Các Ki-tô hữu sống giữa thế gian
Miền đất lạ
nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ...
Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng lại dư dật mọi sự... Bị nguyền rủa, họ chúc lành;
bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng.
Các Ki-tô hữu không khác người ta
về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố
riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một nếp sống khác biệt.
Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những
con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do
loài người chủ xướng như một số người kia.
Họ ở trong các thành phố văn minh
cũng như bán khai, tuỳ theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân
địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ
lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như những
khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ
như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương
nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con đẻ cái như mọi
người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng
chung vợ chạ.
Họ sống trong xác thịt, nhưng
không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian nhưng họ là công dân Nước Trời. Họ
tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt trên những đòi hỏi của luật
pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được
nhìn nhận, lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người
hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng
lại dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục, họ lại được vinh
quang. Danh thơm của họ bị chà đạp, nhưng bằng chứng về đời sống công chính của
họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ
lòng kính trọng. Khi làm điều thiện, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất
lương. Khi bị trừng phạt, họ vui mừng như được sống. Người Do-thái giao chiến với
họ như với ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, và những kẻ ghét họ
không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ.
Tôi xin nói đơn giản như sau: hồn
ở trong xác thế nào, thì các Ki-tô hữu sống giữa thế gian cũng thế. Linh hồn ở
khắp các chi thể thế nào thì các Ki-tô hữu cũng ở mọi thành thị trên thế giới
như vậy. Linh hồn ở trong thân xác nhưng không do thân xác, thì các tín hữu
cũng ở trong thế gian nhưng không bởi thế gian. Linh hồn vô hình được gìn giữ
trong thân xác hữu hình, thì người ta nhìn thấy các Ki-tô hữu sống trong thế
gian, nhưng không thấy lòng đạo đức của họ. Xác thịt thù ghét và gây chiến với
linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì cho xác thịt, mà chỉ ngăn không cho nó
hưởng lạc thú; thế gian cũng ghét các Ki-tô hữu như vậy, dù họ không gây thiệt
hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú.
Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân
xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Ki-tô hữu cũng yêu những kẻ ghét
mình. Linh hồn bị giam giữ trong thân xác, nhưng thực ra chính linh hồn lại chứa
đựng thân xác; các Ki-tô hữu cũng bị giam giữ trong thế gian như trong tù,
nhưng chính họ lại chứa đựng thế gian. Linh hồn bất tử ở trong nhà tạm phải chết;
các Ki-tô hữu sống giữa những thực tại hay hư nát như khách lữ hành, đang khi đợi
chờ sự bất hoại trên thiên quốc. Nhờ ăn uống kham khổ, linh hồn nên tốt hơn; nhờ
chịu cực hình, các Ki-tô hữu ngày thêm đông số. Thiên Chúa đã đặt họ vào tình
trạng như thế, thì họ không nên trốn tránh.