(c. 156)
Thánh
Polycarp - trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy - được
công nhận là vị lãnh đạo Kitô Giáo bởi tất cả các Kitô Hữu thuộc Giáo Hội Tiểu
Á.
Là môn
đê của Thánh Gioan Tông Ðồ và là bạn của Thánh Ignatiô ở Antioch, Thánh
Polycarp, Giám Mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo
đáng kính của Kitô Giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai.
Tuy
nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà
thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy
không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào?
Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có?
Khi các
tông đồ không còn ở trần gian nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang
chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn
đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.
Polycarp,
một người thánh thiện và là giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời -
trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói
với Thánh Polycarp "linh đạo của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên
một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi."
Khi đối
diện với lạc giáo, Thánh Polycarp có "bộ mặt bộc trực" đến nỗi Thánh
Ignatiô phải thán phục, vì ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người
Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên (*), khi đối chất với Ðức
Polycarp đã yêu cầu ngài thừa nhận họ, "Polycarp, hãy thừa nhận chúng
tôi." Ðức Polycarp trả lời, "Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận
ngài là đứa con của Satan."
Trái lại
khi đối diện với các bất đồng của Kitô Hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng.
Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục Sinh. Ðông Phương,
là xuất xứ của Thánh Polycarp, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương Khó của
Ðức Kitô tiếp theo sau bằng một Thánh Lễ vào ngày kế tiếp. Tây Phương cử hành lễ
Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi Thánh Polycarp đến Rôma
để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến.
Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô Giáo. Và Ðức
Anicetus đã yêu cầu Thánh Polycarp cử hành Thánh Lễ ngay trong nhà nguyện của đức
giáo hoàng.
Thánh
Polycarp đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của
ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát "gương phúc âm" - không tìm
cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi
thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giêsu Kitô đã làm. Họ coi đó là "một dấu
chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng
còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu."
Trong
thời kỳ đẫm máu tử đạo Kitô Hữu trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng
đòi hỏi phải tìm bắt Thánh Polycarp, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh
Polycarp thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại
gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thết đãi
họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường.
Thấy đức
tin vững vàng không lay chuyển của Thánh Polycarp, quan thống đốc ra lệnh thiêu
sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một
phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như
các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy
trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm
ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa.
Quan thống
đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ
Thánh Polycarp mà không thờ tà thần của người Rôma. "Chứng từ" tử đạo
của Thánh Polycarp là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của
người tín hữu Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 156.
Trong
nhiều lá thư của Thánh Polycarp, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo Hội
Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.
Lời Bàn
Thánh
Polycarp được công nhận là vị lãnh đạo Kitô Giáo bởi tất cả các Kitô Hữu thuộc
Giáo Hội Tiểu Á - một thành trì đức tin vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu
Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động
của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo
và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài.
Cũng như vị Mục Tử Tốt Lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ
họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược
trong câu nói trước khi chết: "Lạy Chúa Cha... Con ca tụng Ngài, vì đã
giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này..." (Sổ Tử Ðạo, Chương 14).
Lời Trích
"Hãy
vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, 'trung kiên trong đức tin, yêu
thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,' giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của
Chúa, đừng khinh miệt một ai" (Thánh Polycarp, Thư Gửi Tín Hữu Philippi).
(*) Marcion chủ trương có hai Chúa. Một
Chúa trong Cựu Ước thì khác với Chúa của Tân Ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên
Chúa trong Tân Ước.