(1504-1572)
Ðức
Piô V phải phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán, bởi sự thối nát của hàng
giáo sĩ, bởi Tin Lành Cải Cách, bởi sự đe dọa xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ…
Ðây là
vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Ðồng
Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải
gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Ðồng Vatican II,
thì Ðức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.
Antonio
Ghisleri sinh ngày 17 tháng 1 năm 1504 trong một gia đình nghèo ở Bosco,
Lombardy, nước Ý. Khi rửa tội, ngài có tên Antonio Michael và vì gia đình quá
nghèo nên ngài phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Ða Minh, vì thấy
sự thông minh cũng như nhân đức của ngài, họ đã xin phép đưa ngài về sống với họ,
lúc ấy ngài mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, ngài được thụ phong linh mục
năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư
triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp
các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ quy luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói
cũng như hành động của ngài.
Năm
1555, Cha Michael được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557,
ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Ðức
Hồng Y Micae được chọn làm Giáo Hoàng thứ 225 kế vị thánh Phêrô, lấy tên là Piô
V.
Trong
nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 – 1572, Ðức Piô V phải đối diện với một
trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân
Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi Tin Lành Cải
Cách, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị
giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Ðồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn
đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác
nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Ðồng kết thúc năm 1563.
Năm
1566, Ðức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời
do Công Ðồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các
linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới,
sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em. Ðức Piô cương quyết
áp dụng quy luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ
người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm
cho người nghèo đói và lấy tiền của dùng để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo
hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.
Trong cố
gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Ðức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của
Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Ðế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở
Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ.
Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến
thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.
Sự hoạt
động không ngừng của Ðức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính
của ngài là một tu sĩ dòng Ða Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên
Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo
hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Ða
Minh.
Mấy
tháng sau, Ngài qua đời ngày 1 tháng 5 năm 1572 và được mai táng trong nguyện
đường San Andrea trong VCTĐ Thánh Phêrô, Vatican City. Ngài được Đức Giáo Hoàng
Clement X tôn phong Chân Phước ngày 01 tháng 5 năm 1672 và Đức Giáo Hoàng
Clement XI nâng lên hàng hiển thánh ngày 22 tháng 5 năm 1712 và đặt làm quan thầy
Bosco Marengo, Ý Đại Lợi.
Lời Bàn
Trong đời
sống cá nhân và trong hành động của các giáo hoàng, cả Ðức Piô V và Phaolô VI đều
dẫn dắt gia đình Thiên Chúa trong một tiến trình cải tổ nội bộ nhằm đáp ứng với
những thúc giục của Thần Khí trong các Công Ðồng chính yếu. Với sự hăng say và
kiên nhẫn, Ðức Piô và Phaolô theo đuổi những thay đổi do các Giáo Phụ trong
Công Ðồng đề ra. Cũng như Ðức Piô và Phaolô, chúng ta cũng được mời gọi để liên
tục thay đổi tâm hồn và đời sống.
Lời Trích
"Trong
đại hội toàn cầu này, trong thời gian và không gian đặc ân này, quá khứ, hiện tại
và tương lai như quy tụ lại. Quá khứ: vì ở đây, tụ họp ở địa điểm này, chúng ta
có Giáo Hội của Ðức Kitô với truyền thống, lịch sử, các Công Ðồng, các tiến sĩ
và các thánh của Giáo Hội; hiện tại: chúng ta đang từ giã nhau để đi vào thế giới
ngày nay với những bất hạnh, đau khổ, tội lỗi của nó, nhưng cũng có những thành
công, giá trị và đức tính của nó; và tương lai ở đây trong lời kêu gọi khẩn
trương của những người dân trên thế giới muốn được công bình hơn, trong ý muốn
hòa bình, trong khát khao có ý thức hay vô thức về một đời sống cao đẹp hơn, một
đời sống mà Giáo Hội của Ðức Kitô có thể đem lại và muốn trao ban cho họ" (trích từ diễn văn bế mạc Công Ðồng Vatican II của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI).