lương thực cho chúng đúng theo
giờ”.
Trong ít phút nữa, chúng ta sẽ cầu nguyện như những lời Chúa Giêsu đã dạy: “Xin
ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều
mà tôi xin các bạn làm. Hãy cầu xin lương thực cho tất cả chúng ta, tất cả nhân
loại. Phải, hãy đào bới và trao tặng, nhưng cũng hãy quì gối cầu nguyện để tất
cả anh chị em chúng ta trên thế giới có lương thực.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
24. Phép lạ
của sự lắng nghe
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên
tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích
Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh
Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua
mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau
lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin
Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân
lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ
đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng
của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này
vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi
miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người
đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000
người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có
âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với
thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói "ăn sóng
nói gió", phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà,
lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro,
không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên
man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực,
đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là
người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường
ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà
đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng
cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi
chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn
nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được
thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở
và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người
biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy
những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình
yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ
không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ
chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu
ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn
hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau
trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng
vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất
truyền thống tổ tiên. "Thương người như thể thương thân. Người trong một
nước phải thương nhau cùng". Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông
tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại
lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi
lại. "Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng
dạy và gom góp của cải thành của chung". Một con người biết đóng góp và
xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: "Tôi đã làm gì cho giáo xứ",
hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con
người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương
thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một
đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng
đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và
trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của
mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn
biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau.
Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn
nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương.
Amen.
25. Đức
Giêsu chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng
(Suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn
khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý
tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ
người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát.
Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được
củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức
Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện
diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này:
“Tiến tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời”
hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập
đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu
(13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó
với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết
Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với
Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu
lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13;
15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và
hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi
trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh
(16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than:
“Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định
rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người
duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở
15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là
ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi
ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt
đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một
hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm ba phần:
1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):
a) Hoàn cảnh (c. 13),
b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);
2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):
a)
Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ (cc. 15-18),
b)
Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);
3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).
3.- Vài điểm chú giải
- nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi
“sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê
đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để
về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).
- chạnh lòng thương (14): dịch sát là
“đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng
thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi
cứu chữa.
- chiều đến (15): Ghi nhận là bài
tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời
gian này (26,20).
- năm cái bánh và hai con cá
(17): Bánh và cá muối hoặc ngâm dấm là những món thuộc về bữa ăn thông thường
của dân chúng.
- ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này
cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt Qua. Anaklithênai,
“ngả mình”, là động từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do
Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích
Thánh Thể cũng dùng một động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” =
ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).
- cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho
(19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể
(so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn; “bánh”: artous/arton;
“dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao
cho các môn đệ”:
edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais). Việc bẻ bánh luôn luôn là một nghi
thức được thực hiện trong bữa tiệc.
- … trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho
dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng
một động từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức
Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ
“mang; phân phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong
Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công
việc của chính Đức Giêsu.
- những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa
tiệc Do Thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những mẩu bánh
thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và
môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).
- năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây
là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh Đức Giêsu với
ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V
4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ
1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ
1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng
cao trọng hơn Êlisa nhiều.
- giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các đồ vật
cũng là một đồ dùng để đo thể tích (khoảng 10 lít).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể khiến
chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa
nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như
các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế, hẳn là có thật một
hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khát.
- Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)
Hoàn cảnh lúc đó là một lần nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về
một nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên,
đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên
Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người
hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí
còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng
của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên
tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa
(esplanchnisthê), hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc thêm:
vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31): “vì họ lầm than vất
vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là Người lại hòa mình vào giữa
đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh:
các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa
bệnh “cụ thể”,
khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây
cũng là một phép lạ “cụ thể”.
- Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)
Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình
hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy
nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ không nhất
thiết là những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn
yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính
Đức Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một bề trên, Chúa tể tối cao ra
lệnh cho các môn đệ làm một việc dường như không thẻ làm nổi, nhưng người thì
biết chính xác Người sẽ làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để
làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra ngại
ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c. 17), Người không trả lời họ;
Người bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).
Với một lệnh một lần nữa gợi ra uy quyền tối thượng của Đức
Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành
các nhóm một trăm và năm mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu cầm lấy bánh và cá, ngước
mắt lên trời (không phải là cử chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu
nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm
phép bánh và cá), rồi bẻ ra, tao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân
chúng. Với những công thức này, một độc giả Kitô hữu gốc Do Thái nhớ tới những
bữa ăn trong gia đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ hiểu rằng bài tường
thuật trước tiên kể lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ đến bữa tiệc Thánh
Thể. Quả thật tác giả nhắc lại những công thức của bài tường thuật về bí tích
Thánh Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu trước bài tường thuật về việc thiết
lập bí tích Thánh Thể.
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải
thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát
mọi ân huệ, Người ban lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người.
Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay
Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các
ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời
chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga
5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ
nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là
nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một trăm người
được ăn no (1 thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được
no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là một
ngôn sứ và một Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.
- Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)
Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có
điểm tựa nào khác trong bài để độc giả có thể nói rằng chi tiết này quy về mười
hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như vậy đám
đông đã được ăn no.
Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy
ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm
nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu
xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng
trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn
dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô
với Môsê, Họi Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực,
vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang
tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình Đức Giêsu.
Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng
đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs
8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1;
Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như
thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách
và gai góc, đã trở thành một khu vườn.
+ Kết luận
Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một
lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia.
Biến cố được kể trong bản văn này là một hình ảnh về Hội Thánh.
Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ,
Người chữa lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay
bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh
tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ
sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng.
Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý
muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một trung
gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là
nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu
chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức
Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết
quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trá tim đầy tình yêu
thương.
2. Phép lạ đặc biệt nhắm đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu đức
tin, nhưng họ đã trải nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ còn trải
nghiệm về điều này lần nữa (15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ hiểu
(16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống chia sẻ với Đức
Chúa Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội
Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ hồ hôm ấy.
3. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26),
nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi
dưỡng bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác.
Người Kitô hữu không được ăn uống một mình, vì luôn ở giữa một đoàn anh chị em
đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống
trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu
rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm
theo sự hướng dẫn của Người.
4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến
nào, trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về
cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân
phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá,
chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức
Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực
thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.
5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang
tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó,
họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi (loan
báo Tin Mừng)”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân
loại và kiến tạo một thế giới mới.
26. Chú
giải theo Noel Quesson
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi
đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối
cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua
Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12)
Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu "chạy trốn" vào một nơi
hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu "chạy
trốn", rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng
cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra
Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã
không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
"Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt..."
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu -
chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời
sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng
họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ
không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi
thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo...
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng
biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô
tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy
niệm về đề tài những sự “bó buộc"? Thực hành đức vâng lời, trong những
điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò
của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không
tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng
ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên
chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu,
một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta
muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: "chạnh lòng thương"; "xúc
động trong lòng": phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng
"nhân hậu” không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương
xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ
mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con
của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu "chạnh lòng thương". Hãy tưởng tượng ánh
mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày
nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi
người đang đau khổ.
Chiều đến...
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly
(Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có
thói quen cử hành Thánh Thể như một "bữa ăn chiều”, một bữa tiệc ly. Ở
bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một "bí tích
của sa mạc" trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh
Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng
mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen…
…Các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và
đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy
thức ăn!"
Đây là một giải pháp hoàn toàn "nhân bản" và
"khôn ngoan". Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong
suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát
các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa
hơn. Đàng sau "bữa ăn trong sa mạc", có một mầu nhiệm nuôi đám đông
bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người
không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên
không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một "sức
mạnh" siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và
không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc
có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em
hãy cho họ ăn".
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ
đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh
và hai con cá!"
Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ
không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống
y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy!"
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình
sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương
và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi… Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của
con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm
của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi
bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người
cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và
bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại
bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào
trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin
Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39;
Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của
Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không
còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện
trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người
cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái
nào mà không có "sự chúc lành" bánh … mà không có hành động tạ ơn
Thiên Chúa (chữ "hành động tạ ơn" dịch ra tiếng Hy Lạp là
“eucharistia").
Sau đây là lời "chúc lành" mà các người Do Thái sùng
đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: "Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con
lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng
Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật". Lương thực mà chúng
ta ăn là một "hoa quả của đất đai và của lao công con người ". Nhưng
trước hết nó là "một ơn của Thiên Chúa".
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu
Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã
quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu
bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của
mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng "lao động con người" không đủ
để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở
thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy
vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất "lời chúc tụng"
cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người
chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin
"lương thực hàng ngày".
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông
đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người
phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là
những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở
Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: "Các linh mục đã
nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu
phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng
liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc "bẻ bánh" được họ
thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng
đoàn".
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta
thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà
và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng
Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta
biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được
cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không
phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là ‘dấu chỉ’ Đức Giêsu đã làm. Vả
lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương
của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh
Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu
Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!