Sở dĩ chúng ta biết
chịu đựng, biết kiên nhẫn, biết rộng tha thứ v.v. cũng là do chúng ta sống với
những người hay làm phiền ta, luôn luôn muốn gây gỗ với ta…
Trước hết dụ ngôn lúa
phải mọc chung với cỏ lùng là do sự Chúa an bài, chúng ta sẽ lập được nhiều
công phúc do phải sống với những con người không hoàn thiện (Mà chính chúng ta
là những con người không hoàn thiện). Sở dĩ chúng ta biết chịu đựng, biết kiên nhẫn,
biết rộng tha thứ v.v. cũng là do chúng ta sống với những người hay làm phiền
ta, luôn luôn muốn gây gỗ với ta… Mặt khác, trong bất cứ cuộc bách hại nào, ở
bất cứ nơi đâu cũng như trong bất cứ thời đại nào, cũng có những người yếu lòng
tin: bỏ Chúa, bỏ đạo, nhưng đồng thời cũng có biết bao con người sẵn sàng hy
sinh vì Chúa để chứng minh sự hiện hữu của Chúa, để chứng minh những chân lý
của đạo.
Còn dụ ngôn về hạt cải
và men trong bột nói lên sự phát triển của nước Chúa. Khởi thủy nước Chúa chỉ
là do mấy vị tông đồ nghèo nàn, ngu dốt, nhút nhát, nhưng rồi chính các vị này,
với ơn Chúa, đã làm nước Chúa phát triển khắp hoàn cầu về mọi phương diện.
Thánh Philippê Phan
Văn Minh (tử đạo ngày 3.7.1853, 38 tuổi) khi chưa thụ phong linh mục, đã cùng
đức cha Taberd, soạn hai cuốn từ điển La Việt và Việt La. Phan Văn Minh cũng
soạn nhiều tập thơ:
Dưới chủ đề “Nước Trời
ca”, ngài đã sáng tác 29 bài thơ. Dụ ngôn hạt cải, được ngài ghi thành mấy vần
thơ như sau:
Nước trời ví với vật chi ?
Ví như hột cải tí ti đen tròn
Gieo vào đất, một thời gian,
Mọc lên đâm dược, nảy nhành xum xuê,
Chim trời bốn hướng bay về,
Nắng thì núp bóng
mưa thì che thân.
Ngài cũng là tác giả
tập thơ “Gia Tô Cơ Đốc” gồm 44 bài. Sau đây là một bài trong 44 bài đó:
Gia Tô Cơ Đốc Đấng con trời
Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi
Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp
Không dùng vương bá để xây trời
Vâng lời Thiên Mệnh đành thân diệt,
Gánh tội nhân gian chịu máu rơi.
Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ
Kiếp sau hiện hữu
sống muôn đời.
Phan Văn Minh sinh năm
1815, trong một gia đình đạo đức, thuộc làng Cái Mơn, huyện Mỏ Cầy, (Vĩnh
Long). Cha mẹ cậu mất sớm, mọi việc trong gia đình đều do một người chị đảm
đang. Người chị này đã hết lòng lo cho các em, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Câu Minh được học hỏi giáo lý chu đáo để rước lễ lần đầu, rồi lãnh nhận Bí Tích
thêm sức năm 13 tuổi. Sau đó cậu được Đức Cha Taberd nhận cho đi học chủng viện
Lái Thiêu, nhưng chỉ ít lâu, do sắc lệnh cấm đạo 1833 của vua Minh Mạng, chủng
viện phải giải tán.
Thầy Minh bấy giờ 18
tuổi, theo Đức Cha Taberd lánh nạn sang Thái Lan, rồi được đến học tại chủng
viện Pénang. Giữa năm 1835, Đức Cha Taberd đi Calcutta (Ấn Độ), Thầy Minh có
vinh dự được Đức Cha gọi sang để cộng tác với Ngài soạn hai cuốn từ điển La
Việt và Việt La. Với vốn trí thức và tinh thông nhiều ngôn ngữ, nhất và Việt,
Hán, La, danh xưng Phan Văn Minh đã được gắn liền với Taberd trong việc biên
soạn hoàn chỉnh và ấn thành hai cuốn từ điển năm 1838. Khi Đức Cha Taberd qua
đời ngày 30.7.1840, Thầy Minh trở lại Pénang tiếp tục học thần học, chuẩn bị
thụ phong linh mục. Các giáo sư và bạn học đều quý mến người chủng sinh xuất
sắc, học giỏi và đạo đức này.
Hết thời gian học ở
Pénang, khoảng đầu năm 1844, Thầy Minh về nước và được Đức Cha Cuenot Thể phong
chức phó tế, rồi trở về phục vụ địa phận Tây vừa được thành lập.
Khi ấy vua Minh Mạng băng
hà, Giáo Hội được hưởng một thời kỳ dễ thở hơn dưới triều Thiệu Trị
(1841-1847). Thầy Minh có thể đi thăm viếng, dậy kinh bổn cho các tín hữu vùng
Tiền Giang, Hậu Giang. Cuối năm 1846 Thầy được Đức Cha Thể phong Linh Mục. Khi
Vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, việc cấm đạo vẫn còn lắng dịu ít lâu, nhưng rồi
mấy năm sau lại trở nên ác nghiệt.
Trong hơn 6 năm
(1846-1852), bất kể nguy hiểm của thời gian cấm đạo, Cha minh chuyên cầu đi
thăm viếng hết các họ đạo trong vùng: Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Bưng, Ba Giồng,
Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, Cái Đôi, Rạch Ụ, Mặt Bắc… Đồng thời Cha
Minh chăm lo thánh hóa bản thân, chuyên cần cầu nguyện như khi còn ở trong
chủng viện. Cha còn quan tâm đến việc đào tạo những tông đồ tương lai, lựa trẻ
em có đức hạnh và sáng trí, nuôi làm đệ tử, dậy dỗ và gửi đi chủng viện.
Sau chiếu chỉ tháng 8
-1848, và nhất là chiếu chỉ tháng 3 -1851, truyền phải chém đầu thả trôi song,
Tây dương đạo trưởng Gia Tô, và xử tử các Giáo sĩ bản quốc cố chấp, phát lưu
những người theo Gia Tô tà đạo. Trong tình hình hết sức khó khăn, Cha Minh vẫn
bình tĩnh chu toàn phận sự của một mục tử.
Cha vẫn đi lại khuyến
khích tín hữu, mở lớp giáo lý và trao ban các bí tích.
Khi ấy ở làng Mặt Bắc
(Vĩnh Long) một người tên Nhẫn, vì có lần xin tiền Cha Lựu không được, nên để
tâm thù oán và đi tố giác với quan.
Ngày 26-2-1853 quan
sai lính đến vây nhà Ông trùm Lựu, nhưng Cha Lựu đã được bài sai đi nơi khác,
Cha Minh mới đến nhận giáo xứ. Để cứu Cha Minh, Ông trùm Lựu đứng ra nói: “Bẩm quan, không có đạo trưởng nào tên Lựu ở
đây. Chính tôi tên là Lựu.”
Quan không tin và bảo
lính tiếp tục lục soát. Khi đó Cha Minh sợ quan quân, vì mình, mà hại gia đình
ông trùm Lựu, nên ra mặt, nhận mình là linh mục. Thế là cùng với bảy quý chức
trong vùng, Cha bị bắt trói, đeo gông và đẩy xuống thuyền đưa về giam tại thị
trấn.
Tại thị trấn Vĩnh
Long, quan tổng trấn hạch hỏi Cha về các linh mục khác, những nơi đã trú ẩn,
song quan đã không khai thác được gì. Những ngày sau, quan làm mọi cách, khi dụ
dỗ, khi dọa nạt, khi sai lính kéo qua thập giá để bắt Cha chối đạo. Nhưng Cha
Minh vẫn trung thành với Đức Kitô và Giáo Hội. Thấy Cha còn trẻ, mới 38 tuổi, lại
là con người hiền lành, học thức, các quan muốn tìm cách cứu Cha, họ không bắt
Cha bước qua thập giá nữa, chỉ cần Cha nói miệng là: “đã bỏ đạo” thì cũng được tha. Nhưng Cha Minh vẫn một mực từ chối.
Không làm gì hơn được nữa, các quan cho lính đưa Cha về giam tại Tuyến Phong
chờ ngày lãnh án.
Khi án tử từ Kinh Đô
gửi về. Cha Minh quỳ gối tạ ơn Chúa, rồi an ủi các anh em bạn tù nên vui lòng
tuân theo ý Chúa, hẹn tái ngộ trên nước trời, Cha nói:
“Xin anh em vững lòng tin và hết dạ cậy trông Chúa, người chẳng
từ bỏ ai, và sẽ thưởng công trọng hậu cho những ai tôn thờ Người.”
Cha cũng căn dặn một
tín hữu ở ngoài, tiền bạc của Cha, nếu còn, thì đừng phí tốn ma chay lớn, cứ
đem phân phát hết cho người nghèo.
Ngày 3-7-1853 cha bị
điệu đi xử. Cha mặc áo dài, dáng vẻ điềm tĩnh, hiên ngang, tiến ra pháp trường,
vừa đi vừa lần chuỗi Mân Côi. Qua bờ sông Long Hồ tới Cái Sơn Bé, Quân lính dọn
bữa ăn sau cùng cho Cha, Nhưng Cha không ăn gì. Cha cầu nguyện: “Lậy Chúa, xin thương xót con. Lậy Chúa
Giêsu, xin cho con sức mạnh, can đảm chịu khó, để tôn vinh danh Chúa. Lậy Mẹ
Maria, xin nâng đỡ con.”
Lưỡi gươm lý hình đã
kết liễu cuộc đời cha. Thi thể được an táng dưới nền một ngôi nhà thờ mới bị
đốt phá tại quê hương cái Mơn.
Năm 1900 hài cốt đấng
tử đạo được di chuyển về đại chủng viện Sàigòn. Năm 1960 Di cốt được đưa vào
vương cung thánh đường Sàigòn trong dịp lễ cung hiến.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề
tựa của Lm. HK