CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM A
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM A
25. Hành trình theo Chúa Lm Carolo Hồ Bạc Xái
26. Ơn gọi biến đổi hình dạng Lm Giuse Đinh lập Liễm
27. Ý nghĩa đời sống ta là gì? Achille Degeest
28. Chúa hiển dung Chân Lý Á Châu
29. Chúa tỏ hiện vinh quang R. Veritas
30. Biến hình Richard Gutzwiller
31. Người con yêu dấu Fiches Dominicales
32. Biến hình Học Viện Đà Lạt
33. Bản tính khó dời Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
34. Núi vinh quang Sưu tầm
35. Nhỏ bé tầm thường Sưu tầm
36. Cõi phúc Sưu tầm
1. Những sự việc bình thường
“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”
Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là
Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa
Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng
dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách
một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi
người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng
và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con
người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà
các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được
kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục,
những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy
ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở
nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng
đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba
lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về
Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong
vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó
với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến
ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm
sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng
ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy
qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất
với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi
Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết
sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới,
tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật
bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ
lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn
tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự
việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng
nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?
2. Chúa biến hình
Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh
Taborê?
Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu
đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời
trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông
này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân
cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây
phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu
làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng
Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ
lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo
Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa
cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.
Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong
Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì
trên tôi.
Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác
biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là
để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
- Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các
ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở
nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
- Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng
nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng
phải rửa chân cho nhau.
Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình
là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được
chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh
nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay
quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới
mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của
chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái
nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta
đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những
hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?
Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị
xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm
hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng
được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.
3. Núi Tabor hôm nay – ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên
một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín
theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.
Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước
hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau
khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi
cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là
nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà
lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn
bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là
khởi điểm của cuộc Vượt Qua.
Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần
trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến
tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên
Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:
- Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;
- Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên
hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn...
- Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ
từ bỏ hơn.
Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm
vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi
chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn
đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình
yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển
dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn
hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng
trước mắt mọi người trong mọi thời đại.
Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng
cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình
để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp
chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.
4. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại hữu hình
Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí
vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn
là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn: "một nơi
riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ
thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác
định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có
nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc
biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm
nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều
kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã được xác định rõ
là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy
nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê +
Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.
Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở
lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức
do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này
trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng
là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm ngắm
Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình
thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn
ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm.
Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh
sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ
Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố
lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu
tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này
được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức
Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị.
Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông
sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng
tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan
đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối
cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết
rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu,
nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống
động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và
đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình
dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất
hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà
các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài,
nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời
xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã
bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những
lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây,
trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể
chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của
Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh
hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự
hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại
cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất
hiện.
Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia
không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người.
Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các
Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công
cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là
một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu
sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa
Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh
truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận
tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn
yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường
Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một
con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc
Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về
điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng
thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi
này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là
lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là
vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có
thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới
hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải
rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây
Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che
khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi
vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh
sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên
núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể
nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất
cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm
này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những
từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc
xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất
hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ
không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh
nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ
một đỉnh cao nữa.
5. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình
yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu
yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính
yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.
Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu.
Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên
ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người
thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh
hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.
Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người
phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo
hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn
luôn kề cận bên Người.
Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng
các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính
vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu
chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.
Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn
mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói
lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa
cao sang.
Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi
vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng
thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu
hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.
Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn
vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm
nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.
Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi
tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái
cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.
Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt
giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy
đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc,
những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.
Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình.
Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu
vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung
thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là
những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.
Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở
về đáy lòng mình để gặp được Chúa.
Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt
mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.
Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng
thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận
hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn
hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.
Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta
đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.
Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn
thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy
những thực tại vô hình. Amen.
6. Người biến đổi hình dạng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có
vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài
mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên
Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp
thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi
dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người.
Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang.
Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời
Người.”
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là
vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi
đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy
tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi
thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha
muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh
quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy
chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám
yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn
mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường
của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ
có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi,
chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội
Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm
tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn
không?
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình
của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ
qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp
Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười
của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán
nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và
với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
7. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu
lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc
lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng,
một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây
ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.
Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ
đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không
nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới
thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta
để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện
ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ
đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra
che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền
nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể
cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới
sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede
Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo
chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót
líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì
từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của
những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ
lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay
cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra
vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân
cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân
trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu
nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa
trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của
Ngài.
* * *
Theo Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên
núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời
về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn
thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài
dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả
Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài.
Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó
trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt
anh em thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu
Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và
một cho ông Êlia."
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng
nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.
* Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày)
trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng
mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng
chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh...
Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ
nên đã thốt lên:
"Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
* Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét
nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi
sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn
lớn...
* Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia
đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu thương hiệp nhất.
* Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh
chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ
lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của
Chúa chung quanh chúng ta.
Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen
nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy
nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là
chi thể của Chúa Giêsu.
Ba môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm
của Đức Giêsu thì chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển
dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận
được hạnh phúc chan hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như
thánh Phêrô xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc.
(Mt 17,4)
8. Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ
rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang
bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại
trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ"
(Mác-cô 6,3) hay "con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13,
55)
Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy
khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người
phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa.
"Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên
Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển dung
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các
môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy
làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt
qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc
lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng
láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại
như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi
cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi
như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông
thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám
mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người!"
Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên
ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô
biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ
khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy
giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là
hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông
Môsê, và một cho ông Êlia."
Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm
hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ
chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và
nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong
mỗi con người có ba "nhân vật" đang chung sống:
* Một là "tôi-là". Đây là con người thật
của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam,
ích kỷ, lười biếng…)
* Hai là "Tôi-muốn-là". Đây không phải
là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví
dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là
người quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là "Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng
không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ:
Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối
trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt
thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu
mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người
đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến
một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt
mình; lúc bấy giờ tôi mới "hiển dung", mới hiện nguyên hình là một
tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào
đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng - vai
"tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật
là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải
thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải "hiển dung" (tức là bộc lộ chân
tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân
dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng
ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung
trên núi với ba môn đệ năm xưa.
9. Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa
Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu
Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa
thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên
được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm
người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong
tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và
không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa
và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn
hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống
trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu
phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con
là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến
hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng
Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết,
Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình
an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và
bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh
xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an
cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa
lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết
và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà
ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh
nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân
lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi
đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo
trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men
trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng
thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng
hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi
tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và
bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến
những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật
trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.
Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh
họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được,
người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng
biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ
uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử
cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên
dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc
lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không
gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi
đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên
cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài
người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị
người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt,
nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử
hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và
giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa
Giêsu lại nói với người Do-thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi,
sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự
sống."(Ga.
8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô
đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát,
bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài
chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác
phàm.
Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các
ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của
Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên
Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân
và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa
Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú
nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn
năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải
người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con
Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như
tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp
nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được
ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp
mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông
đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt.
17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.
Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh
quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời
giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở
lại với vinh 59
quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con
đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con
người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta.
Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa
Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng
nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và
sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4).
Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta
hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn
nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ
cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua
đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy
đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy
gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin
cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi
xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo
con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao
phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng
là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế
của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả
mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho
tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống
thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.
Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta
hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện
tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của
Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn
ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết
vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ
và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.
10. Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên
Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi
phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với
mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm
người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh
mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái
đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có
ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá
lớn nuốt cá bé". Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là
hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự
khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau
và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn
vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử
sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem
thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình
không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống
anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám
đối mặt với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
- "Thế mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng
lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng
xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng.
Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn
nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ
lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng
hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để
cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời
mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé
chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn
sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh
của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt
với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ
không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa
sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn
sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con
cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có
nhau", nhưng lại "bới lông tìm vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan
thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã
che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là
Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm
ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung
nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng
ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời
nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa
nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi
sơ tính bản thiện" của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi
sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu
của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi
bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một
hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao
đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi
phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm
giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì
một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá
của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội
lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ
nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
11. Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho
chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và
Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những
người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài
bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm
tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt
tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ
mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các
câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu
thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể
làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc
Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa
Giêsu quở trách nặng lời như sau: "Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản
lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài
người". Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính
nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai
ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy
những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông,
nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã
đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh
quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba
ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm
cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ
say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các
ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của
Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên
Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt,
Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có
mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là
Con Yêu Dấu của Ngài.
Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây,
chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy
hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã
được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời
sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã
phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn
chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian
này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ
quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan
tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như
Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta
với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác
nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta
chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta
đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu
chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa
đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được
Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.
Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người
chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa,
nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại
thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm "Lời Dâng" như sau:
"Anh không nghe thấy ư?
Bước chân Người thầm lặng
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi".
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa
dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc
con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng
nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những
kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con
hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.
12. Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ
ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm
giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt
16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo
trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố
Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21;
17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng
đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba
lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình
dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc
khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm
gì.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ
đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với
những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9
qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời
gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi
riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với
những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày
này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi
cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được
tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn
không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi
tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố
tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần
ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một
biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ,
thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân
vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo
với nhau.
(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh
cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là
một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa.
Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống
và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn:
“Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho
tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một
biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy
nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người
qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được
tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã
thấy.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường,
những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên
Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn
ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên
Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người
được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng
thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa
làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen
dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ
figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng
Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân,
từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình
dạng”.
Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là
ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể:
“Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như
ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ
có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như
ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh
sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ
ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của
Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh
quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài
người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống
thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến
về thế giới thần linh bằng các từ: “như”,
“giống như”,
“tựa như”...
còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở
Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một
Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung
quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có
cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như...”, “như...” còn thực
sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy
“thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so
sánh “như”:
“Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức
Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng,
chỉ là “như”,
“giống như”
mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng
thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en
ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế
kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có
trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương
quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau,
như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm
đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật
là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho
ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ
muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước
vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật
đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba
môn đệ là người phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người,
cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám
mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe
lời Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải
bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng
cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này
có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố
trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc
khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng
lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù
chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả
hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời
sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy
vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng
phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua
mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa
Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và
một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”
Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát
ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với
Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và
cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi
lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình
trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.
Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân
và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy
nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở
thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ”
trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc
biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và
Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý
này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các
trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố
trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người,
các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã
đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi,
đừng sợ”,
các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những
gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức
Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở
đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao
báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có
Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra
lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và
lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả
năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm
tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn
tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi
cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây
là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực
sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để
ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để
biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu)
hay không?
Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy,
và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời
gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến
với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem
lại ý nghĩa cho cuộc đời này
13. Chúa hiển dung bộ mặt nào?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến
cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và
được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ
không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải
gói ghém trong đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển
Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một
thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích:
Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu
đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ
nói chung, cách riêng Phêrô - một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã.
Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược
lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá
Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn
có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là
điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan
niệm thế, phải qua thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói
như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện
như một phần thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người
ta quan niệm, thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự
như đau khổ là con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp
vinh quang phục sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức
mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không
thể trong đau khổ thập giá.
Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố
Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai
ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với
Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31).
Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn - phục sinh
của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi
chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải
Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là
‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem
Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung - thập giá mới được Chúa Cha từ
trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi
hãy vâng nghe lời Người!”
Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là
điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc
8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu
lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai
hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa
và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong
khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập
giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa,
và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót
thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu
lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.
Vì vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của
Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời
gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh
quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo
sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm
của mùa chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và
chết chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ
của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như
thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua
đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của
Thiên Chúa.
Mùa chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là
dịp để khám phá và củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?
Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá theo chân Chúa là
Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của
Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá là
biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu
vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của
Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia
nghiệp duy nhất của đời con. A-men
14. Đường về đỉnh vinh quang
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế
này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người.
Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không
có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình.
Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là
một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ
vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ
trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật
dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn
quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong
các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt
kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt
được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán
thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói:
“Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa
chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi
Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình
Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân
vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà
Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục
Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người,
đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về
cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và
ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành
tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ -
“nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng
tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể
“nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ
bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để
các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi.
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong
cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở
nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ
của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết
của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán
thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói:
“Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa
chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng
của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối
diện với chính mình.
Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy.
Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải
nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng
tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương
của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể
phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến
hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc
chắn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương
trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác
tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và
hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú
ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về
phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ
trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu
Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy
thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp
hòi, “chết đi con người cũ”,
đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản
năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt,
con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều
ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng
của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!”
(Mt.16,23).
Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta
mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa
mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên Chúa.
Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo
đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống
trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành
chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như
Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được
về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến
muôn đời.
Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là
dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng
đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr.
2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân
yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút
mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã
tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm
một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều
chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc.
Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai
quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa.
(Ga.6,66).
Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống
vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc
đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
15. Biến hình
(Sưu tầm của Linh Xuân Thôn)
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời
của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện,
tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
biến đổi thế giới này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua
mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu
nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi
những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên
đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau:
"Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con."
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ
ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
***
Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại một cuộc
biến đổi. Đó là cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu trên núi Tabo. Trong ngày
hôm đó, Đức Giêsu đã mang theo các môn đệ thân tín của mình là các ông Phêrô,
Giacôbê và Gioan. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi,
tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông (Mt.17,2).
Trong cuộc biến hình đổi dạng đó, Ngài cởi bỏ thân phận con
người để mặc lấy Thiên Tính của Thiên Chúa. Ngài cho các ông được nhìn thấy
vinh quang Con Một Thiên Chúa, để thêm lòng tin cho các ông.
Hơn hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã biến hình trên núi Tabo.
Cuộc biến hình của Ngài vẫn còn tiếp tục diễn ra hằng ngày cho đến ngày nay.
Ngài biến hình qua bàn tay của Linh mục trong các Thánh lễ. Ngài biến hình từ
tấm bánh nhỏ bé để trở thành xương thịt của Ngài. Ngài biến hình từ những giọt
rượu nho để trở thành những giọt máu đào đã đổ ra trên đồi Golgotha
năm nào để cứu chuộc con người.
Ngày nay Đức Giêsu cũng mang tôi và bạn đi riêng ra một chỗ.
Ngài không mang tôi và bạn lên núi Taboo như mang Phêrô, Giacôbê và Gioan xưa
kia, nhưng Ngài mang tôi và bạn đến trong các Thánh lễ, đến trong các giờ chầu
Thánh Thể, đến trong các bí tích mà ta lãnh nhận… nơi đó Ngài dành cho ta những
giây phút thinh lặng thánh thiêng mà chỉ có một mình ta với Ngài, nơi đó Ngài
cũng biến đổi hình dạng để thêm lòng tin cho ta, và cũng nơi đó, Ngài ban cho
ta lòng mến, sự tin yêu cậy trông phó thác, và nhất là sức mạnh để ta bước đi
theo Ngài trên bước đường lữ thứ trần gian này.
Hôm nay, Đức Giêsu mời bạn và tôi cùng “biến hình” với Ngài.
Biến hình không phải là trở thành cái gì xa lạ khác thường, nhưng biến hình là
để trở về với cái tôi sâu thẳm của chính mình: “Tôi là con yêu dấu của Thiên
Chúa”. Đó là ơn được làm con cái Thiên Chúa, là ơn Thánh Sủng, là ơn cao trọng
nhất của người Kitô.
Biến hình với Đức Giêsu là thay đổi cuộc sống của ta, là biến
đổi tâm hồn ta, là mang vào lòng ta một trái tim mới, trái tim của yêu thương,
của tin tưởng và cậy trông phó thác.
Biến hình với Đức Giêsu là vất bỏ ý riêng của ta, là chấp nhận
và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là lên đường bước đi với Chúa trong tình yêu
và ân sủng Ngài ban.
Biến hình với Đức Giêsu là từ giã con người tội lỗi yếu hèn của
mình, là trở nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn.
Lạy Chúa Giêsu! Xin ban ơn giúp sức cho con để con cũng
được “biến hình” với Chúa trong Mùa Chay Thánh này, để con được trở nên giống
Chúa mỗi ngày mỗi hơn, và để con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con rằng:
“Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con…” (Mt.17,5). Amen
16. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu
vừa củng cố quyền bính của các tông đồ.
I. NGỮ CẢNH
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng
một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22)
và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người
(Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu
giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao”
(4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới
từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”
(4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn
đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến”
(28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền
trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi
loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ
Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra
trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên
Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy
ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo
đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung
vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục
Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của
Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật
lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức
Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn mạch gần:
cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23;
17,22-23).
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị
làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như
cũ;
3) Kết (17,9).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh
24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo
Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan
(1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
- một ngọn núi cao (1): Một quả
núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một
Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật
ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc
biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người
thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công
bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một
gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).
- biến đổi hình dạng
(metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất
quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.
- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà
linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê
thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng
có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói
chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết
này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- đám mây sáng ngời bao phủ các ông
(5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao
phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của
Đức Chúa (YHWH) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh
40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- tiếng từ đám mây phán
(5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về
ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11
….
- Đây là Con yêu dấu của Ta
(5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con”
trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và
hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi
(6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ
không phải do thấy thị kiến (Mc).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ
proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần
trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu
(ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các
môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
|
Mt 28,16-20
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người, nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông: 19 “…toàn quyền…” 20 Thầy ở cùng anh em
mọi ngày”
|
- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do
động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với
các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển
trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là
nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn
kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu,
thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung
cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng
một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại
ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau
chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và
làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người
lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16,
trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên
Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi
ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một
ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh,
người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và
ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện
bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách
vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt
trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin
Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi
cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự
thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm
chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ
kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời
hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin
Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến
hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc
thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14).
Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề
Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc
9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã
nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không
được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc
9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem,
thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia
tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi
chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là
tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt
sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một
lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên
Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên
Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều,
ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng
vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho
“thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo
cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa.
Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là
liên minh Satan (16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước
vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế,
các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được
đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của
Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời
giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai”
(Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và
xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần
chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là
một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã
phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải
là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã
xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn
chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra.
Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến
tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau
khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn
một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên
Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến
mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi
Êlia trở lại (x. 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn
này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình
huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ
gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con
đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ
sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của
Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu.
Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung
của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong
lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu
vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của
Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng
quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ
Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và
được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa
giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là
những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và
biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và
cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch,
trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong
đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất
có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô
mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là
ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người
phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa
hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những
lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là
những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở
thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không
từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính
tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta
phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (YHWH) mà là Đức Giêsu,
Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại
không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh
quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời
của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người
đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây
thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm
tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao
phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ
mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ
chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi
Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta,
là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình
đích thực của Thiên Chúa.
17. Dõi theo bước Chúa – R. Veritas
(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san
đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với
những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành
trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy
có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền
núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác
hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ
xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu
lên với Đấng Tạo Hóa.
Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng
gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san
miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp
quá chừng!”.
Thưa anh chị em,
Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn
giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần
Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên
núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón
nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp
Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel
để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay
tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên
núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.
Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín
nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao,
Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ
trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện,
như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập
giá dẫn đến vinh quang.
Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại
đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải
đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và
Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua
khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn
đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối
đang chờ đợi trước mắt các ông.
Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra
sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời
tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của
Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy”
(Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô,
là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm
liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau
khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối
với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng
lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ
đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực,
lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan
cám dỗ Chúa trong sa mạc.
Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở
lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà
ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa
Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức
các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn
như Thầy đã báo trước.
Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn
sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại
Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý
mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán
thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy
đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ
khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh
quang Phục Sinh.
Anh chị em thân mến,
Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin
Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa
chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh
của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây
phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên
các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được
Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta
biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.
Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi.
Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy
chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống
lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là
“qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh.
Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng
của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây
phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao
của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở
đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những
gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến
đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu
đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp
nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như
thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.
Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên
đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh
sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của
chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.
18. Biến hình – Richard Gutzwiller.
(Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’)
Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô
đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong
vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh
khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ
vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng
rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước
hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa
đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh.
Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy
vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau
khổ là bằng chứng của tình yêu.
Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài
trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy
diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta
cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật
chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời
như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.
Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập,
hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng
Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này
ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái,
nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô
ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong
Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất
Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm
không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ
có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.
Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc
phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương
đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm
họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của
Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện
của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên
tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng
vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các
tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến
hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển
được trường tồn.
Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để
hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau
khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa
đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh
quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh
quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự
chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp
họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày
Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm
tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự
hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này
vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm
nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây
giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội
các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng
lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là
ấm tử.
Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp
yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng
rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ
dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã
điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn
giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ
hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào
ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời
gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút
hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh
phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục
sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống
đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn
thời gian chung kết.
Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả
Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm,
siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời
gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh
phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi
đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.
19. Con yêu dấu
Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha
đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình những hai lần.
Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến
lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi
nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời
có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm
ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã
biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê
và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong
đám mây có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người
con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:
- Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng
Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.
Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế
làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ
cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và
thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng
Giacob:
- Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.
Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên
thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:
- Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội,
chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được
vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có
sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên
khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng
chói.
Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết
do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa
tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp
nước trời.
Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta
cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh
lạy Cha:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền
năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc
ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.
Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa
đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là
chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những người con yêu dấu của
Chúa.
Muốn được như thế chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô,
bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là
một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là
đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.
Bởi đó, để trở thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta
cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ
qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những
điều giáo huấn của Hội Thánh.
Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới
tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:
- Này là Con Ta yêu dấu.
20. Khuôn mặt
Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày
không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban
ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn
lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong
làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé
đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc
một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố
gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn
sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ
không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi
lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với
ông.
Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao
nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ
chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên
đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười
với ông.
Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong
sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời
sáng giữa ban ngày.
Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành
thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói
lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).
Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha
và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu
dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.
Đức Giêsu biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là
để các ông cảm nghiệm được trước vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn
lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người
trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ
Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.
Người kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng
cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức Kitô.
Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh
bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô
vị lợi.
Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng
ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em.
Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi
chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.
Người tín hữu thường nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng
đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản,
an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của
Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương
vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn
đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô
giá là vinh quang Phục sinh rạng ngời.
Mùa Chay là mùa sám hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi
con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ
khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay
tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu thương.
Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt
sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong
sự tha thứ.
Canh tân là lao mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc
đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân
cho cuộc đời.
21. Phêrô
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ
của Phêrô.
Như chúng ta đã thấy: trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng
với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã vui mừng hớn hở thưa lên:
- Lạy Thày, được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin
làm ba lều.
Thế nhưng sau đó, cũng chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa
khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời
quở trách:
- Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần
thế mà chẳng biết chi những việc thuộc về Thiên Chúa.
Rồi cũng chính Phêrô trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối
Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của
Phêrô cũng là thái độ của người đời như tục ngữ đã nói:
- Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Đúng thế, khi chúng ta có tiền và có quyền thì cũng thường có
nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm.
Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi
cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm đến.
Hay như tục ngữ cũng nói:
- Thấy người sang bắt quàng làm họ.
Thế nhưng khi tiền hết và quyền hết thì tình cũng thường chắp
cánh bay cao:
- Hết cơm hết gạo hết ông tôi.
Không những hết tình mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ
trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm
leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm thầm và cay đắng ghi nhận:
- Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu trách:
- C’est la vie, đời là thế.
Tuy nhiên chúng ta đừng vội trách người cũng như đừng vội trách
đời, mà hãy trách chính bản thân chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái
độ của chúng ta đối với những tha nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.
Thực vậy, kinh nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc
chúng ta dường như cảm thấy Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng
khi gặp phải những gian nguy thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại
cảm thấy Thiên Chúa thật xa vời và độc địa như lời thơ cổ:
- Trẻ tạo hóa đành hanh chi ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Rồi từ đó chúng ta bực bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên
Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ
không muốn bước theo Chúa lên đỉnh Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh
quang, chứ không muốn đóng đinh mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua
cặp kính màu đen tuyệt vọng, chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy
và coi thập giá như phương tiện cứu độ.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng:
- Đỉnh Canvê mới chính là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu
độ của mình, mới chính là nơi để Ngài gieo mầm phục sinh cho nhân loại.
Là môn đệ của Chúa chúng ta không có một con đường nào khác
ngoài con đường thập giá, như lời Ngài đã nói:
- Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày
mà theo ta.
Chúng ta không dừng lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với
Đức Kitô tiến vào vinh quang và phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá
nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc
phải là điểm kết thúc cho con đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải
sẽ kết thành cây thập giá đời thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây
thập giá đời thường ấy sẽ là con đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
22. Thập giá
Anh chị em có biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta
không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa
Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa
đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng,
bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài,
nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong chúng ta không có gì đáng sợ.
Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá
bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần
trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và
nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái
nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế
mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược.
Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập
giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình
hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở
đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín
lên núi, cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng
của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì
được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.
Chúng ta có thể đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy
cây thập giá làm cho các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau
cây thập giá có gì. Cũng vậy, sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở
trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy
mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào
trong vinh quang của Ngài sao?”.
Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ
điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên
điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng
sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa
không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ
có đi theo Chúa, chúng ta mới tới được vinh quang ở phía sau cây thập giá.
Cuộc sống có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng
bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù
sì và những lời độc địa, chát chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi
cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có
một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh
lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới
cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản
muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải
kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”.
Những lúc ấy chúng ta phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết
ánh sáng đức tin, để thấy được đằng sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng
vào Đấng đang vác thập giá đi đằng trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng
chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn
hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với
Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui,
chúng ta cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong
Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng
ta biết sống với Ngài trong ngày hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô
đơn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết
sống trong Ngài khi trắng tay…
Điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một
mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu
hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá
của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh
tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng
ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống với Ngài”.
Như vậy, Chúa Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin của các môn
đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ
nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy
để đem lại cho các ông một niềm tin và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc
Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới
vào vinh quang. Chính Thầy của các ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau
khổ mới bước đến vinh quang thì các ông cũng phải đi theo con đường đó: không
thể đến cõi hằng sống mà không phải qua đau khổ, thử thách.
Sống ở đời, không ai trong chúng ta tránh được những đau khổ
chúng ta gọi là những thánh giá mà Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn
phải vác thánh giá của mình. Ngay chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm
thấy những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu
biết vác cho nên, với một thái độ khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở
bên chúng ta, và sẽ thưởng công cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình,
chúng ta không trông thấy, nhưng chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ
nở ra trong đời sau và trong thế hệ con cháu chúng ta.
23. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục
đích của cuộc hiển dung là gì?
2. Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu: «Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!». Nội dung của lời
giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào?
3. Vâng nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi
ích gì?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giêsu
Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu
nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giêsu.
Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả,
thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho
những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.
– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong,
một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều
ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.
– dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay
thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.
– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự
quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.
– Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất
tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Môsê, nhà làm luật, tượng trưng cho
luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật
pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất
trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời
của Đức Giêsu. Môsê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên
báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Êlia là nhân vật mà Thiên
Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian
(x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động
nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giêsu.
– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người
đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh
Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho
mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái
qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay
Gia-Vê thường hiện ra với Môsê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra từ đám mây: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài
lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!»: Đây là dấu chứng mạnh nhất,
vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà
mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu
«Con Yêu Dấu» của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?
2. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giêsu
Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm
tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng
cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã
mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông
tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế
mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về
Đức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao
giảng ấy. Thánh Phêrô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để
mọi người tin vào lời chứng của mình: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em
biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không
phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì
chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người
đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng
tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý
mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở
trên núi thánh với Người» (2Pr 1,16-18).
Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các
tông đồ vào thiên tính của Đức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin
mỗi người chúng ta. Đức tin được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm,
chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm
sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.
3. «Hãy vâng nghe lời Người!»
Qua biến cố hiển dung, Đức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho
chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc
vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng
Môsê và Êlia, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng
tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: «Đây là Con yêu
dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!».
Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng,
gồm 3 điểm sau đây:
a) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và
cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên
Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy
uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.
b) Đức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha
tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín
và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta «hãy vâng nghe lời Người!».
Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và
quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với
ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng
nghe lời Đức Giêsu.
Thánh Phêrô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giêsu và
đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của
mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời
đem lại sự sống đời đời» (Ga 6,68). Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận: «Ai tuân
giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết» (Ga 8,51). «Không bao giờ phải
chết» ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.
4. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giêsu
Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Đức Giêsu chính là có được
sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua
thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có
thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí «tại đây và lúc này» (hic et nunc)
một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu:
«Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống
đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống
tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu
thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của
thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự
bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào
hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để
chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan
niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói
năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát
triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được «hạt
giống sự sống đời đời» ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có
được «cây sự sống đời đời» ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy
vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có
khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một
cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.
24. Chú giải của Noel Quession
Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa
nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.
Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi
dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị
cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu
của Người, thiên tính của Người.
Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc
quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại
hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn
biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất
bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân
thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ
Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không
ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2;
12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình
giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn
đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ
xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.
Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị
nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và
các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói:
Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng
tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng
lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức
Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu
khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh
quang của Con Người...” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà
cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.
Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan
là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một
ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một
lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không
gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới
thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các
đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng
tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?
Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu
thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được
chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên
Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không
phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các
ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của
nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét,
xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu.
Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền
Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ
đi gặp Thiên Chúa ở đâu?
Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như
thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên
Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9)
được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh
sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa
chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt
mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn
nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở
trong hình dạng Thiên Chúa,... đã lấy hình dạng con người đầy tớ... (Pl 2,6-7).
Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng
phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.
Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo
với Người.
Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về
mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất
với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức
Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của
Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng
con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho
Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu
ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả
quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai
nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các
Ngôn sứ…
Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người
phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng
Mêsia (Mt 17,10-13).
Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn
ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong
cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều...”. Chúng ta cũng
thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các
ông.
Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12;
Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây
một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám
mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời
lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu
tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể
chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy
Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày
lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các
nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất
“shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.
Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta.
Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính
nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một
sự hiện ra... đây là một đám mây... đây là một tiếng nói...”. Trong Kinh Thánh,
đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó!
Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.
Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức
Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu.
Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người
khởi đầu tác vụ của Người... bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu
quả đi theo.
Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp
chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi
biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.
Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ
Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu)
các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản
xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có
biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ
Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một
thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và
sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ
phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải
chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ.
Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì
chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy.
Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta
lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình
Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho
các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi
chết trỗi dậy”.
Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có
chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng
Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ
đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất... mà để làm
cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông
phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày.
Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những
bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó
ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi
một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát
trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng
ta, với kỷ niệm...