Tìm hiểu Lời Chúa _ lễ hai thánh Philipphe và Giacobe

NGÀY 3 THÁNG 5
THÁNH PHILIPPHÊ VÀ GIACÔBÊ
1Cr 15, 1-8; Ga 14, 6-14
BÀI ĐỌC: 1Cr 15, 1-8
1 Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. 2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích.
3 Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh,4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. 5 Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. 6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
ĐÁP CA:Tv 18A
Đ. Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu. (x. c 5a)
2 Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,không trung loan báo việc tay Người làm. 3 Ngày qua mách bảo cho ngày tới,đêm này kể lại với đêm kia.
4 Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, 5a mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 14,6b. 9c
Hall-Hall: Chúa nói: “Chính Thầy là đường, và là sự thật, sự sống. Này anh Phi-lip-phê, ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” Hall.
TIN MỪNG: Ga 14,6-14
6 Khi đến giờ lìa bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Chính Thầy là đường, và là sự thật, sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
8 Ông Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”9 Đức Giê-su trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.

SỰ THẬT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG
Chỉ có Đức Giêsu mới có quyền nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga 14,6: Tung Hô Tin Mừng).
Ta lưu ý chữ “và” trong tiếng Hy Lạp, khác với “và” trong tiếng Việt: để báo trước chấm dứt một câu văn trong tiếng Việt người ta thường dùng liên từ “và”; còn ngôn ngữ Hy Lạp, “và” báo trước một điều quan trọng. Đan cử:
-              Đức Giêsu truyền cho các môn đệ ban Bí tích Thánh Tẩy nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong khi người tân tòng được dìm xuống nước, thì phải đọc: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Như vậy, Chúa Con và Chúa Thánh Thần quan trọng như Chúa Cha.
-              Khi hai ông Phêrô và Gioan vào trong mộ Đức Giêsu, ông Gioan nói: “Tôi đã thấy tôi tin” (Ga 20,8). Điều này ông Gioan có ý trách nhiều người thấy xác Chúa Giê-su không còn trong mộ mà vẫn không tin Ngài đã sống lại; còn ông Gioan thì đã tin. Bởi vì thấy không quan trọng, mà tin mới quan trọng. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin (x. Ga 20, 29).
Như thế, đường đi không quan trọng, đường chỉ quan trọng khi nó dẫn ta đi vào sự thật, đạt được sự sống. Mà chỉ duy Đức Giêsu mới là đường quan trọng nhất dẫn ta đến sự sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Tổ tiên loài người là Adam, Eva khát vọng không phải chết, lại được thông minh sáng suốt như Thiên Chúa, tự biết phân biệt tốt xấu, và được sống hạnh phúc dồi dào muôn đời như Thiên Chúa (x. St 3,4-5). Như thế có phải là kiêu ngạo không?
Thưa không, vì đến như cha mẹ trần thế tuy thuộc loại gian ác (x. Mt 7,11) mà còn nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, thì “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, bởi lòng yêu mến lớn lao của Ngài đã yêu mến ta” (Ep 2,4), nên Đức Giêsu còn hứa cho chúng ta: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy về cùng Cha” (Ga 14,12: Tin Mừng).
Ta làm được những việc như Đức Giêsu và còn hơn Ngài, chỉ vì Ngài về cùng Cha, hằng chuyển cầu cho chúng ta qua Hy Lễ Ngài thiết lập đã truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa cho tới ngày cánh chung (x. 1Cr 11,24-25). Tác giả thư Do Thái nói: “Chúa Giêsu là Vị Tư Tế tiến vào cung thánh trên trời, tựa neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,19). Để mỗi khi ta đến dự Hy Lễ này, ta được trực tiếp nghe Đức Giêsu dạy (x. Dt 1,1-2). Lời Ngài đã nghe từ Chúa Cha và nói lại cho ta biết (x. Ga 14,10: Tin Mừng). Ta lại được nhìn các việc Đức Giêsu làm mà noi theo, như chính Ngài đã không tự ý làm việc gì, mà Cha Ngài làm sao thì Ngài làm y như vậy (x. Ga 5,19; 14,11: Tin Mừng). Để “ngay từ bây giờ ta được biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha” (Ga 14,7: Tin Mừng).
Trong Kinh Thánh, “biết” là động tác chỉ riêng về việc vợ chồng trao thân cho nhau để sinh con cái. Như Adam biết Eva sinh Cain (x. St 4,1), cũng thế, Đức Ma-ri-a thưa với thiên thần Gabriel: “Tôi không biết việc vợ chồng làm sao tôi sinh con?” (Lc 1,34).
Vậy mỗi khi ta dự Lễ cách trọn vẹn, ta được rước Lễ là lúc Chúa Giêsu “trao thân” cho ta, và ta “trao thân” cho Ngài, đó chính là Giêsu biết ta và ta biết Giêsu. Để sau khi dự Lễ về, ta phải “sinh” con cho Thiên Chúa, đó là ta tiếp nối việc làm của Chúa Giêsu và còn làm được hơn Ngài. Thực vậy, suốt đời Đức Giêsu vất vả rao giảng Lời của Cha và phục vụ hết lòng, nhằm cho người ta tin Ngài là Thiên Chúa, để được Ngài dẫn về Thiên Đàng, mà mãi đến giờ hấp hối trên thập giá, Ngài mới đưa được một anh trộm lành vào Thiên Đàng với Ngài (x. Lc 23,43). Trong khi đó, mỗi lần ta dự Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, biết bao linh hồn được về Thiên Đàng trước ta, hoặc khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người trong tình trạng nguy tử mà họ muốn theo Chúa, sau đó tắt thở, là họ được về Thiên Đàng ngay, trong khi ta vẫn còn là kẻ tội lỗi sống trên dương thế. Ông Phao-lô kể mình được Chúa Giêsu hiện đến với ông là người sau cùng, vì trước đó ông đã bách hại Hội Thánh (x. Cv 9). Nhưng Chúa đã thương tái sinh ông dù chỉ là đứa sinh non, sinh thiếu tháng, rất yếu ớt. Thế mà nhờ ông được “biết” Chúa Giêsu, ông đã sinh nhiều tín hữu dân ngoại, lập được nhiều giáo đoàn hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x. 2Cr 11,5). Kết quả ông đã đưa nhiều người vào Nước Trời trước ông. Rõ ràng ông làm các việc của Chúa Giêsu nhưng hiệu quả hơn Thầy Giêsu, khi Ngài còn sống trên dương thế. Như lời thánh Phaolô nói: “Nhờ Tin Mừng anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như chúng tôi đã loan báo. Tin Mừng chúng tôi loan báo làĐức Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại,rồi hiện ra với thủ lãnh Hội Thánh là ông Phêrô, tiếp đó với Nhóm Mười Hai, sau nữa là Ngài hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, rồi Ngài lại hiện ra với ông Giacôbê, với tất cả các Tông Đồ khác. Sau chót, Ngài đã hiện ra với tôi, chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,1-8: Bài đọc). Hai Tông Đồ Philipphê và Giacôbê mà Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.
Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x. Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x. Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x. Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x. Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x. Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x. Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x. Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x. 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
Vì thế mà lời kinh ca tụng những người thành công như các Tông Đồ: “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu”. Nếu ta không biết sinh con Thiên Chúa để làm vinh hiển Ngài, thì ta thua các tạo vật, chúng còn biết tường thuật vinh quang Thiên Chúa, nhờ vẻ đẹp Chúa ban cho để diễn tả quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, dù chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe tiếng âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19/18, 2-5: Đáp ca).
Vì vẻ đẹp, hùng vĩ, kỳ diệu nơi muôn tạo vật mang dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, nên con người không được thua kém các tạo vật ca tụng Thiên Chúa, mà ai cũng phải sống Lời Chúa để nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đối với Đức Kitô” (1Cr 11,1). Vì tôi có quyền nói được như Đức Giêsu: “Thiên Chúa luôn ở cùng tôi, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10b: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH