CHÚA
NHẬT LỄ LÁ
MỤC LỤC
26. Đức Giêsu là Người tôi tớ... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
27. Thông cảm với Chúa Lm
Giuse Đinh lập Liễm
33. Giờ chiến thắng vinh quang Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
34. Đường dẫn tới phục sinh Sưu tầm
35. Đâu là mối tương quan Sưu tầm
36. Niềm vui phục sinh Sưu tầm
37. Cuộc thương khó Sưu tầm
Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc
xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc
cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng
đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử
thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể
chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như
thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ
không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy
đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng
cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu
đựng những khổ đau nào?
Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn.
Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp
tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và
phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30
đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ
bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân,
và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải
thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?
Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này,
khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta
yêu mến và kính trọng phản bội.
Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác.
Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên
chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta
cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau
yếu bệnh tật.
Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống
đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị
tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa
Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để
ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?
Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta
là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với
thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ.
Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây
phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy
được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết
chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập
giá Đức Kitô.
2. Lễ
lá – Mt 21,1-11.
Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành
Giêrusalem cách long trọng.
Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải
bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải
mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái
chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần
dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này
giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là
Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để
dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án
của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu
Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi
sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật
thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu
thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của
những đau khổ.
Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ
Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm
cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình
mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều
quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi
vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa
Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con
người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến
lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh
thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ
thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để
chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh.
Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên
ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục
sinh.
3. Con đường
Chúa đi – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi
đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết
án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con
đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ
tội đồ.
Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại
cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm
đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với
hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt
nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi
thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng
trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức
ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ
đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những
người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của
lòng người.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm
sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau
cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.
Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón
Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường
Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con
đường.
Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người
đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra
muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.
Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng
bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than
khóc, tiếng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là
môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người
đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.
Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ
Chúa phải vác thánh giá.
Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ.
Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm
cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào?
Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa
của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn
đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh
đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo
đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên
Núi Sọ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.
2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?
3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám
đông?
4. Suy niệm
của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời
và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập
tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một
ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung
một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ
vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống
chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao
đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm
hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu
thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc
Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với
các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là
đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa
Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ
nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà
không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân
hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn
vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị
thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch
sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy
vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan
tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được
ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít
mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt
khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề,
dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ
nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc
sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh
lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha
cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù
hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như
loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình
yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá
hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không
vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen,
hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa
những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
5. Đức
Giêsu đối diện với cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức
Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu
vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào
những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét,
Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành
công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng
nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha
mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi
cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?”
Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài
lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ
mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế
kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay
cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng
đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem
thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ
ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một
chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài
chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với
Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể
xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh
Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn,
Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân
phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc
sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì
tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến
chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn
trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người
mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống.
“Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai
là người lớn nhất trong họ”
nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hoà. Đức Giêsu dạy các
tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn
đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
6. Con người
tham sống sợ chết - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế
gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương
yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy
cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo
anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành
bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng
khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau
những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang
khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống
anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình
nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi
anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả
quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta,
chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có
những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm
trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa,
dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những
lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói
xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc,
thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi
chữ tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng
khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử,
nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà
bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau
nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ
vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng
cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những
lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của
tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy,
Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn
thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì
“yêu cho đến cùng”.
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống
lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài
cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn
trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng
của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một
tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với
đàn hát, với trải lá lót đường ...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời
thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa
Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn
trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh
Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài
muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng,
Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài,
nhưng “Giờ”
để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi
hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm
đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên
ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám
hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người,
cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy
luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành
cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành
cho chúng ta. Amen
7. Cô đơn
và im lặng.
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi
cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời,
Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài
và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây
Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn
chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn
thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa.
Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ
trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước
toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập
giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu
quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người
này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho
chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp.
Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng
như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ
tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết
trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể
đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư
tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm
ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô
không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên
xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn
và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay
mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với
Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời
chúng ta.
8. Chúc tụng
Đức Vua
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia
sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết
của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công,
bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá
của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta
cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một
người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn
với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ
nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn
gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô
lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực
thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là
kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu,
được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được
nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của
mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào
khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có
những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ:
sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.
Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông
chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng
thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị
đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh
xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.
"Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh
niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận
thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn
nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau
nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin
cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức
đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực
sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được
tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật
được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được
bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với
trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con
biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
9. Suy niệm
Lễ Lá
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho
loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của
đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit"
có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn
Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc
Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân
chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô
trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh
nó vào Thập giá!"
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều
khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều
đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực
cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo
tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì
chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình
không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có
mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi
Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa
Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận
rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập
giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng
về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm
tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính
đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng
tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công
lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy,
nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của
Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa.
Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại
chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường,
từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như
một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và
cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm
nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình
huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục
nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp
được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân
loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta
hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng
đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì
chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.
Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của
Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác
hơn.
10. Đám
đông dưới chân Thập Giá
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt,
người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa
thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo
nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận
thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không
dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất
hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn
đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt
(tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự
vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu
trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của
tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt
muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu
lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người
đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000
năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông.
Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh
sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của
Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể
hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như
thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã
thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu
đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của
chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho
dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc
chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã
bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án
phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của
Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta
nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một
tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng
của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của
tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn
được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như
thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh
em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng
được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm
nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
11. Ông
này là ai vậy?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa
một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi
cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng
muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay
chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua
Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái
chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui,
nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu.
Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài
trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài
và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy
mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ
để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức
nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau
noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim
Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với
Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa
lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản
bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu
nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó
có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình
giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái
chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua
từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một
người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần
cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của
mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và
27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức
Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có
thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập
giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho
con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo
Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn
lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập
giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt
trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn
vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất
diệt của người một lòng theo Chúa.
12. Cành lá phản
bội (Mt 26,14-27,66).
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ của – R. Veritas)
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembradt,
người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Nhìn vào tác
phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất
lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá
là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như
muốn nói rằng: không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh
Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút
trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán
rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh này.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự
vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembradt, nhà danh hoạ lại chen vào khuôn mặt của
mình?
Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về
sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính
ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc
treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói
với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh
Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn
năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông.
Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh
sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu
được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế?
Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực
sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng
đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta
mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày này, cho dù
cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc
chính là một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…
Thử hỏi, nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án của
Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào?
Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành
Syrênê đã vác đỡ thập giá Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi
không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối
Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Phalatô lên án người vô tội, hoặc
là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi
cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can
đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như
khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ
thể và khi gặp nghịch cảnh, tương tự hành động của Giuđa! Chúng ta không ai vô
tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận
thế.
Thưa anh chị em, với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt
đầu. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn
cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung
hô của đám đông quần chúng nô nức phất cao cành lá “hoan hô Con Vua Đavit” có
vẻ một cuộc toàn thắng vang dội. Thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa
mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì
Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của quần chúng đã chất chứa
một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu
gào vào những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó
vào thập giá!”.
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều
khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ
dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án,
điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh
vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên
đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì
chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình
không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có
mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không
được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại
chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động
của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa,
chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản
bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái
chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của
Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ
đau có giá trị cứu độ.
Càng suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy
mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng
thánh giá của người khác hơn.
13. Tin và không tin – Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai
mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần
Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng
của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu
sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước
của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư
cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc
thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do
Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin
Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của
Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức
Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những
người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của
một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng
Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm
hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những
lời nhạo cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức
Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư
xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ
trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập
và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với
người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức
những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người
Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không
ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những
người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên
Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng
Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt,
và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những
xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo
và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết
loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và
bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là
một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã
ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân
của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân
chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với
dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi
quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi
giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay
để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua
Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách
thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn,
thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù
việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa
những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê
và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa
Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu
là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh
đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô
cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của
mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ
mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi
đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình
là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng
dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa,
thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những
sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào
quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma
quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị
đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự
bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa
Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân
loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người:
Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên
cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha
thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma
lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con
Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy
ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các
tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa
Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để
loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng
cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi
cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như
họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa
đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ
Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa,
cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ
bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại
trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại
trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời
Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều
người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin
của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có
Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm
hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo
khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự
đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không
và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện
tại của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng,
theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong
ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng
ta. Amen
14. Định
mệnh an bài! – Như Hạ
Thời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào
cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan
trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi
vinh nhục.
TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.
Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa
roi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Đó là con đường dẫn
tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng
chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin
cậy hơn các môn đệ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người"
(Mt 26,71). Giuđa "nộp Đức Giêsu." (Mt 26,16.48) "Các môn đệ bỏ
Người mà chạy trốn hết" (Mt 26,56). Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhưng Đức
Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người.
Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy" với
"mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26,53) Bởi vậy, Người mới có thể
đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng
bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.
Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa
Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng
như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con
vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng
trời." (Mt 21, 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay
cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng
tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26, 68) hay khi "lính của tổng trấn
quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Đức Vua dân Do thái!'" (Mt
26,29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua
người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27,39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong
đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen! Hắn đã nói: 'Ta là Con Thiên Chúa!'"
(Mt 27, 40.42.43) Đã đến lúc Cha làm vinh danh Con. Đứng trước các thượng tế và
toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng quyết mình "là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa." (Mt 26,65) và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận
mình là "vua dân Do thái." (Mt 27,11) Đứng giữa đám đông khát máu
đang gào thét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (Mt 27,23.25.26), Đức
Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng "Kitô" (Mt 27,22)
Tất cả xảy ra không ngoài
"ý cha" (Mt 26,39). Những lúc "làm thinh" (Mt 26,63) hay
"không trả lời một tiếng" (Mt 27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên
cường bất khuất trước cường lực đối phương. Người như chìm sâu trong tình yêu
Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao,
Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế.
Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba
tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình,
chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và
dân chúng. Nhưng Đức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như
thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những
thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là "Con Thiên Chúa" (Mt 27,43).
Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng
và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của
tình yêu Thiên Chúa.
Tin tưởng tuyệt đối vào
Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay
giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa "nộp Người" (Mt 26,48)
và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy." (Mt 26,31) Chính khi mọi tương
giao nhân loại bị bứt tung, Đức Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu
Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26,28) Máu Thầy đem lại
sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người
vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên
Chúa.
Khám phá và chấp nhận tất
cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì
vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã
cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani. Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó,
các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ
quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và
cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt 26,49). Những dấu chỉ tình yêu đó
và những lời khẳng quyết "không chối Thầy" (Mt 26,35) đều mất hết ý
nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình
phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông
Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26,75) Giuđa cũng hối hận
không kém: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết
oan." (Mt 27,4) rồi "Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt
cổ." (Mt 27,5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao? Tại sao phải thắt cổ mới
xứng với việc đền bù? Thật là một mầu nhiệm. Giuđa đã trả giá quá mắc! Chúa có
đòi vậy đâu!
NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH.
Điều Chúa đòi là người
môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã
"khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá yếu đuối. Còn ông Giuđa không
hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn
đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông
đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình.
Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết trong xã hội tục hóa ngày
nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát
sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit:
18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề
một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói quen và lối sống hằng ngày đã
bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy. Mọi sự đương nhiên phải
như thế!
Thực tế mọi sự chẳng sẵn
sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn
trong tầm tay. Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá
Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với
Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống. Triết
lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi
triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan
tỏa khắp thế giới." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay,
công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH
Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người
không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho
cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những
giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ," (ĐGH
Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp
cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã
hội.
Chỉ trong xã hội đầy
những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu
độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
15. Chọn
Chúa Giêsu – ĐGM. Bùi Văn Đọc
(Bài Giảng của Đức Cha
Bùi Văn Đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải nói với chúng
con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã
dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi
chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất
đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối
tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị
bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên
gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày
tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh
quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa
Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện
nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các
loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các
con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các
con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa
Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa
Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh
Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống
thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng
đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh
Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công
chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự
sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ
không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng
chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ
mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự
mà theo Người.
Đứng trước những khó
khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều
người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà
nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm 12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao?
Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng
con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6,
67-69).
Các con sẽ nói với Chúa
Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy,
chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các
con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người
không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn
của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người,
đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa
Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn,
và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám
chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có
sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà
đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này
qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của
loài người.
16. Cùng theo Chúa – Lm.
Nguyễn Nguyên
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm
nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn
tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến
vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá
“Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực
ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi
thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng
ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm
thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa
Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay
trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó
khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc
đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần
thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con
đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì
luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo.
Đúng như vậy, bước đi
theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn
vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi
đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của
Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu
khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự
vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những
người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè…
Đi con đường thập giá của
Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là
trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác
thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của
Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà
không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng
lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó
là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn
ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và
giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của
Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót,
tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình
thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang
vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần
thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng
cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của
những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận
đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta
phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và
lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên
lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy,
chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng,
chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người
bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn
con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được
cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu,
Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng
chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.
17. Vào thành để
chịu chết – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Nét bi đát của cuộc khải
hoàn
Để sửa soạn vào thành,
Đức Giêsu sai hai môn đệ đến ngôi làng trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ
không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như trong biến cố này: một bên là Thiên
Chúa uy quyền, một bên là "tính con người". Cả hai đều thể hiện trong
con người Đức Giêsu. Đó là sự pha trộn giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ
thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập
thể.
Vì lòng yêu thương con
người, Đấng vốn giàu có đã trở nên khó nghèo, để con người được giàu có. Trong
cuộc đời, có lần Đức Giêsu đã mượn chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng
giảng dạy; lần khác Người đã mượn hai cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh
để làm phép lạ nuôi cả đám đông; sau này, khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu
còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển.
Vẫn có những chuyện bi
đát như thế trong cuộc đời Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết.
Hãy bảo thiếu nữ Xi-on
Kìa Đức Vua đến với ngươi
khiêm tốn ngổi trên lưng
lừa
lưng lừa con là con của
thú vật chở đồ. (Mt 21,5)
Thời đó, các vị hoàng đế
thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Đấng
khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát
cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính cách khôi hài của con người tự xưng là
Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng một con vật biểu tượng của sự tự huỷ,
tượng trưng cho việc tiến dần đến cái chết.
Nếu Đức Giêsu tiến vào
thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng, trong tư thế của người chiến thắng, chắc
sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Đấng giải phóng về mặt chính trị. Trái lại, Đức
Giêsu chọn những hoàn cảnh để chứng thực cho lời tuyên bố: "Nước tôi không
thuộc về thế gian này". Như thế, chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là
đối thủ của Xê-da.
Phía sau những lời tung
hô
Khi Đức Giêsu đến gần
thành phố, một "đám rất đông" dân chúng ra đón Người. Trong số đó,
không chỉ có những người cư ngụ tại Giêrusalem, nhưng còn có những người từ nơi
khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên, cả những người Pha-ri-sêu.
Trong những lần trước
đây, Đức Giêsu luôn ngăn cản lòng nhiệt thành, sự phấn khởi của dân chúng.
Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi, Người tránh tạo nên những quang cảnh
náo nhiệt (x. Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9; Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Đức Giêsu
tiến vào thành Giêrusalem, các người Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên
hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19).
Điều này ngược hẳn với
thái độ của Đức Giêsu. Trước đây, Người xoa dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn
bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy ?
Bởi vì "Thời"
đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền
của Người, và đây là lần cuối cùng. Đức Giêsu biết rõ điều này sẽ đưa Người lên
đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và thiết lập vương quốc trên trần gian. Đây
là cơ hội cuối cùng để Đức Giêsu đưa ra tiếng nói quyết định và đặt con người
trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc từ khước.
Những cái áo được trải
trên đường, những ngành ô-liu được phất cao; đám đông vui mừng tung hô:
"Hoan hô Thế tử nhà
Đa-vít, hoan hô!
Vạn phúc Đấng ngự đến
nhân danh Chúa!
Hoan hô Chúa ngự chốn cửu
trùng" (Mt 21,9).
Đức Giêsu là Hoàng tử
thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng được sai đến để thực hiện công trình của
Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu nguyện, giờ đây trở thành bài ca
chiến thắng để đón tiếp Đấng Cứu Tinh. Mặc dù đám dân đang reo hò không hiểu rõ
lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu được bình an do Người mang lại,
nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến.
Đúng là một cuộc khải
hoàn, nhưng Đấng Cứu Thế biết rõ rằng lời tung hô "Hosana" sẽ được
đỗi thành "đóng đinh nó đi", và vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế.
Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả
áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người
là Ngôn Sứ, là Thầy... nhưng Đức Giêsu biết rõ hoàng cung được dành cho Người
chính là đổi Can-vê.
* * *
Lạy Chúa,
dù con có thế nào chăng
nữa,
cũng xin cho con được
tung hô Chúa trong ngày hôm nay.
Ngày thứ Sáu, tất cả tội
lỗi của con sẽ bị phơi trần,
nhưng con biết lòng
thương xót của Chúa
sẽ ngập tràn trên con:
đó là ngày Phục Sinh.
Cùng với tất cả mọi người
con sẽ reo lên
"Vạn phúc Đấng ngự
đến nhân danh Chúa"
Đó là hy vọng, là niềm
cậy trông
cho suốt cả hành trình
tăm tối của con.
18. Vui lòng vâng phục
Thánh ý Chúa
Suy Niệm:
Với Lễ Lá hôm nay, chúng
ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong
Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt
người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một
việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê
đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt
Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về
thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể
gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng
niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi
Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng
giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước
vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới.
Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần,
những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô
Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa
đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua,
nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá
là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của
Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua:
"Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng
trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương,
và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của
Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu
Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng
một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên
thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai
mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu
thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến
trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe
tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng
niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi
lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa
nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ,
vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta
chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng
lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ
gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là
không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ
và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của
ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch
lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con
người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng
Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần
của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở
ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể
trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật
chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương
Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có
thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha
mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng
phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
19. Lắng
nghe cuộc khổ nạn – André Sève.
Chúng ta vừa nghe lại
trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất
trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy,
chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm
động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng
ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau
khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?
Những đau khổ và cái chết
cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là
kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để
làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công
bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo
tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.
Trên thập giá, Chúa Giêsu
cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có
nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra
để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau
khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình
yêu.
Chúa Giêsu dạy ta điều gì
trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta
không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu
thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ
hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi.
Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan
tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn,
trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi
lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né
tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của
con người đó là có thể yêu thương.
Nếu chúng ta quen thuộc
với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta
lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu,
khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới
mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng
yêu như Chúa Kitô.
Người ta không suy nghĩ
rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện.
Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ
những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và
lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về
chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình
yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả
năng sinh tồn!
Còn lại việc xem sự sáng
suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ
vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu
Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho
chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự
bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết
của Ngài chẳng vô ích chút nào”.
20. Tôi không bán Chúa –
PM. Cao Huy Hoàng
Cho đến hôm nay, vẫn còn
nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh
trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình
là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành
tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người
hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh
Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Hai mặt thiện ác trong
mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song
hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ
Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ
cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình
có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của
những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin
của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ,
đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và
mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho
sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu
của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu
của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo
dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.
Có thể chúng ta đã lên án
họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục
nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi,
mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày
nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan
hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.
Quả thật, chúng ta đã
từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa
Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài,
không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng
đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là
chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì
việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời
tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa
Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta
cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào
tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức
Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương
khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu
thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của
tôi.
Bao lâu tôi còn sống
trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác
Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm
không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu
tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân
cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng
ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ
rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói
tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian
đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa
Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà
phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được
lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho
Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội
đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”.
Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham
nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh
ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang
tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng:
tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng,
tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản
năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình
cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành
thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có
nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn
xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng
ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày
xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của
Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các
thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa
Giêsu đó sao?!
Càng không thể nói rằng
tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài,
cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng
ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống
hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa
Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình
phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập
Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi
vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa
Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những
lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức,
thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh
Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của
ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì
hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái
chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn
đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể
góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.
Cuộc sống bất chính trong
‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn
rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta
tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử
Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội
do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình
tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn
ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con
chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta,
được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi
mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án
Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta
thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa,
Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc
tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ
những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt
mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của
mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa
Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con
không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với
biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng
con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối,
biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo
Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen
21. Chúa chịu
tử nạn trong tôi – Lm. An Phong
Vào đầu Tuần Thánh năm
1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na bị cảnh sát bắt giam vì các
hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân nghèo. Trong 32 ngày liên
tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi chật hẹp. Một hôm, ông tìm
cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao Paolo như sau:
Các bạn thân mến, tôi
không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau, nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà
Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau và sống với những anh chị em là
nạn nhân của bất công, sống với những người mà, sau hai ba năm bị giam giữ, họ
cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình phạt như vậy.
Tuy nhiên, mỗi ngày có
một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong
mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên Chúa của tình yêu thương, Đấng tha thứ
trên thập giá qua mọi thời đại: "Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không
biết việc họ làm".
Chúa Giêsu chịu khổ nạn
và chịu chết, đây không phải là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể
cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào hoặc để cảm thương cho Chúa của mình.
Chúa Giêsu chịu khổ nạn
và chịu chết vì mỗi người chúng ta và trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn
chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất vả và cái chết của cuộc sống con người.
Những đau khổ, vất vả, sỉ
nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn
và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp
con người nữa; thân phận phải chết của con người không còn là điều gì phi lý
nữa; những vất vả không còn là gánh nặng xiềng xích con người nữa.
Tin vào Chúa, người kitô
hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc
đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của thần chết bằng tình yêu tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trở thành người
để đến với con người,
Chúa đã chịu bao khổ đau
để cùng chia sẻ
những đau khổ chất chồng
của cuộc sống con người
Chúa đã chịu chết
như bao nhiêu tội nhân,
như bao nhiêu bệnh nhân
như bao nhiêu người khác
đang chết.
Và lạy Chúa Giêsu,
Ngày hôm nay Chúa lại
hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này
để đến với con.
để chia sẻ gánh nặng của
con,
để cùng con chết đi hằng
ngày vì những khổ đau của con.
Con chẳng biết nói gì
hơn lời tạ ơn,
tạ ơn vì đời con có Chúa.
22. Bạc
bẽo
Trong giây phút này,
chúng ta thử chiêm ngắm cảnh tượng Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một
cách long trọng. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Ngoài ra còn có nhiều người
trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính theo phong tục
vùng Cận Đông.
Tiếng reo hò vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là
vua thuộc dòng dõi Đavid, Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Chúa Giêsu lặng lẽ
để dân chúng tung hô. Ngài để cho lời tiên tri Giacaria được ứng nghiệm:
- Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ
Giêrusalem hãy hân hoan reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi.
Ngài là Đấng chính trực, toàn thắng, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa.
Quả thực, Ngài là Vua, nhưng rồi đây, người ta sẽ biết cách thức
làm Vua độc đáo của Ngài. Đó là qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Sau những giây phút tưng bừng và náo nhiệt này, Phụng vụ hôm nay còn để lại nơi
chúng ta một nỗi buồn thấm thía, bởi vì trong thánh lễ chúng ta được nghe đọc
bài thương khó. Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là
để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Từ hai sự việc
trên chúng ta rút ra hai điểm chính yếu để suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là, theo thánh
Gioan, đám đông đón rước Chúa hôm nay là những người đã nghe biết hay chứng
kiến việc Ngài làm cho Lagiarô sống lại. Chắc hẳn những người này đã thực lòng
tung hô Chúa như vị cứu tinh. Thế nhưng cũng chính đám người này, sau đó một
vài ngày khi Ngài bị đem ra trước Philatô, thì không thấy một người nào dám lên
tiếng bênh vực cho Ngài, thậm chí còn có những người kêu gào:
- Đóng đanh nó vào thập giá.
Đúng như tục ngữ Việt Nam đã diễn tả:
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Biết đâu chính chúng ta lại chẳng cư xử bạc bẽo như vậy với
Chúa, bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta cũng lớn tiếng kêu gào và đóng đanh
Chúa một lần nữa vào thập giá.
Điểm thứ hai, đó là phải can đảm
và kiên nhẫn bước theo Chúa. Thực vậy, đi theo Chúa Giêsu trong một vài giờ
rước lá là điều không khó khăn cho lắm, biết đâu còn là điều thích thú nữa.
Kinh nghiệm cũng cho hay: Bước theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng
là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục bước theo Ngài khi Ngài bị mọi người bỏ rơi và
kết án, điều đó khó hơn nhiều. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo
Đức Kitô thì chắc chắn có những lúc chúng ta nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải
đến nơi mình không muốn đến.
Con đường theo Chúa có những lúc vui và cũng có những lúc buồn.
Nếu chúng ta đã có mặt trong đám đông tung hô Chúa khi Ngài vào thành
Giêrusalem, thì cũng không được thiếu vắng khi Ngài vác thập giá và chịu chết
trên đỉnh Canvê. Đừng sống theo kiểu:
- Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Hãy trung thành bước theo Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài ở
mọi nơi và trong mọi lúc vì ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu thoát.
23. Lễ
lá
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta
hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu
xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của
nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên
Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời
thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được
đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở
nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên
ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ
lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát
lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và
cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu
đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh
huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời
Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ
nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của
Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng
thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta
không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ
khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân
xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn
đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong
khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo
vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một
trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa
như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ
tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của
Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình
nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của
chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm
thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
24. Hoan
hô- Đả đảo
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành
Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm
có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu
lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên
thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu
tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt
những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò
tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ.
Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên
Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ
đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài
không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để
giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ.
Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài
tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ
sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa
Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài
đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng
trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết
trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau
của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ
Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay,
lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có
người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể
phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng
Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng
đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai
chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm
nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng,
ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn
có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh
có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một
cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của
Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin
tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán
ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để
lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó
roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây?
Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau
nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa
nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà
thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi
khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh
Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng
ta hoan hô “vạn tuế”
để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa
bình và tình thương của Chúa.
25. Suy Niệm
của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong thâm tâm, các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô
có nhìn nhận Đức Giêsu là vô tội không? Tại sao họ lại kết án Ngài?
2. Phi-la-tô rửa tay để làm gì? Ông muốn chứng tỏ điều gì? Có
thật là ông vô can trong việc đổ máu Đức Giêsu không?
3. Trong đời sống thường ngày, chúng ta có hành động theo kiểu
các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô không?
SUY NIỆM
1. Đức Giêsu bị án tử hình, dù ai cũng nhận thấy Ngài vô tội
Cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài không làm một điều gì nên tội, nhưng
Ngài đã bị kết án ở mức độ nặng nhất: tử hình. Lý do chính khiến Ngài bị kết án
chính là sự ganh ghét của giới lãnh đạo tôn giáo (x. Mt 27,18), và sự hèn nhát
của cơ quan công quyền mà đại diện là Phi-la-tô. Giới lãnh đạo tôn giáo biết
Ngài vô tội: «Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội
Đức Giêsu để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng
ra làm chứng gian» (Mt 26,59-60). Nhưng họ quyết tâm giết Ngài vì Ngài được dân
chúng mến phục và ủng hộ: việc đón rước Ngài vào thành long trọng chứng tỏ điều
ấy. Dân chúng còn đánh giá giáo huấn của Ngài cao hơn của họ: «Thiên hạ sửng
sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư» (Mc 1,22). Ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng ngày
càng lớn, lấn át ảnh hưởng của họ, và họ cảm thấy điều ấy rất nguy hiểm cho
«chiếc ghế» cũng như quyền lợi của họ. Vì thế, để tự bảo vệ, họ quyết tâm giết
Ngài, vì Ngài, mặc dù chẳng làm chi sai trái, đã trở thành đối thủ rất nguy
hiểm của họ.
Họ muốn giết Ngài, nhưng họ không thể tự ý làm điều ấy, vì làm
như thế họ sẽ bị chính quyền truy tố trước pháp luật. Họ đã khôn ngoan bằng
cách dùng chính tay chính quyền để giết Ngài. Và họ đã thành công. Phi-la-tô –
kẻ đại diện cho công lý, pháp quyền của đế quốc Rô-ma – biết Ngài vô tội: «ông
thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người» (Mt 26,27). Nhưng ông hèn nhát không
dám tha Ngài vì sợ quần chúng đang bị giới lãnh đạo tôn giáo sách động. Ông lo
sợ nguy hiểm cho «chiếc ghế» của mình, và ông đã chủ trương thà bảo vệ «chiếc
ghế» hơn bảo vệ công lý.
Điều đó cũng có thể thông cảm được với một người ngoại giáo như
ông, vốn không được giáo dục tâm linh như các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng điều
đáng ghê tởm là sự thiếu thẳng thắn và giả hình của ông: ông «lấy nước rửa tay
trước mặt đám đông mà nói: «Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người
liệu lấy!». Ông là đại diện cho công lý mà không chịu lên tiếng bênh vực công
lý, để cho công lý bị chà đạp. Tội của ông rành rành ra đấy: đồng loã với sự ác
để giết một người vô tội, nhưng ông lại muốn được mọi người coi là vô tội. Ông
muốn biện minh cho hành động vô trách nhiệm của mình. Thật ra, cứ nhận rằng
mình hèn nhát, mình ham địa vị thì lại đỡ tội, nhưng ông lại còn muốn tỏ ra
mình vô tội, nên tội ông nặng lên rất nhiều. Tương tự như ý nghĩa của câu: «Nếu
các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng:
"Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41). Trước mặt
Thiên Chúa, chính cái tội giả hình, «muốn tỏ ra mình vô tội» ấy còn nặng hơn
tội hèn nhát và vô trách nhiệm kia rất nhiều. Khi tôi còn nhỏ, hễ tôi phạm một
lỗi nào, cha tôi chỉ đánh một hai roi, nhưng nếu đã phạm mà lại chối, thì lỗi
nặng lên gấp hai ba lần, có thể bị phạt tới 5 hay 10 roi, vì đã phạm tới hai
lỗi, mà lỗi sau nặng hơn rất nhiều.
2. Ta có hành động như thế không?
Thấy người lại nghĩ đến ta. Ta thấy Đức Giêsu đã bị giết bởi
giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái vì lòng ganh tị của họ và bởi Phi-la-tô vì sự
hèn nhát của ông. Nhưng liệu ta có hành động như thế đối với các ngôn sứ đồng
thời với mình không? Có thể ta sẽ nói như bọn kinh sư ngày xưa: «Nếu như chúng
ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà
đổ máu các ngôn sứ» (Mt 23,29). Nhưng họ có ngờ đâu họ lại phạm chính tội mà tổ
tiên họ đã phạm, cái tội mà họ đang dựa vào để chê trách tổ tiên. Và họ còn
phạm nặng nề hơn tổ tiên họ rất nhiều, vì họ giết chính Đấng Mê-si-a mà họ đang
trông chờ. Tại sao? Chỉ vì cái mối tội muốn bảo vệ «cái ghế» của mình hơn bảo
vệ công lý, mối tội ấy họ cũng có không kém gì cha ông mình. Và cái mối tội thứ
hai còn lớn hơn thế nữa là đã có tội, lại còn muốn chứng minh mình vô tội. Khi
muốn chứng minh mình vô tội, hay muốn biện minh cho tội của mình, người ta dễ
có khuynh hướng tìm cho ra một tội nào đấy để gán ghép cho kẻ vô tội mà mình
không muốn bênh vực, hầu chứng tỏ sự im lặng hay kết án của mình là hợp lý. Rất
có thể ta cũng đang hành động như thế trong đời sống thường ngày của ta. Nhiệm
vụ làm chứng – tức chức năng ngôn sứ – mà ta đã lãnh nhận khi lãnh bí tích rửa
tội, thêm sức, hoặc truyền chức đòi buộc ta phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho
chân lý, công lý và tình thương. Nhiệm vụ hay chức năng ấy đòi hỏi ta phải sống
đúng điều mình chủ trương và rao giảng. Ta rao giảng rằng những thực tại siêu
nhiên, những giá trị tâm linh cao quí hơn những thực tại trần gian, thậm chí
hơn cả mạng sống: «Được cả thế giới mà mất linh hồn thì ích lợi gì?» (Mt
16,26). Nhưng trong đời sống thực tế, qua hành động và cách sống của ta, ta lại
đích thực coi những thực tại trần gian cao quí hơn những thực tại mà ta vô cùng
đề cao khi rao giảng. Ta sẵn sàng hy sinh những giá trị tâm linh để đổi lấy
những thực tại cụ thể của trần gian: tiền bạc, quyền lực, địa vị, lạc thú… Để
bảo vệ những thứ ấy, ta sẵn sàng phạm chính cái tội của các vị lãnh đạo tôn
giáo Do Thái sẵn sàng hãm hại hoặc giết «những Đức Kitô» trong chính thời đại
của chúng ta, hoặc của Phi-la-tô xưa đã im lặng đồng lõa để người vô tội bị hãm
hại. «Những Đức Kitô» ấy có thể là những kẻ thấp cổ bé miệng đang chịu đủ thứ
bất công trong xã hội cũng như Giáo Hội, có thể là những người công chính mà sự
có mặt hay hành động của họ đang ảnh hưởng bất lợi cho «cái ghế» của ta…
Nếu nhận ra mình đang lỗi bổn phận làm chứng theo chức năng ngôn
sứ của người Kitô hữu, ta hãy thành thực nhận lỗi của mình và tìm cách sửa
chữa. Không nên làm như Phi-la-tô, đã có tội lại còn muốn chứng tỏ mình vô tội,
khiến ta lại càng lún sâu hơn vào tội lỗi hơn.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con là người yếu đuối, con rất dễ trở nên hèn nhát.
Điều đó chắc hẳn Cha, cũng như Đức Giêsu, rất dễ cảm thông và tha thứ cho con.
Nhưng xin đừng để con hành động như Phi-la-tô, đã hèn nhát không dám bênh vực
người vô tội, để mặc người vô tội bị giết, lại còn rửa tay để chứng tỏ mình vô
tội. Xin đừng để con mắc tội giả hình như thế, là tội mà Đức Giêsu ghét hơn tất
cả mọi thứ tội. Amen.