CHÚA
NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm A
MỤC LỤC
23. Sống trong
thực tế của thế giới Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
24.
Theo Đức
Kitô là đường Lm Giuse Đinh lập Liễm
25.
Đức Kitô
phục sinh là đường dẫn ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
26.
Con đường
bình an PM. Cao Huy Hoàng
27.
Điều không
thể được đã ... Achille Degeest
31.
Cuộc đời là
một chuyến đi Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
32.
Con đường
Sưu tầm
33. Chúa sống
lại là đường...Dẫn lễ
1. Con Đường
Giêsu
Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con
đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang
khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là
sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc
Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những
vụ tai tiếng.
Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết
có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết
thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự
sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước
Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.
Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho
Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một
con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.
Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống
động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải
là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của
Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời
cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà
xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi
vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.
Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là
nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác
trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu
chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra
một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ
tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt.
Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng
sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở
muôn đời.
Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn
tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa
Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự
ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên
Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì
phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước
Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.
2. Xao xuyến
Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi
hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó
góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi
ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta
thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị
sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên
Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự
tốt đẹp nhất.
Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay
với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một
cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong
chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?
Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản
bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu.
Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì
các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một
thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao
xuyến.
Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính
Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến
khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã
xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ
đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ
này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về
việc phản bội của một người môn đệ.
Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã
tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của
người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy
cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất
hiểu và cảm thông với chúng ta.
Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không
phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu
toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng,
nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận
thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.
Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy
chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao
xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho
chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng
chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn
hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.
3. Đường
Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời,
thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không
có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi
về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức
Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời
Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con
đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến
chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm
điểm của đích tới.
Chúa Giêsu là người mở đường.
Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải
có người mở đường.
Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo
hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.
Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ
thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén
nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.
Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn
toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ
Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta
trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là
Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân
thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.
Chúa Giêsu là đường.
Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để
về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ
đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành
nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan
hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên
Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta
ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh
của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha
Thầy”.
Chúa Giêsu là đích tới của con đường.
Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa
chắc đã tới.
Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân
mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn
vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.
Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng
là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà
Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.
Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con
biết đi trong con đường của Người.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd:
hiền lành, khiêm nhường…)
2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?
3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu
muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?
4. Xin cho chúng con thấy
Chúa Cha
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: "Xin cho chúng con thấy
Chúa Cha" (Ga 14,8).
Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những
người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên
khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh...
Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm
nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho
Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.
Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ
thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện
diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn
bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha"
(14,7) "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (14,9) vì "Thầy ở trong Cha và
Cha ở trong Thầy"(14,10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm
của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như
tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái
và bao dung với hết mọi người.
Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một
Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: "Ai biết tôi là
biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô."
Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.
"Xin cho chúng con thấy Chúa Cha"
Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.
Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự
nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: "Không
ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (14,6). Mọi con đường cứu độ đều
phải đi vào Con Đường Giêsu.
"Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,
để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12).
Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không
biết Ngài - tuy không do lỗi của họ - nhưng đã sống theo những đòi hỏi của
lương tâm.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi
đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho
chúng ta đi.
Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ
gì, nói gì, làm gì.
Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho
con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng
dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt
khiến bạn chọn theo?
2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của
Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân
lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng
là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng
muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận
cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen
biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo
việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái.
Amen.
5. Niềm
tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các
con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đây là một lời hứa thật
đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp
hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta
từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là
hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn
trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo.
Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi
thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ
đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm
tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha
mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống
được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: "Bố ơi, trong ít
ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con
biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên
đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho
con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành
sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.
Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói:
"Con hãy tin theo mẹ". Đứa bé lại nói tiếp: "Nhưng nếu bố không
tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?"
Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những
giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già
nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng
đích của đời mình.
Vâng câu nói: "Con hãy tin theo Mẹ" của người cha là
câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy
thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ
trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau.
Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần
linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông
đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có
thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha
nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật
của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.
Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin
có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng
nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như
tình trạng ban đầu là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sống đúng theo lề
luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người
khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc
sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam
tài: "Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa".
Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm
ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng
về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên
Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa
Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh
Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy
sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.
Là người kytô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường
Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở
cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con
đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường
thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình
yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con
đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn
chỗ cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta
trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ
đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát
với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.
6. Đường
Giêsu, Đường con đi
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện
ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng
ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng
sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh
là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con
đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình
thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng
lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên
trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa
Giêsu.
1. Đường hy vọng tin yêu.
Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó
phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra
trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng
con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa
chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi
“Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.
Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn
được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về
Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con
đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài
miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị
đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào
canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên
cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại
chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!
“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang
mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai
ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các
Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải
bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi
đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.
Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những
con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của
Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là
lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.
2. Đường mang tên Giêsu.
“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng
lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra
trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.
Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống
động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động
đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải
là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống
lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận
ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một
câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì
Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ
cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x.
Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).
Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát
sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi
sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban
sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự
Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại
để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi
thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng
trị muôn đời.
Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách
lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là
Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất
yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình
vào Đường Sự Thật và Sự Sống.
3. Đường con đi.
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con
đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các
Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự
Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với
những hành trang đi về hạnh phúc.
Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của
những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất
cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi
thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô
khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của
đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy
chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của
Chúa…” (bài đọc thứ hai).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy
đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp,
nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và
ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ
của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được
tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không
ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm
kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con
để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ.
Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai
tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn
ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng
vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi
chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có
thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan
Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu
hôm nay.
Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng
cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc
tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường
con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu
từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng
giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.
7. Chúa Nhật
5 Phục Sinh
NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY
1. Tìm hiểu: 3 điều:
a/ Thiên đàng có nhiều chỗ
b/ Thầy là Đường đi...
c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
- Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng
có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc
người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện
"Bé không đi học, lớn lên làm đại úy".
- Câu 14,6 Thầy là đường đi...
Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê
trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được
với Chúa Cha, đến được Nước Trời.
- Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống
như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha
cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.
2. Suy niệm:
Truyện: Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một
ông chủ tốt làm sư phụ.
- Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng
về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy
người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự
nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi
theo ông quỉ.
- Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này
cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng
thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ,
hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng
thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.
- Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy
chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người
qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo,
ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay
lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo
trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than:
" Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: "Anh vác nổi
sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng
thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm
kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự
trần gian đi theo Chúa Kitô.
Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:
a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.
b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.
c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3
thứ trên.
1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành
phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:
"Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai
anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì
rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.
Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.
Nhưng nếu có người nói: "Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh
đến đó", người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.
Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những
lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta
đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người
là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ
tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.
2/ Sự thật: Không ai thích người
nói dối, không ai thích hàng giả.
Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng
thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.
Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều
người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.
Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: "Ta là sự thật". Ngài
không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu
nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.
3/ Sự Sống: Thông thường, người
ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài
sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.
Thế nên Chúa nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống
đời đời nào có ích gì?" (Mt 16,26)
3. Chúa muốn tôi làm gì?
- Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ
trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ".
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: " Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho
như vậy".
- Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu "bỏ mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,
Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,
Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô
trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo
hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.
8. Đường
Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn
đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm:
một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong
cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã
sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã
phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là
những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là
dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã
gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12),
Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và
các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.
Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được
tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các
môn đệ:
- “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”
(Ga. 14,1-2)
Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”
Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến
được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh
em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em
đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường
rồi” (Ga 14, 2-4)
Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)
Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không
ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…
Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM
một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA,
chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là
sự thật và là sự sống.
Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới?
Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải
bệnh hoạn, đau khổ…?
Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học…
chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người
được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển
vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con
yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách
cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…
Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn
hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà
Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.
Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người
Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như
thế là đủ cho chúng con.”
Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở
trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung
của chúng ta là một.
Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào
cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác,
là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự
sống của Anh Cả Giêsu.
Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?
Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ
ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên
tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.
CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống
trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi
với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên
đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác
thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút…
Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp
phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.
Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin
Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho
nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng,
lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON
ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được
với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường
dẫn đến sự sống.
Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp
với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến
cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà
Cha.
Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong
mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con
đường Giêsu.
Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về
Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức
tin.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta
gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ,
thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy
lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.
Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể
làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.
Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở
với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức
tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với
Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và
là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của
Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần
linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao
việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa
cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem
những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi
dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc
và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa
Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà
cha trên trời.
Câu hỏi:
1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.”
Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy
đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống
động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?
9. Trở
nên hình ảnh Chúa Giêsu – Lm. Trần Ngà.
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò
mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy,
xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm
cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay
vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho
Philípphê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên
Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: "Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha".
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và
Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói
chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu:
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha,
Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những
gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa
Cha...
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu,
nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
* * *
Thánh A-tha-na-si-ô đã diễn tả chân lý nầy như sau: "Chúa
Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội." Nói
khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh
trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng
phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
* * *
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm
1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người
gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ.
Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang
lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy
mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng
vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm
trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích
lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt
vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi... Vì thế, các tù nhân trong
trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân
thương là... Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu
đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ,
khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng
chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với
đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích
(Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều
phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò
thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên
mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu
với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói "Này, con yêu của Bố, đã từ
lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu."
Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng con chưa biết gì về Chúa
Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?"
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ
chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát,
rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và
yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân
thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con
sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục
nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với
gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành
hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời
sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên
được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến
dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời
để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức
và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế
giới hôm nay.
10. Con đường
mang tên Giêsu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ
Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên đường trên địa bàn toàn thành
phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố có khoảng 100 con đường
trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này sẽ đặt tên mới cho các
con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước kia có tên đường, nhưng
đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây đã phục hồi tên đường
cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Tới đây, dự kiến sẽ có con đường mang tên Đức Tổng Giám Mục
Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn Bình sẽ thay thế đường Nguyễn
Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà Thờ Chính Toà và Công Xã
Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Đức
Bà.
Có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng, không
thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội chúng ta ai cũng
biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là
Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”. Trả lời cho ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu
để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ,
và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.
Ngài là Đường Sự Thật, bởi Ngài là Chân Lý, một chân lý sống
động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động
đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải
là một hệ thống giáo điều, nhưng là toàn thể cuộc sống, lời nói và việc làm của
Chúa Giêsu trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra con đường Sự
Thật này. Tổng trấn Philatô, giữa phiên toà dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa
Giêsu, đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự thật là gì?”. Chúa Giêsu không trả lời. Vì
hỏi là đã trả lời rồi: Sự thật hiện thân chính là Ngài đang đứng đó. “Ta là Sự
Thật”.
Ngài là Đường Sự Sống, bởi vì Ngài là Sự Sống thượng nguồn phát
sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là sự sống cội nguồn mà mọi
sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn Cứu Độ. Ngài thông ban
sự sống cho mọi sinh linh và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với sự
sống của Thiên Chúa. Ngài chịu chết để nhân loại được sống và Ngài sống lại để
mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay
tan biến, nhưng sự sống Ngài là vĩnh cửu thường tồn. Ngài hằng sống hằng trị muôn
đời.
Ngài là Đường dẫn tới Nhà Cha, bởi vì Ngài và Cha là một. Chúa
Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con. Vẫn là một từ ngàn xưa và
mãi mãi là một tới ngàn sau. Chính Ngài quả quyết: “Con đường dẫn đến Chúa Cha
chính là Thầy”. “Không ai đến được Cha mà không qua Thầy”. “Ai thấy Thầy là
thấy Cha”. Cho nên đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và
ngược lại, tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào đường Sự Thật và Sự Sống.
Thưa anh chị em,
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con
đường mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cất bước lên đường theo Ngài. Đi trên
Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết
mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng
ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những
ngõ cụt lối mòn của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi
vừa thanh thoát vừa thanh thản của đời nhân đức, chính là “hát lên khúc ca mới
trên con đường mới” (Thánh Augustinô). Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng
chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế
vương giả, là chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa” (Bài đọc 2).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy
đi dọn chỗ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp,
nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và
ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ hôm nay trên bước đường lữ thứ của
Hội Thánh giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo
dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng
hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể tóm kết của
bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con đẻ cho
Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài”.
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hoà phục vụ.
Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai
tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ Bàn Thánh, người phục vụ bàn
ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng
vẫn là nhịp bước đồng hành đặt chân mình trong dấu chân Chúa Giêsu. Và cũng có
thể hiểu được rằng: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II), là
đối tượng mà Giáo Hội yêu mến và phục vụ đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu
đã sống. Đó chính là tốc độ mới của tình yêu chan hoà phục vụ trên Con Đường
Giêsu hôm nay.
Anh chị em thân mến,
Nếu mai ngày thành phố chúng ta có một con đường mang tên Tổng
Giám Mục Nguyễn Văn Bình bên cạnh Nhà Thờ Chính Toà thì đó là điều chính đáng.
Vì Đức Tổng Giám Mục luôn đặt từng bước chân của Ngài vào đúng vết chân của
Chúa Giêsu trên dòng lịch sử dân tộc và thế giới, với niềm xác tín rằng: bước
theo dấu chân Ngài là sẽ gặp được niềm vui xum họp đông đủ với mọi người anh em
trong Nhà Cha chúng ta trên trời.
Con Đường mang tên Giêsu hôm nay là Con Người sống động đang
hiện diện ở đây, trong Thánh lễ này. Ngài lấy Lời Ngài làm ánh sáng chiếu soi
Chân Lý và lấy Mình Máu Ngài làm lương thực dưỡng nuôi sự sống. Như thế, Thánh
lễ phải là đỉnh cao của lời tuyên xưng: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống”, đồng thời là khởi điểm cho hành trình chung bước với Chúa Giêsu trên
đường yêu thương phục vụ.
11. Đường
hy vọng
Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? Nếu có một câu hỏi
nào thường được các môn đệ đặt ra thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.
Thực vậy, thuở ban đầu, lúc mới gặp Chúa, các ông đã hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Và rồi Chúa Giêsu đã trả lời:
- Hãy đến mà xem.
Trước bữa tiệc ly, các ông muốn biết một địa chỉ, một nơi chốn
chính xác để mà chuẩn bị, nên đã hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con ăn lễ vượt qua ở đâu?
Và hôm nay trước một tương lai còn mù mờ và bấp bênh, Tôma đã
hỏi Chúa:
- Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con
biết được đường đi.
Sở dĩ các ông bận tâm về nơi chốn là vì trong quãng đời theo
Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, nay đây mai đó, không có
một địa chỉ, một nơi chốn cố định:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có
cả chốn để mà tựa đầu.
Còn cuộc hành trình cuối cùng lại là cuộc hành trình tiến về
Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết trên thập giá. Các ông đã coi đây
là con đường thất bại của Chúa Giêsu, đồng thời đã trở nên con đường tuyệt vọng
cho các ông. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh
quang, nào ngờ Ngài lại bị đóng đinh như một tên tử tội… Đúng là dã tràng xe
cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng
dưng lật ngửa trắng tay. Các ông như từ trên cao rớt xuống. Hụt hẫng, chới với,
chao đảo. Ước mơ bị sụp đổ, các ông như người bị phá sản. Thế mới hay mơ ước
thì to lớn, nhưng khung đời lại chật hẹp. Mơ ước thật nhiều mà thực tế chẳng
được bao nhiêu, nhiều lúc còn cay đắng phũ phàng.
Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn
trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai
ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân
mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như
đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong
câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về
dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.
Thế nhưng, mở đầu đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã
khuyên nhủ các ông:
- Các con đừng xao xuyến.
Đó là một lời an ủi, mở ra một con đường mới, tràn ngập hy vọng
và tin yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu nói tiếp:
- Thầy đi để dọn chỗ cho các con.
Và như thế một tương lai đã được hé mở. Tương lai ấy không còn
xa xôi, nhưng đã bén rễ ngay từ cuộc đời này. Sống hiện tại là chuẩn bị cho
tương lai. Ngày mai đang bặt đầu từ hôm nay. Hay nói cách khác, cuộc sống trong
nước trời phải được chuẩn bị, phải được định hình ngay từ bây giờ.
Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để
hướng tới một mục đích, chứ không phải sống một cách vất vưởng, như thuyền
không lái, như ngựa không cương. Và mục đích chúng ta cần phải đạt tới là chính
Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc bất tận.
Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:
- Lạy Chúa, Chúa dựng nên con là để cho Chúa, nên con luôn khắc
khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.
12. Chúc thư
của Chúa Kitô
Chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta còn nhớ rõ chuyện vui
đã đọc được từ nhỏ về những người mù đi xem voi, xem xong họ kể lại và bênh vực
lập trường riêng của mình về con voi như thế nào. Những người đứng bên cạnh sờ
vào lưng con voi thì nhất định bảo nó giống như một bức tường. Anh mù sờ vào
ngà voi thì cho con voi giống như một ngọn đao nhọn. Người sờ vào răng voi thì
bảo con voi giống như một thanh kiếm ngắn. Người sờ vào chân thì bảo con voi
giống như một cây cột nhà. Người sờ vào lỗ tai thì quả quyết con voi giống như
cái quạt mo.
Chúng ta có thể nói rằng, không ai nói đúng trọn vẹn về con voi
và ngược lại không ai có thể nói là sai hoàn toàn, mỗi anh mù đều bị giới hạn
và chỉ mô tả con voi dựa theo kinh nghiệm riêng của bản thân, không thể nào nhìn
thấy được trọn vẹn con voi như thế nào.
Khoảng cách giữa con người chúng ta và thực tại mầu nhiệm Thiên
Chúa là hết sức trổi vượt biết bao nhiêu ngàn lần khoảng cách giữa con voi và
người mù sờ nó. Nếu chúng ta muốn biết về Thiên Chúa như thế nào mà chỉ cậy dựa
vào khả năng riêng của con người phàm trần, chắc chắn những gì chúng ta hiểu
biết và nói về Thiên Chúa thì không biết bao nhiêu lần tệ hơn những lời mô tả
của những anh mù xem voi. Chúng ta khao khát hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu
biết về Ngài vì chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, nhưng tự sức mình
chúng ta không thể thỏa mãn được khát vọng sâu xa này, chúng ta cần đến sự trợ
giúp của Thiên Chúa, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta cần
chính Thiên Chúa đến chỉ đường mạc khải cho chúng ta biết về Ngài, chỉ cho
chúng ta biết con đường trở về với Ngài: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao
giờ, chỉ Con Một Ngài Đấng hằng ở cùng Thiên Chúa", chỉ Con Một Ngài mới
có thể mạc khải cho chúng ta biết chắc chắn mà thôi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được dịp nghe lại những lời
quả quyết hết sức quan trọng của Chúa Giêsu: "Thầy là đường, là sự thật và
là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy, và ai nhìn thấy Thầy
là nhìn thấy Cha Thầy, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha". Thiên
Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận cuộc sống con người, đã dùng những hình ảnh con
người, đã sử dụng những ngôn ngữ của con người có giới hạn để mạc khải cho
chúng ta biết Thiên Chúa Cha là ai và con đường nào phải đi để trở về với Ngài
mà không bị lạc lối.
Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất
cả mọi người chúng ta, Ngài đã đến để mạc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho
chúng ta, và Ngài đến để hướng dẫn chúng ta, để đưa chúng ta trở về cùng Thiên
Chúa Cha, trở về với Ngài vì Ngài hằng ở cùng Cha và Ngài cũng muốn cho mỗi
người chúng ta đến xin trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em xung quanh.
Chúng ta có hãnh diện về hồng ân Chúa ban cho và đồng thời khiêm tốn ý thức về
trách nhiệm của mình, của mỗi người chúng ta để trở thành hình ảnh của Thiên
Chúa cho anh chị em xung quanh, trở thành có thể nói được là con đường để anh
chị em đi về cùng Thiên Chúa, để trở thành lời mời gọi anh chị em trở về với
Thiên Chúa.
Xin Chúa hướng dẫn và biến đổi mỗi người chúng ta mỗi ngày một
trở nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa nhiều hơn, để giúp nhau sống đức tin
về Chúa, đức tin mà chúng ta đã tuyên xưng.
13. Hoàn toàn đúng
Có câu chuyện kể rằng hai người đàn ông sống trong một ngôi làng
nhỏ nọ, hai người ấy đã đấu khẩu với nhau cách kịch liệt nhưng vẫn không giải
quyết được vấn đề của họ; thế là họ quyết định đi hỏi ý kiến của một người có
tiếng là khôn ngoan nhất làng. Người thứ nhất đến nhà người khôn ngoan đó kể
hết câu chuyện của mình xong liền hỏi: "Thưa ông, ông nghĩ sao?" Người
khôn ngoan trả lời: " Ông đúng hoàn toàn". Rồi người thứ hai cũng đến
và kể câu chuyện xảy ra giữa họ rồi hỏi như người thứ nhất, và câu trả lời của
người khôn ngoan đó cũng là: "Ông hoàn toàn đúng". Sau khi khách đã
về thì bà vợ của người khôn ngoan đó mới trách chồng: "Sao ông có thể trả
lời như vậy được. Hai người họ kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau mà ông lại
nói cả hai hoàn toàn đúng. Điều ấy thật vô lý, cả hai người không thể cùng hoàn
toàn đúng được!" Người khôn ngoan cũng trả lời cho bà vợ: "Bà hoàn
toàn đúng!"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ:
"Các con đừng để lòng mình bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa... và tin
vào Thầy... Thầy bảo thật cùng các con, bất cứ ai tin vào Thầy thì sẽ làm được
các việc Thầy đã làm" (Jn 14:1,12).
Các bạn nghĩ sao? Các bạn có tự nói với mình là Chúa Giêsu đúng
hoàn toàn không? Hay các bạn chưa thật sự để tâm lắng nghe lời Ngài? Lời của
Chúa có phải như gió thoảng qua tai?
"Đừng để lòng trí các con bị bối rối. Hãy tin vào Thiên
Chúa... và tin vào Thầy". Điều quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời
các bạn đó là sự quyết định hoàn toàn tin tưởng và phó thác thác trong Chúa
Tình Yêu là Đấng đã dựng nên các bạn và muốn các bạn thuộc trọn về Ngài. Khi
các bạn tới đây cùng chia sẻ tham gia việc thờ phượng của cộng đoàn này là các
bạn đã tiến một bước ra khỏi chính mình. Đó chính là lý do tại sao các bạn lại
tới đây. Các bạn muốn biểu lộ niềm tin và cậy trông của mình vào Thiên Chúa Chí
Thánh; và đó cũng là một phần của tất cả sự tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi các
bạn làm một việc ra khỏi chính mình như vậy thì trước hết các bạn đã làm một
việc hết sức quan trọng là đi vào chính nội tâm mình để tìm thấy Thiên Chúa
Tình Yêu đang thật sự hiện diện trong tâm hồn các bạn chưa nhỉ? Một Thiên Chúa
Ân Sủng thật đang hiện diện trong thẳm sâu tâm hồn các bạn ngay lúc này đây--
Ngài muốn xuất hiện qua bạn, muốn gợi lại trong bạn lời nói: "Chúa Giêsu
đúng hoàn toàn!" Tôi phải tin, phải phó thác mọi sự nơi Ngài!
"Bất cứ ai tin vào Ta đều có thể làm được những việc Ta đã
làm", đó chính là những lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong bài Tin
Mừng hôm nay. Hay nói một cách khác là: "Nếu các con thật sự tin vào Thầy
thì các con sẽ tín thác nơi Thầy, sẽ phó thác mạng sống con cho Thầy, và con sẽ
làm tất cả những gì Thầy dạy con làm-- con sẽ làm những gì chính Thầy đã
làm". Là một Kitô hữu trưởng thành thì chúng ta phải hiểu rằng Thánh Ý
Chúa luôn luôn tuyệt đối đúng cho chúng ta. Ví dụ như khi Chúa Giêsu mạc khải
cho chúng ta về thánh ý Chúa Cha trong tình thương xót và tha thứ. Thánh Phêrô
hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm tới con thì con phải tha
cho họ bao nhiêu lần? Có phải bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời:
"Không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy" (Mt 18:21-22). Ý Chúa
Giêsu muốn chúng ta phải tha thứ cho người khác không giới hạn trong việc thi
hành lòng thương yêu và tha thứ. Chúa Giêsu đã giải thích cho Thánh Phêrô đó là
Vương Quốc Thiên Chúa được xây trên nền tảng thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
14. Niềm
tin
Có năm anh mù sờ vào một con voi. Anh thứ nhất sờ vào cái bụng
thì bảo con voi giống như một bức tường lớn. Anh thứ hai sờ vào chiếc ngà thì
bảo con voi giống như một thanh gươm cùn. Anh thứ ba sờ vào cái vòi thì bảo con
voi giống như một con đỉa khổng lồ. Anh thứ thứ tư sờ vào cái tai thì bảo con
voi giống như một chiếc quạt nan. Anh thứ năm sờ vào cái đuôi thì bảo con voi
giống như một sợi dây thừng.
Câu trả lời của mỗi người đều đúng theo quan điểm riêng của
mìnnh. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau, họ mới có được một cái nhìn sáng suốt
và một hình ảnh đầy đủ để hiểu biết con voi thực sự là như thế nào mà thôi.
Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Người Do Thái có một cách hiểu về
Ngài. Người theo Hồi giáo có cách hiểu thứ hai. Người theo Phật giáo có cách
hiểu thứ ba. Người theo Ấn độ giáo có cách hiểu thứ tư. Và các Kitô hữu có cách
hiểu thứ năm.
Như vậy, phải nhờ đến đối thoại chung với nhau, người ta mới có
thể đạt được một cái nhìn đầy đủ hơn về Thiên Chúa.
Thế nhưng, tại sao các Kitô hữu lại dám xác quyết rằng mình có
một cái chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào?
Câu trả lời dĩ nhiên phải được đặt nền tảng trên đức tin. Thực
vậy, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài biết Thiên Chúa bằng một cách thức tuyệt vời
mà không vị lãnh đạo tôn giáo nào dám mơ tưởng đến.
Hơn thế nữa, Ngài còn đồng hóa mình với Thiên Chúa. Điều này
không một nhà lãnh đạo tôn giáo nào dám làm.
Chẳng hạn qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài đã xác quyết với
Philipphê:
- Ai thấy Ta là thấy Cha.
Nơi khác Ngài cũng nói:
- Cha Ta và Ta là một.
Nếu quả thực đúng như vậy, thì chúng ta, những người Kitô hữu đã
có được một cái nhìn thật chính xác về Thiên Chúa hơn bất kỳ một tôn giáo nào
khác trên mặt đất này.
Thực vậy, chỉ mình Chúa Giêsu mới dám nói:
- Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta.
Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám bảo:
- Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với
Cha mà không qua Ta.
Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám xác quyết:
- Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ có ánh sáng ban sự
sống…Ai theo Ta, sẽ không bao giờ phải bước đi trong tăm tối.
Chỉ mình Chúa Giêsu mới dám công bố:
- Ai tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết, nhưng sẽ có sự sống
đời đời… Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Vậy Đức Kitô là ai?
Đây cũng là vấn đề mà chính Ngài đã đưa ra cho các môn đệ:
- Người ta bảo Thày là ai?
Các ông thưa:
- Người thì bảo là Gioan tiền hô, là Elia, là Giêrêmia hay một
tiên tri nào đó.
Và Chúa Giêsu đã đặt một câu hỏi cân não, đòi buộc các ông phải
dứt khoát lập trường và tuyên xưng đức tin của mình:
- Còn các con, các con bảo Thày là ai?
Thánh Phêrô đã thay mặt cho nhóm mười hai đã dứt khoát lập
trường và tuyên xưng đức tin của mình:
- Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Và Chúa Giêsu liền tỏ cho Phêrô được hay:
- Phúc cho con, không phải do xác thịt hay máu huyết, nhưng do
Cha Thày, Đấng ngự ở trên trời đã tỏ cho con biết.
Lời xác quyết này có nghĩa là chân lý này đến với thánh Phêrô
không phải từ bất cứ ai, mà từ chính Chúa Cha, Đấng đã trực tiếp mạc khải cho
thánh Phêrô.
Là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa, ngay từ hồi còn tấm
bé, chúng ta đã xác tín Ngài là Con Thiên Chúa và chúng ta cũng đã tin vào
Ngài.
Thế nhưng, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta phải biến niềm
tin thành việc làm, biến xác tín thành cuộc sống, bằng cách tuân giữ những điều
Ngài truyền dạy, nhờ đó chúng ta thực sự tuyên xưng Ngài trong thẳm sâu cõi
lòng cũng như làm chứng về Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta đang sống.
15. Đường
tình yêu
Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là
môn đệ mà ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:
- Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có
điều gì thắc mắc về những lời ta đã cùng con thảo luận?
Thầy Tăng Tử đáp:
- Bạch Thầy, thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời thầy đã
chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.
Đức Khổng Tử mới nói:
- Này Tăng Tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có
điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta
không biết!
Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng
đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận là mình không biết
gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là con đường. Trước
khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định:”Chính Thầy là đường, là
sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ
đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc
sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương thiên đàng.
Đức Giêsu chính là Sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một
Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Đức Giêsu chính là Sự sống. Sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung
lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết
muôn đời. Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “Mọi con đường đều dẫn
tới Rôma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả
loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết
Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách
Công vụ Tông đồ viết:”Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để
nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ”.
Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế
những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh em, và
tận tình yêu thương con người.
Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế
những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng
chịu khổ vì danh Đức Giêsu.
Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng. Với tình
yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng
chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi
đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con
đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau
khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang nước trời.
16. Khuôn mặt
Thiên Chúa
Nếu gom các hình vẽ, các bức tượng Chúa lại để so sánh, chúng ta
sẽ thấy Thiên Chúa có nhiều khuôn mặt khác nhau, tùy theo sự tưởng tượng của
các họa sĩ và của các nhà điêu khắc.
Từ ghi nhận này, ta có thể liên tưởng đến hình ảnh Thiên Chúa mà
mỗi người khắc họa cho đời mình. Thiên Chúa chỉ có một, nhưng mỗi người lại
hình dung về Người một cách khác nhau, tùy theo sự suy nghĩ và sở thích riêng
của mình chứ không hẳn đã đúng như hình ảnh đích thực của Người. Đây là điều rất
quan trọng, bởi chính cái nhìn của ta về Thiên Chúa sẽ chi phối và ảnh hưởng
đến niềm tin cũng như cách sống đạo của ta. Ta có thể đưa ra một vài thí dụ:
- Người Do thái đã hình dung Thiên Chúa là Đấng thánh thiện
tuyệt đối nên Người hoàn toàn tách biệt với những gì phàm tục và tội lỗi. Từ
quan niệm này họ cũng nghĩ rằng: Nếu muốn là con cái Chúa, người cũng phải sống
tách biệt như vậy. Điều này đúng, nhưng không đúng ở chỗ nhân danh Thiên Chúa
toàn thiện, người ta coi khinh và loại trừ những người tội lỗi, là những người
rất cần đến sự nâng đỡ của mọi người. Vả lại, Thiên Chúa dù ghét tội lỗi nhưng
lại rất yêu thương các tội nhân và muốn họ được cứu thoát.
- Có những người hình dung Thiên Chúa là một ông thẩm phán khắc
nghiệt, chỉ biết dò xét tội lỗi của con người để trừng phạt. Nghĩ về Thiên Chúa
như thế nên họ sống đạo, họ giữ lề luật chỉ vừa đủ để khỏi bị phạt. Và nghĩ về
Thiên Chúa như thế, nên khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, họ cho rằng
đó là người tội lỗi. Quan niệm rằng: Tai ương, hoạn nạn là hình phạt của Thiên
Chúa vẫn còn ăn sâu nơi tâm trí của nhiều người.
- Có người lại tưởng Thiên Chúa là một ông quan thích tham nhũng
hối lộ. Vì thế, họ xin lễ, họ dâng cúng tiền bạc vào nhà thờ như để mua chuộc
Thiên Chúa chúc lành cho những công việc của mình, kể cả những công việc mờ ám.
- Có người lại nghĩ Thiên Chúa chỉ là một ông thủ kho. Khi cần
điều gì, họ đến gõ cửa xin Người mở kho để đáp ứng nhu cầu của họ. Nghĩ như thế
nên đời sống đạo của những người này thu hẹp lại trong việc xin xỏ. Mà hầu hết
chỉ là xin xỏ những nhu cầu vật chất. Nếu Thiên Chúa không đáp ứng điều họ yêu
cầu, họ sẽ phản kháng, sẽ trách móc, thậm chí buông những lời xúc phạm đến
Người.
- Có những người coi Chúa như một vị thần xa lạ, không liên hệ
gì tới đời sống của họ, vì thế họ dửng dưng với Người…
Và còn rất nhiều cách nhìn khác về Thiên Chúa. Do đó, cũng có
rất nhiều cách sống đạo, nhiều cách sống mối quan hệ đối với Thiên Chúa,
Ghi nhận những cách nhìn như thế về Thiên Chúa để thấy câu hỏi
của ông Philipphê rất quan trọng:”Lậy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha”. Và
câu trả lời của Chúa Giêsu còn quan trọng hơn:”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Thiên
Chúa là Đấng vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình nơi Đức Giêsu. Vì thế, cứ nhìn
vào Đức Giêsu ta sẽ thấy được dung nhan đích thực của Thiên Chúa.-Nhìn Chúa
Giêsu lân la với người tội lỗi để an ủi, để cứu vớt, ta sẽ biết Thiên Chúa
không ruồng bỏ người có tội, nhưng yêu thương và tha thứ.
- Thấy Chúa Giêsu đến với những người nghèo khổ, những người đau
ốm tật nguyền, ta biết Thiên Chúa là Đấng không vô tâm trước những nỗi thống
khổ của kiếp người.
- Nhìn Chúa Giêsu thổn thức trước mộ ông Lagiarô, động lòng trắc
ẩn trước cảnh người mẹ góa đi chôn xác con trai mình, thương cảm đám dân chúng
bơ vơ đói khát như chiên không có người chăn, ta thấy Thiên Chúa gần gũi con
người biết bao.
- Nhìn Chúa Giêsu quì xuống rửa chân cho các môn đệ, chiêm ngắm
Chúa Giêsu quằn quại trên thập giá, ta biết Thiên Chúa yêu thương ta dường nào.
- Nghe Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình, ai dám
nghĩ rằng Thiên Chúa thích báo thù và trả oán…Vì Chúa Giêsu biểu lộ khuôn mặt
đích thực của Thiên Chúa, nên nếu muốn thấy Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên
Chúa, thì phải gần gũi và gắn bó với Chúa Giêsu.Chỉ khi có cái nhìn đúng về
Thiên Chúa ta mới có được thái độ sống phù hợp với đạo làm con.
Chớ gì chúng ta không bị Chúa Giêsu trách cứ như Người đã trách
cứ ông Philipphê: Con theo đạo biết bao lâu rồi mà vẫn chưa biết Thầy, chưa
biết Cha ư?
17. Đường
Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn độ, cha An tôn Mê-lô có làm một
bài thơ, nội dung như sau: “Một hôm lang thang trên phố, tôi thấy một cửa hiệu
với hàng chữ: Tại đây có bán chân lý”. Tò mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở
đón tiếp tôi và hỏi: “Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân
lý toàn diện?”. Tôi cho cô biết dĩ nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện,
thứ chân lý không pha trộn giả dối, thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô
điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.
Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi chỉ sang một cửa hiệu khác, nơi
có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Người đàn ông đứng bán hàng nhìn tôi với
lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá biểu của món hàng mà tôi muốn mua, rồi
nói với tôi:”Thưa ông, giá của món hàng rất cao”. Đã cương quyết mua cho được chân
lý toàn diện, tôi liền hỏi:”Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết”. Người bán hàng
trả lời:”Nếu ông muốn mua thứ chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của
ông”.
Tôi ra khỏi cửa hiệu, lòng buồn rười rượi. Tôi cứ nghĩ rằng tôi
có thể mua chân lý toàn diện bằng giá rẻ. Thì ra tôi chưa sẵn sàng để đón nhận
chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào
những xác tín của riêng tôi”.
Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn muốn nói lên thái độ của nhiều
người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Chúng ta chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn cho Ngài. Vì thế, bài Tin mừng
hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào
Chúa Giêsu.
Tất cả chúng ta đều biết ý nghĩa của con đường. Dù đó là xa lộ
hay con đường mòn, đều có mục đích là để đi. Đường là để đi, nghĩa là đường sẽ
dẫn đến nơi nào đó, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi
cư trú. Do đó, người nào dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư
trú của mình. Vì vậy, chúng ta phải xác định với lòng mình rằng: Cuộc sống hôm
nay ở trần gian là đường đưa đến một quê hương khác. Nếu cuộc sống hôm nay
không phải là cùng đích, mà chúng ta lại chọn làm nơi cư trú, tức là chúng ta
không lên đường đến nơi chúng ta phải đến. Sống ở đời, ai cũng phải lên đường.
Đời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng
mênh mông ấy, đâu là đường?
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta biết:
“Ta là Đường, Là Sự Thậ và là Sự Sống”.Nghĩa là đường của cuộc đời chúng ta đi
là Chúa, những gì chúng ta đang thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc
của chúng ta. Khi Chúa nói Chúa là Sự Sống, có nghĩa là Chúa là hạnh phúc chúng
ta đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là Đường, có nghĩa là để dẫn chúng ta tới
hạnh phúc đó. Như vậy, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng
đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc. Chúa là con đường
duy nhất, nhưng mỗi người chúng ta lại đi trên đường theo cách riêng của mình,
hay mỗi người chúng ta lại có riêng đường đời của mình, nghĩa là mỗi người có
một cuộc sống riêng, nên không đường của ai giống đường của ai, và vì thế nỗi
lòng của mỗi người cũng khác nhau. Quả thực, trên đường đi, chúng ta đã thấy có
nhiều quán trọ. Có quán cho chúng ta bóng mát. Có quán bảo chúng ta đừng đi.
Mệt nhọc làm chúng ta dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tị, kết án làm chúng
ta muốn bỏ cuộc. Và dường như nếu chúng ta càng dừng nghỉ thì chúng ta càng
ngại đi. Nếu chúng ta càng làm quen với lười biếng thì chúng ta càng ngại ngùng
trở về con đường mà Chúa muốn chúng ta sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.
Rồi cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng thật xấu, gồ ghề như
quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi Sọ làm chúng ta tính toán, lưỡng lự. Có
những quãng đường sao mà tối tăm làm chúng ta hồ nghi không biết có phải là
đường thật không? Đây là lúc chúng ta phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu.
Và cũng là lúc chúng ta bị cám dỗ nghi ngờ đủ thứ. Nên Chúa đã dặn:”Đường dễ
dãi sẽ dẫn đến hư đi”. Và những lúc như thế chúng ta vẫn nghe tiếng Chúa khuyến
khích: Cứ đi đi, tuy khó khăn nhưng hứa hẹn cuối con đường là hạnh phúc. Chúa
đang đợi chờ ở đó.
Đó là chân lý toàn diện chúng ta phải tìm kiếm và mua cho bằng
được. Trần gian có sóng gió, đường về có dài lâu, cạm bẫy có giăng đầy, nhưng
có Chúa, cùng với thiện chí của chúng ta, thì khó khăn mấy cũng vượt qua, đường
dài mấy cũng phải tới, cạm bẫy thế nào cũng chẳng hề hấn gì. Cầu chúc ông bà
anh chị em biết tuân nghe lời Chúa, cùng đi con đường hẹp, để rồi chúng ta sẽ
lại gặp nhau ở cõi sống hạnh phúc.
18. Trở
về
Một lần kia, trên một bãi biển cách Dublin khoảng 40 dặm về phía
Đông Nam, tôi nhìn thấy một người đàn ông lấy ra từ trong thùng xe của mình một
cái sọt đựng chim bồ câu nuôi. Sau đó, ông ta mở sọt, và phóng thích chim.
Chúng bay thẳng lên không trung. Tuy nhiên, thay vì quay đầu trực chỉ về hướng
Dublin, là nơi ở của chúng, những con chim bồ câu lại cứ bay lòng vòng chung
quanh chúng tôi. Chúng cứ thế vòng tới vòng lui. Đối với những người không hiểu
điều gì sắp xảy ra, thì sự kiện này có vẻ như là ngớ ngẩn và mất thì giờ. Nhưng
rõ ràng là những con chim bồ câu này đang tìm kiếm phương hướng của chúng. Một
khi đã định hướng rồi, thì chúng ta sẽ bắt đầu lên đường trở về nơi ở của
chúng. Ở nhiều loài chim, bản năng xác định được nơi trú ngụ là một điều kỳ lạ.
Đối với một số loài, dường như đó là một bản năng gắn liền với chúng. Đối với
những loài khác, chẳng hạn như chim bồ câu, thì chúng phải được huấn luyện. Yêu
cầu cơ bản của việc huấn luyện là giữ cho chúng được sức khỏe tốt sao cho chúng
có thể duy trì được khả năng bay. Sương mù, tuyết, mưa, và những luồng gió thổi
ngược là các trở ngại mà chúng phải vượt qua.
Chúng ta cũng phải có một bản năng trở về nơi trú ngụ. Thiên
Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta vì chính Người, đã không để mặc chúng ta không
có phương hướng. Người đặt để nơi chúng ta một bản năng về quê hương. Đây là
một điều rất tế nhị và mỏng giòn, bởi vì Thiên Chúa sẽ không bao giờ tước đoạt
sự tự do của chúng ta. Bản năng này mang hình thức thao thức và không hài lòng.
Sự thao thức, không hài lòng, khát vọng này không phải là tai họa, mà là một sự
chúc lành.
Bản năng xác định nơi trú ngụ không cứu thoát loài chim khỏi nhu
cầu phải đấu tranh chống lại mưa gió, tương tự như vậy, đức tin không hề che
chở chúng ta khỏi những va chạm đầy khó khăn của cuộc đời và cái chết. Nhưng
điều mà bản năng đó đem lại cho chúng ta, đó là biết cách xác định phương
hướng. Bản năng này đem đến cho chúng ta khả năng sống trong thế giới, mà không
đánh mất hoặc đầu hàng sự thất vọng. Bản năng này trấn an chúng ta rằng chúng
ta có một mái nhà để trở về, và chỉ cho chúng ta phương hướng, để trở về mái
nhà đó.
Trong suốt Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng
Người sắp sửa rời xa họ, các ông đều đau khổ sâu xa. Nhưng Người đã an ủi họ
bằng những lời sau đây, chắc chắn được coi là những lời nói đầy yêu thương nhất
trong Tin mừng “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ. Ta sắp sửa đến đó để chuẩn
bị chỗ cho anh em. Ta sẽ trở lại để đón anh em đi với Ta; sao Ta ở đâu, thì anh
em cũng sẽ được ở đó”.
Điều này có nghĩa là chúng ta có một mái nhà vĩnh cửu để trở về,
nơi đó chúng ta sẽ được thỏa mãn tất cả những hy vọng của mình. Nhưng vẫn còn
có vấn đề là phải làm sao để đi đến đó.
Nếu bạn đang ở trong một thành phố xa lạ, và hỏi thăm đường đi,
thì người ta có thể nói là “Bạn hãy đi thẳng, cho đến khi đến một chốt đèn giao
thông. Quẹo phải ngay chỗ ngọn đèn đó…” Đôi khi, cách chỉ dẫn quá phức tạp, đến
nỗi bạn không thể nhớ được. Nhưng có thể bạn may mắn, khi gặp một người tử tế,
người đó nói với bạn “Thật khó giải thích. Bạn cứ đi theo tôi, và tôi sẽ cho
bạn đường đi”.
Con đường đến với Thiên Chúa gây trở ngại và bối rối cho nhiều
người. Một số người đã quá bị bối rối, đến độ mất cả niềm hy vọng; một số người
khác bị lạc mất phương hướng. Khi thánh Tôma hỏi Đức Giêsu “Xin Thầy chỉ cho
chúng con thấy Cha”, thì Đức Giêsu đã không đưa ra nhiều phương hướng phức tạp.
Thay vào đó, Người nói “Ta là Đường”. Thật vậy, Người còn nói “Hãy theo Ta, và
Ta sẽ chỉ cho anh em biết đường đi”.
Trong khi chờ đợi, với Giáo Hội, chúng ta có một mái nhà thiêng
liêng, được xây dựng trên nền đá tảng của Đức kitô (xem bài đọc 2). Ở đây,
chúng ta có những anh chị em cùng đồng hành với chúng ta, trên cuộc hành trình
tiến về mái nhà này, đó là quê hương nước trời.
Một người phụ nữ đang trở về Ailen cùng với chồng bà, sau ba năm
sinh sống ở Úc. Khi gần đến nước Anh, bà đã gọi điện thoại cho mẹ của bà ở
Dublin, bà cụ này sẵn sàng đón bà ngay tại tàu ở Dun Laoghaire. Bà đã nói với mẹ
“Mẹ sẽ dễ dàng nhận ra con thôi. Con sẽ mặc một cái áo khoác màu đỏ tươi”. Khi
nghe đến đó, bà mẹ nói “Con đừng ngớ ngẩn. Thế con nghĩ rằng mẹ sẽ không nhận
ra con gái của mẹ sao?”.
Chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa. Bạn có nghĩ rằng Thiên
Chúa sẽ không nhận ra chúng ta, khi chúng ta trở về mái nhà của Người, sau hành
trình cuộc đời không?.
“Chỉ những người nào bay về mái nhà của Thiên Chúa, mới có thể
bay bổng được”.
19. Suy niệm
của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. "Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em". Câu này có ý
nghĩa gì? Đức Giêsu đi đâu? Dọn chỗ là gì và dọn ở đâu?
2. "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở", Câu này có ý
nghĩa gì? Trên thiên đàng nơi sống đời đời hạnh phúc có dung nạp đủ mọi hạng
người đầy tính đa dạng và khác biệt như ở trần gian không?
3. "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha". Có thể thấy Chúa
Cha hay Đức Giêsu gần gũi và cụ thể nhất ở đâu?
Suy tư gợi ý:
1. "Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em" ở "trong
nhà Cha Thầy"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho biết Ngài "đi là
để dọn chỗ cho anh em" ở "trong nhà Cha Thầy". Đây là một trong
những lời cáo biệt của Ngài với các môn đệ trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn
và chết trên thật giá. Vì thế, chữ "đi" ở đây có nghĩa là đi vào đau
khổ và cái chết. "Dọn chỗ cho anh em … trong nhà Cha Thầy" có nghĩa
là chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Như vậy, Đức Giêsu đã dùng sự đau
khổ và sự chết để chuẩn bị sự sống đời đời cho con người. Nói cách khác, nhờ
đau khổ và cái chết, Ngài trở thành con đường dẫn tới sự sống đời đời.
Ngài đã phải đau khổ và chết mới có thể đem lại sự sống đời đời
cho chúng ta. Phần chúng ta, để hưởng được sự sống đời đời ấy, chúng ta cũng
phải góp một phần nào hy sinh và đau khổ của mình vào khi quyết tâm sống phù
hợp với sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu ở đây là tình yêu đối với Thiên Chúa
được cụ thể hóa thành tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu luôn đòi hỏi phải
được chứng tỏ cụ thể bằng đau khổ và hy sinh. Không chấp nhận đau khổ và hy
sinh cho ai hết có nghĩa là không yêu ai cả. Nhưng yêu cũng là … chấp nhận sự
khác biệt của người mình yêu.
2. "Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở"
Đức Giêsu phải chịu đau khổ và chết không phải chỉ để cứu rỡi
hay đem lại sự sống đời đời cho một mình ta, hay nhóm của ta, cộng đoàn của ta,
Giáo Hội của ta, hoặc những người có cùng khuynh hướng với ta. Ngài muốn cứu
tất cả mọi người, mọi khuynh hướng, mọi cộng đoàn, mọi tập thể… khác nhau. Thánh Phao-lô viết: "Thiên
Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân
lý" (1Tm 2,4). Điều đó đã được Đức Giêsu tỏ cho biết trong câu:
"Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở". "Nhiều chỗ ở" có
nghĩa là dung nạp được nhiều: nhiều người, nhiều chủng tộc, màu da, khuynh
hướng (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm linh, tôn giáo…).
Nhìn trong thế giới tự nhiên này, ta thấy sự vật hết sức đa
dạng, nghĩa là đủ loài đủ kiểu, rất khác biệt nhau. Thế giới sẽ trở nên đơn
điệu và buồn tẻ biết bao nếu thiếu sự đa dạng và khác biệt ấy. Hãy thử tưởng
tượng xem: nếu trên đời chỉ có một loài hoa duy nhất cho dù hết sức đẹp, hoa
nào cũng giống y hệt hoa nào, thì chúng đâu thỏa mãn nhu cầu thích cái đẹp của
con người như khi có hàng trăm ngàn loài hoa khác nhau như trong thế giới ta
đang sống đây! Thế giới này sẽ ra sao nếu chỉ có một loài chim, một loại cá,
hay tệ hơn, chỉ có một loài thú duy nhất?
Thế giới tuy đa dạng và đầy khác biệt, các loài các vật trong đó
vẫn luôn luôn hài hòa, bổ túc cho nhau, ăn khớp với nhau. Nếu thế giới tự nhiên
đầy bất toàn này mà còn phong phú đa dạng như thế, còn có sự hài hòa giữa những
khác biệt như thế, thì sự sống đời đời hay thiên đàng, là một thực tại hoàn
hảo, ắt nhiên phải phong phú, đa dạng và nhất là hài hòa hơn biết bao!
Vì thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng cần trang bị cho mình một
tinh thần sẵn sàng chấp nhận mọi khác biệt nơi những người chung quanh chúng
ta. Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người và vạn vật đầy khác biệt như thế. Vì
thế, mọi thành viên của Thiên Đàng đều phải có khả năng chấp nhận khác biệt rất
cao độ để sự hài hòa giữa những khác biệt ấy trở nên hoàn hảo. Điều ấy đòi hỏi
họ phải có tình yêu và lòng bao dung cao độ. Nếu không có tình yêu và lòng bao
dung, thiên đàng không còn là thiên đàng nữa, sự sống đời đời không còn là hạnh
phúc nữa.
Nếu ta đang giận hờn ai, không muốn nhìn mặt ai, ghét cay ghét
đắng ai, và chủ trương không thể sống chung với họ, không thể cùng đội chung
một bầu trời với họ, v.v…, hãy tự hỏi: nếu cả hai gặp nhau trên thiên đàng, ta
sẽ đối xử với người ấy thế nào? Người ấy cũng được Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu
thương, cứu chuộc, tha thứ như ta. Nếu lúc ấy ta không thể nhìn người ấy với
tình yêu thương anh em, thì chính ta là người không xứng đáng ở thiên đàng. Với
sự thù hận và ác cảm ấy, ta chỉ làm cho thiên đàng bị ô nhiễm và không còn là
nơi hạnh phúc nữa. Ta đáng ở một nơi khác không phải là thiên đàng. Vì thiên đàng
chỉ thích hợp với những con người tràn đầy yêu thương. Vậy, muốn là công dân
của thiên đàng, thì ngay ở trần gian này, hãy tập yêu thương và sống hài hòa
với những người khác biệt chúng ta. Muốn thế, ta phải nhìn thấy Thiên Chúa nơi
tha nhân.
3. "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha"
Câu nói ấy của Đức Giêsu chắc hẳn đã làm cho các tông đồ hết sức
ngạc nhiên. Thấy Đức Giêsu cũng chính là thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu chính là
hiện thân, là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Người ta có thể thấy được tình
yêu của Chúa Cha qua tình yêu của Đức Giêsu, thấy được vẻ đáng yêu của Chúa Cha
qua sự đáng yêu của Đức Giêsu, v.v… Và một cách nào đó, Đức Giêsu cũng chính là
Chúa Cha, vì cả hai cùng là một Thiên Chúa duy nhất. Các tông đồ có diễm phúc
nhìn thấy Đức Giêsu, sống với Ngài, cảm nghiệm Ngài, nên cũng là nhìn thấy,
sống với và cảm nghiệm chính Thiên Chúa Cha.
Còn chúng ta, chúng ta không có diễm phúc ấy. Tuy nhiên, nếu
chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa hay Đức Giêsu nơi
bất cứ người nào ta gặp trong cuộc đời. Cho dù người ấy là ai, thương ta hay
ghét ta, làm lợi cho ta hay hại ta, thánh thiện hay tội lỗi, dễ thương hay dễ
ghét, miễn họ là con người, thì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa với nhiều mức
độ trung thực khác nhau. Đức Giêsu muốn ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào,
bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn
cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho
họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho
chính Ngài (x. Mt 10.40; 18,5; 25,40.45; Lc 10,16). Ngài cũng rất ước muốn được
yêu thương họ bằng trái tim ta, nói với họ, an ủi họ bằng miệng lưỡi ta, và làm
việc cho họ, phục vụ họ bằng đôi tay của ta. Ngài chỉ thực hiện được ước muốn
đó nếu ta cho phép và hợp tác với Ngài. Vậy bạn có muốn Ngài dùng bạn như một
khí cụ để yêu thương của Ngài không?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhà Cha có rất nhiều chỗ có thể dung nạp được rất nhiều
người với rất nhiều khuynh hướng khác biệt. Xin Cha cho tâm hồn con, lòng trí
con cũng có nhiều chỗ để có thể dung nạp được tất cả mọi người là anh chị em
con, với nhiều khuynh hướng, tính khí, chủ trương khác nhau. Xin cho con biết
chấp nhận mọi người như họ đang là, để yêu thương họ bất chấp họ như thế nào.
Xin cho con yêu thương họ giống như Cha đã yêu thương họ và đã yêu thương con.
Amen.
20. Về
cùng Chúa
Chúng ta thường nói:
- Đã là người, thì làm bất cứ việc gì, cũng đều theo đuổi một
mục đích nào đó.
Chẳng hạn tôi vất vả trên ruộng đồng là để gia đình có chén cơm
manh áo. Tôi cặm cụi lao động trong nhà máy là để kiếm tiền nuôi sống gia đình.
Tôi cắp sách tới trường là để trau dồi thêm những kiến thực làm giàu cho cuộc
sống.
Thế nhưng, khi hỏi về mục đích của cuộc đời, nhiều người lại
phân vân không biết phải trả lời như thế nào. Đúng thế, chúng ta sống trên đời
là để làm gì? Câu hỏi này nhiều lúc đã ám ảnh tâm trí, để rồi chúng ta cảm thấy
băn khoăn và day dứt:
- Tôi bởi đâu mà tới và rồi tôi sẽ đi về đâu?
Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng lại vô cùng quan trọng, vì nó ấn định
toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, có những kẻ coi tiền bạc, địa vị hay vui thú phần xác
là mục đích cuối cùng của cuộc sống, để rồi đầu tư mọi công sức vào đó. Họ sử
dụng mọi biện pháp, kể cả những biện phát bất chánh để tìm tiền kiếm bạc, miễn
sao nhét đầy túi tham của mình. Còn để leo lên ghế nọ ghế kia trong xã hội, họ
không ngần ngại đạp lên người khác mà tiến thân, nhưng rồi khi phải đối đầu với
cái chết, họ mới bẽ bàng nhận ra rằng mình đã lầm.
Với chúng ta thì sao? Sách giáo lý đã trả lời:
- Đời sống chính là một cuộc hành hương trở về cùng Chúa trong
niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Niềm hạnh phúc vĩnh cửu được ở bên Chúa phải là điểm tới cuối
cùng và bắt buộc cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, muốn được như thế, chúng ta
phải sống đạo, phải bước đi trên con đường Chúa đã chỉ dạy, bởi vì đạo là
đường. Con đường nào cũng có một hướng đi, con đường nào cũng dẫn tới một bến
bờ.
Đạo của chúng ta được gồm tóm trong những điều Chúa truyền dạy,
đó là mến Chúa và yêu người. Con đường của chúng ta là chính Chúa và con đường
này sẽ dẫn chúng ta đến cuộc sống muôn đời, như lời Ngài đã phán:
- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Bởi vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta phải lên đường và trở về cùng
Chúa, đồng thời mỗi ngày sống phải là một bước chúng ta tiến đến với Chúa, mỗi
tháng năm chúng ta phải chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công nghiệp, được
kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón
nhận vào quê hương Nước Trời. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ ấn
định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể nói được
rằng:
- Niềm hạnh phúc vĩnhcửu được ở bên Chúa đang nằm trong lòng bàn
tay chúng ta, bởi vì tương lai phải được bắt đầu từ hiện tại và ngày mai phải
được bắt đầu từ ngày hôm nay.
Có một bà giàu sang mơ thấy mình được đưa vào thiên đàng. Bà ta
đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy hoàng đang được được xây dựng. Bà
ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường: - Tòa biệt thự này được xây dựng cho ai thế?
Thiên thần trả lời: - Cho người làm vườn của bà đó.
Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần gian, người làm vườn của bà ta
chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến nỗi không có đủ chỗ cho cả
gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói: - Ở trần gian, bác ấy có
thể khá hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.
Đi được một quãng, nhìn thấy một căn nhà lụp xụp cũng đang được
cất lên, bà ta liền hỏi: - Căn nhà lụp xụp này được cất lên cho ai thế?
Thiên thần trả lời: - Cho bà đó.
Bà ta bực tức và nói: - Tôi quen ở nhà cao cửa rộng, làm sao
chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.
Thiên thần đáp: - Chúng tôi đã làm hết sức mình mà chỉ được có
vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.
Người đàn bà tỉnh giấc, suy nghĩ và đã tìm ra bài học của giấc
mơ, đó là hạnh phúc mai sau tùy thuộc vào những hành động bác ái yêu thương
mình làm khi còn sống ở trần gian. Vì thế, kể từ ngày ấy, bà ta đã ra sức lập
công, tích lũy cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.
Bởi đó, hãy sống thế nào để trong này sau hết, chúng ta sẽ được
Chúa mời gọi:
- Hời nhưng kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần
thưởng nước trời đã được dành sẵn cho các con.
Hãy sống thế nào để ngày sau hết, chúng ta sẽ được nghe lời Chúa
phán:
- Thầy ở đâu, các con cũng sẽ được ở đó với Thầy.
21. Chú giải
của Noel Quession.
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu
nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến".
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào
cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật
bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn
phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra
đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau
cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người
"ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế,
người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư
tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ
hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại
không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa
khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn
đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng
hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra:
Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân
loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những
tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì
là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì
thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm
tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy
tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng
ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ
nữa về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái
nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ
hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt
ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên
ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự
bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên
Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người
một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của
con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái
vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói
về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc
nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói
như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã
nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu
với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên
Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha.
Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao
giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn
toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy,
Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha.
Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này,
như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến
và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn
thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em
về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy,
trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được
nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng
và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những
nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi
và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn
giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua
mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở
ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính
"đời sống thánh thiêng" được ban cho chúng ta. Mục đích của con người
không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có
Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên
Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao
xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói
với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng
con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy
đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra
nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời
sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là
sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra
sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một
ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở
đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải
chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới
hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con
đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa
Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ
bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể
diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể
quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối...
ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau:
Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết
Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta
không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ
ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma:
“chúng con không biết...". Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như
thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên
Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết
Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một
"cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành
hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy
Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được
tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở
đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi
cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng
ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết
Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh
chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức
Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ' Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với
anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không
tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa
Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa
Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha
và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con
người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải
để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên
Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong
Thầy...".
Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai
ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người
bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác
định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi
người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp
thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ
điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo:
một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi
tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu
ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng
Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em
hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì
hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì
người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn
hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của
tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho
sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc
phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người
"làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để
chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là
cách sống của Đức Giêsu.
22. Chú giải
của Fiches Dominicales.
TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Đường về với Chúa.
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục
Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như
"ra đi", "đi tới", "trở lại”, “con đường”.
A.Marchadour minh định chương này ("được kết cấu xung quanh cuộc trở về
với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn
huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190)
những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản
Thầy":14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài ("Thầy chỉ còn ở
với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy,
con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang - Dufour nhận xét
"sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời
họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu
mà họ đang trông mong kết quả" (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3,
Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: "Lòng anh em đừng
xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững
vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: "Đức Giêsu dựa trên
niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập
trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá
tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo
Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa". Vì thế
nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ "dọn
chỗ sẵn cho họ". Từ chủ đề "ra đi" bài diễn từ sau bữa tiệc ly
bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em
biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: "Thưa Thầy,
chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?" Chúa
long trọng đáp "Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không
ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như
sau: 'Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm
thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức
Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là "cửa" dẫn đến sự sống,
ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn
này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên
chiêm niệm Kitô giáo" (p. 100)
2. Bày tỏ Chúa Cha.
Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng
con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại
thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của
Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật
thiết với Chúa Cha "Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong
Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó
là tư tưởng của Chúa Cha.
3. Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.
Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải
cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: "Ai tin vào Thầy, thì
người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn
nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các
môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính
mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương
mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ
bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức
Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục
được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết
trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của
các tín hữu." (p.l07)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Thiên Chúa thật gần".
Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn "những biến
cố" đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và
các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai
dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền
miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những
luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê
trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần
và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc
sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?
Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục
sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng
cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay
trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó
chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào
trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê
"Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được
đường?" Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng
cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách
giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về
điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy
đó.
Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức
Giêsu và ngày Ngài trở lại. ("Célébrer", số 258, tr.34, tháng 3.l996)
Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của
Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?
Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một
ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: "Thầy ở đâu, anh em
cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: "Thầy là đường là sự thật và
là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" hơn thế nữa,
họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa
Cha" Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là
"nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức
Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành
động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý
Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi
biết Cha và Con là "một”!
Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức
tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của
Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng
Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc
lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi
đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của
Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự
thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu,
Thiên-Chúa Con.