CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT TUẦN 7 MÙA THƯỜNG NIÊN – năm A
CHÚA NHẬT TUẦN 7 MÙA THƯỜNG NIÊN – năm A
Lời Chúa: Lv
19,1-2.17-18; 1Cr 3,16-23; Mt 5,38-48
MỤC LỤC
1. Yêu thương kẻ thù
2. Yêu thương kẻ thù
3. Tha thứ kẻ thù
4. Trở nên con cái Chúa
5. Thiên Chúa là tình yêu – Cố Lm Hồng Phúc
6. Hãy hoàn thiện như Chúa
7. Sống chữ Nhẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
8. Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?
9. Hãy nên hoàn thiện
10. Suy niệm của Lm. Anrê Đinh Duy Toàn
11. Yêu thương thù địch - điều không dễ chút nào
12. Luật của tình yêu toàn thiện
13. Hãy nên trọn lành như Cha trên trời
14. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành
15. Lòng bao dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà
16. Tha thứ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
17. Bão lòng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
18. Tình yêu vượt ra khỏi mối hỗ tương.
19. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu
20. Yêu kẻ thù
21. Chúng ta có tiến bộ tí nào không? Charles E. Miller
22. Yêu kẻ thù là thánh. Lm. ViKiNi
23. Sống bằng yêu thương Lm Carôlô.
24. Nên hay dừng? - JM. Lam Thy
25. Yêu thương tha nhân không giới hạn
26. Anh em đã nghe Noel Quesson
27. Làm thánh sống - Trầm Thiên Thu
28. Mở toang cửa lòng – Thiên Phúc
Tình yêu đáp lại hận thù ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Sống bằng yêu thương LM Carolo Hồ Bạc Xái
Hãy yêu thương kẻ thù Lm Giuse Đinh lập Liễm
Sức mạnh của tình yêu R. Veritas
Thương thù thì thiệt thòi Lm. Giuse Nguyễn Đức Ngọc
Như Cha anh em Fiches Dominicales
Đừng xem nhau là kẻ thù PM. Cao Huy Hoàng
Yêu kẻ thù là chân lý... Lm. Raphael Xuân Nguyên
Yêu tha nhân vô bến bờ Học Viện Đà Lạt
Anh em hãy nên hoàn thiện Fiches Dominicales
Đi hai dặm Lm. Mark Link S.J.
Hãy hoàn thiện như Chúa Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu vượt ra khỏi mối ... Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Phải nên hoàn thiện Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy yêu thương kẻ thù Lm Giuse Đinh tất Quý
Ơn gọi nên thánh Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Giơ má kia ra chăng? Sưu tầm
Thương nhau như Chúa thương Catholic.org.tw
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường
phân chia người khác thành từng loại: thân thiết, thù địch và dửng dưng, để rồi
từ đó chúng ta có những thái độ cư xử khác biệt. Với người thân thiết, chúng ta
yêu thương. Với kẻ thù địch chúng ta ghét bỏ và với kẻ dửng dưng, chúng ta thờ
ơ.
Thế nhưng, bầu khí phụng vụ hôm nay đã làm đảo
lộn hay nói đúng hơn đã phá đổ cái trật tự, cái lẽ thường tình này. Trong bài
đọc thứ I, Maisen đã khuyên chúng ta: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm
cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác. Còn thánh
Phaolô qua bài đọc II, thì đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác.
Và nhất là Chúa Giêsu Ngài muốn chúng ta phải
có một tình thương tuyệt đối trong cách cư xử giữa người với người. Đúng thế,
trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy đối với Chúa Giêsu
việc làm hoà với nhau còn cấp bách hơn cả việc dâng của lễ cho Chúa: Khi các
ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình thì
hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em trước đã rồi mới đến mà dâng
của lễ sau. Còn trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Người đòi hỏi chúng ta phải
yêu thương cả kẻ thù, phải thoả mãn cả những đòi hỏi phi lý nhất của kẻ khác:
Nếu các con bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn
kiện các con để cướp lấy áo trong thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài nữa. Nếu ai bắt
các con đi một dặm thì hãy đi với nó hai dặm. Điều Chúa đòi hỏi qua những
trường hợp cụ thể được nêu lên ở trên, đó là phải đi cho tới tận cùng của tình
yêu thương, hãy hết lòng với người khác dù người đó chính là kẻ thù của mình.
Những đòi hỏi đó xem ra chẳng thực tế chút nào, nhưng lại là những đòi hỏi
chính yếu của thời cứu độ, của thời mà trong đó tất cả chúng ta đều là con cái
Thiên Chúa, như lời Người đã phán: Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha
các con, Đấng ngự trên trời vì Ngài cho mặt trời mọc lên, soi sáng kẻ xấu cũng
như người tốt, và cho mua xuống trên kẻ dữ cũng như người lành.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình
yêu. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta phải là một phản
ảnh trung thành cho tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu không ngăn cách,
không phân biệt, không hạn hẹp, phải yêu thương kể cả kẻ thù và những kẻ ghét
bỏ chúng ta. Bởi vì biên giới của yêu thương đó là yêu thương không biên giới.
2. Yêu thương kẻ thù
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta
đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn
đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta
và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn
sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu
bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta:
Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực
hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên
giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta
mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu
thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong
khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh
Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu
của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết
để chúng ta được sống.
Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều
tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết
để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc.
Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn
duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.
Một
trong những đặc tính nổi bật của tình yêu nơi Thiên Chúa đó là sự tha thứ. Ngài
đã sánh ví mình như người mục tử tốt lành lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Và
khi đã tìm thấy thì vác nó trên vai và đem về nhà. Rồi Ngài đã xác quyết: Một
kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người
công chính không cần sám hối ăn năn. Không phải những kẻ khoẻ mạnh là là những
người đau yếu mới cần đến thầy thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công
chính nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sẵn sàng chịu
chết trên thập giá để làm gì nếu không phải là để tha thứ cho chúng ta. Trong
giây phút đớn đau nơi thập giá, Ngài cũng đã thứ tha cho tất cả những kẻ độc ác
đã hành hạ Ngài bằng lời van xin: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì
chúng không biết việc chúng làm.
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét nhau. Ngày kia trong một
hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù đang đi trong rừng. Hắn liền bắt cô
bé, chặt đứt ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy vừa khóc, còn hung thủ vừa đi
vừa la: Ta đã trả thù được rồi. Mười năm sau, cô bé lúc đó đã có chồng và có
con. Ngày kia, một kẻ ăn mày tới xin ăn, bà nhận ra đó là kẻ đã chặt tay mình,
nên vội vàng vào nhà, bảo tôi tớ đem cơm thịt và cá ra đãi. Khi kẻ thù đã ăn
xong, bà bèn giơ bàn tay cụt ra cho coi và nói: Tôi cũng đã trả thù được rồi.
Tên ăm mày thấy thế bèn khóc lóc xin được tha thứ.
Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng
ta, còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có thực sự yêu thương và sẵn sàng tha
thứ cho những kẻ ghét bỏ chúng ta hay không?
3. Tha thứ kẻ thù
Đâu là phương thế để làm cho thêm bạn bớt thù
trong cuộc sống của mình?
Có một
bản du ca tôi rất thích hát, bản du ca ấy có những lời lẽ như thế này: Kẻ
thù ta đâu có phải là người giết người đi thì ta ở với ai. Đúng thế, đã là
người thì ai cũng có những sai lỗi của mình. Nhân vô thập toàn là thế. Hơn nữa,
mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh là
thế.
Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không
thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền, như
một câu danh ngôn đã bảo: Hễ ở đâu có hai người sống với nhau, thì ở đó thế nào
cũng có sự xích mích và giận hơn.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy trên đời đâu
phải chỉ có một hay hai người làm cho tôi sự mất lòng, làm cho tôi phải nhục
nhã và tức giận. Ngay cả đến những người bạn thân tình, ngay cả đến cha mẹ và
anh chị em ruột thịt cũng đã nhiều lần làm cho tôi phải bực bội.
Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải
báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia
đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người
đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt
đất này.
Hơn nữa, xã hội và ngay chính bản thân tôi, sẽ
không thể nào được xây dựng trên sự thù oán và đấu tranh, vì thù oán này sẽ nảy
sinh ra thù oán khác, như một thứ bệnh truyền nhiễm làm cho xã hội bị sụp đổ,
còn bản thân tôi sẽ phải quay quắt khổ đau. Thế nhưng, điều tệ hại nhất, đó là
chính bản thân tôi nhiều khi lại là nguyên nhân cho sự thù oán, vì hơn một lần
tôi đã sai lỗi, hơn một lần tôi đã gian tham và bất công. Cho nên người đáng
phải giết, đáng phải loại trừ lại chính là bản thân tôi. Vì vậy mà bản du ca
trên có những lời lẽ được tiếp nối như sau: Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó
là điêu ngoa, tên nó là tham tàn...
Phương thế hữu hiệu nhất để làm cho thêm bạn
bớt thù, không phải là chết giết những kẻ thù ở bên ngoài, vì sự trả thù chỉ là
cái vui của những tâm hồn đê tiện, nhưng là phải lột mặt nạ và tận diệt cho
bằng được những thói hư tật xấu, là những kẻ nội thù, nằm sẵn trong cõi lòng
chúng ta, như người xưa đã dạy: Kẻ thù đích thực thì ở trong tâm hồn, vì đó là
những nguyên nhân gây nên thù oán ngoài xã hội.
Cùng với việc uốn nắn sửa đổi những sai lỗi
của mình, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tha thứ, cố gắng đi bước trước
tiến đến sự hoà giải cùng nhau. Đừng khoan dung với mình mà gay gắt với anh em,
trái lại hãy khoan dung với anh em mà gay gắt với chính mình. Cách tốt nhất để
khỏi băn khoăn về kẻ thù là hãy làm cho họ trở nên một người bạn, bởi vì thù
oán không thể huỷ diệt được thù oán, chỉ có tình thương mới huỷ diệt được nó mà
thôi.
Ngày kia thánh Clementê đi vào một tiệm ăn, ngửa tay ra và nói:
- Xin quý ông rộng lượng bố thí cho các em mồ côi một miếng cơm,
một manh áo.
Tức thì các thực khách cười lên hô hố một cách khinh bỉ. Sau đó,
một anh thợ giày đã nói:
- Một miếng ư, được lắm.
Rồi anh ta uống một ngụm bia, phùng má trợn mắt phun thẳng vào mặt
thánh nhân. Chúng ta thử tưởng tượng xem thánh nhân đã phản ứng như thế nào? Có
lẽ ngài sẽ giáng cho anh ta một cái tát tai. Nhưng không, ngài vẫn bình tĩnh,
rút khăn lau mặt, rồi lại ngửa tay và nói:
- Thưa quý ông, đó là phần của tôi, còn phần của các em mồ côi
đâu chưa thấy.
Anh thợ giày bỗng té nhào xuống đất như bị một cú đấm thôi sơn,
vì anh ta chẳng bao ngờ tới trên cõi đời nham nhở này mà lại có được một người
khích phách như vậy. Anh lòm còm ngồi dậy và lắp bắp nói:
- Tôi... tôi sẽ gởi tặng các em.
Sau đó, anh đã dành một phần sản nghiệp và trao tận tay thánh
nhân một số tiền lớn để tạ lỗi.
Hãy tha thứ để rồi bản thân sẽ được Chúa thứ
tha.
4. Trở nên con cái Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này thì
Xuân đã về trước ngõ.
Mùa Xuân làm cho lòng người rộn rã, cỏ cây
chim chóc cũng reo vui với con người. Người ta chúc cho nhau bao điều tốt đẹp.
Điều tốt đẹp nhất vẫn là sự bình an trong tâm hồn, sự bình an mua được bằng tha
thứ yêu thương.
Khi dạy chúng ta đừng chống cự người ác, Đức
Giêsu không đòi loại bỏ cảnh sát và pháp luật; cũng không lên án những cuộc
chiến tranh tự vệ. Ngài chỉ muốn mời gọi các Kitô hữu hãy tránh thái độ báo
thù, ăn miếng trả miếng.
Tha thứ là ra khỏi vòng luẩn quẩn của oán thù,
là mở ra con đường để người kia hoán cải.
Có một vị rất tâm đắc với bài Tin Mừng này, đó
là Gandhi, người được dân Ấn-độ coi là đại thánh. Ông là cha đẻ của chủ trương
bất bạo động, để giành lại độc lập cho đất nước từ tay người Anh. Ông nói: “Bất
bạo động là luật của loài người, bạo động là luật của loài thú.”
Chúng ta thường sợ mang tiếng là hèn nhát,
khiếp nhược, sợ kẻ ác thắng thế khi thấy ta lùi bước. Chúng ta ít dám tin vào
sức mạnh của Tình Yêu.
Chính Tình Yêu chứ không phải bạo lực mới có
thể làm trái tim con người tan chảy.
Đức Giêsu mời gọi ta yêu thương và cầu nguyện
cho kẻ thù để trở thành con cái Cha trên trời.
Chúng ta không chỉ trở thành con Cha vào ngày
Rửa tội. Chúng ta trở thành con Cha hơn nhờ những hành vi tha thứ yêu thương
mỗi ngày.
Chúng ta thật là con, vì giống Cha, Đấng cho
nắng ấm, mưa rơi trên kẻ lành người dữ.
Chúng ta thường khó quên một xúc phạm đã qua,
những chuyện cũ vẫn làm tim ta đau nhói. Cần nhìn lên Cha trên trời, Đấng để
cho cỏ lùng mọc chung với lúa, Đấng mà ta phải nài xin ơn tha thứ mỗi ngày. Chỉ
Ngài mới làm ta quên được điều tưởng như không thể quên.
Thế giới hôm nay có nhiều sự ác và người ác.
Chúng ta phải tiêu diệt sự ác bằng sự thiện, hoán cải người ác bằng tha thứ yêu
thương.
Kitô hữu là người dám đi lại con đường của Đức
Giêsu, chấp nhận bị sự ác vùi dập và nuốt chửng, mà trên môi vẫn nói lời tha
thứ. Nhưng cuối cùng là phục sinh, là niềm vui, hy vọng.
Chúng ta có dám tin rằng rốt cuộc chân lý,
tình yêu và sự thiện sẽ chiến thắng không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có thấy những lời Chúa dạy trong bài Tin
Mừng hôm nay là những điều không thể thực hiện được? Có phải đó là thái độ của
kẻ yếu nhược và hèn nhát không? Theo ý bạn, Đức Giêsu có dạy ta dung túng, bao
che cho sự ác không?
Bạn đã và đang có những “kẻ thù” trong đời
bạn, những người làm cho bạn phải đau khổ. Bạn có dám sống theo lời Chúa để tha
thứ, yêu thương và cầu nguyện cho họ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm, đi thêm một đoạn đường
đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua, chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn
chân thành, vì Cha vẫn cho chúng con sống, và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua đều là những lời mời gọi kín
đáo của Cha để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con, và những gì
chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày tết dân tộc trong tinh thần
vui tươi, hoà nhã, và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến, trái đất lại xoay một vòng mới quanh
mặt trời, chúng con cũng muốn ở lại trong quỹ đạo của Cha, nhận Cha là trung
tâm cuộc sống, và nhận mọi người là anh em. Amen.
5. Thiên Chúa là tình yêu – Cố Lm Hồng Phúc
Thiên Chúa phán cùng Moisê rằng: “Ngươi hãy
nói cho toàn thể Cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là
Đấng Thánh, là Thiên Chúa của các ngươi”.
Thiên Chúa là Đấng siêu việt, là Đấng Thánh.
Không có một tì ố, một vết nhơ, như dòng nước trong veo, bầu trời trong sáng
tuyệt đẹp. Và Ngài bày tỏ quyền năng và vinh hiển khi Ngài tạo dựng, giải phóng
cũng như khi Ngài sát phạt và tha thứ. Tiên tri Isaia như bị chết ngộp khi được
cảm nghiệm sự thánh thiện Thiên Chúa trong đền thờ, và tiên tri Ôsê kêu lên:
“Đấng Thánh đang ở giữa anh em”. (11, 9)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta nên thánh, nghĩa
là chúng ta phải rửa sạch vết nhơ của Lề luật bên ngoài mà phải thực thi đức
công chính, vâng lời và yêu thương (Nhị luật 6, 4-9), một sự thánh thiện trong
mọi bối cảnh sống trong gia đình cũng như ngoài xã hội. “Hãy nên thánh như Ta
là Đấng Thánh, Thiên Chúa của các ngươi”.
Trong Đạo cũ, người Do thái thường tôn đền
thờ, “Đền thờ của Thiên Chúa là Thánh. Ai xúc phạm tới Đền Thánh thì Thiên Chúa
sẽ hủy diệt người ấy”. Trong Đạo mới, Chúa Giêsu tự ví mình là Đền thờ hiện
diện giữa loài người (Ga 1, 4; 2, 19). Thánh Phaolô trong bài đọc II, còn đi xa
hơn nữa, Người nói Kitô hữu là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng
liêng, và Giáo hội cũng là Đền thờ do Chúa Giêsu xây dựng (1Cr 3, 10-17), trong
đó người Do thái cũng như dân ngoại đều được mời vào như thành phần nhiệm thể
Chúa. Đừng ai cho mình là khôn ngoan, là đồ đệ Phaolô, Kêpha hay Apollô, nhưng,
“Anh em tất cả thuộc về Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”.
Trên tất cả, Thiên Chúa là tình yêu. Chúa
Giêsu đến để đem lại một tình yêu bác ái gạn lọc mọi dơ bẩn, mọi lớp vỏ bao
quanh như tình máu mủ, dân tộc, gia đình, quốc gia, lễ giáo chật hẹp. Người xưa
bảo: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, người ta xúc phạm mình mức nào, mình có
quyền ăn miếng trả miếng, đối xử với họ như họ đã đối xử.
Còn
Chúa, Chúa không dạy lấy sự dữ đối lại với sự dữ. Chúa dạy lấy sự lành đối với
sự dữ và hơn thế phải làm sự lành hơn mức đòi hỏi: “Thầy bảo các con: đừng
chống cự lại kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của các con hãy đưa má
bên kia cho nó nữa… Ai xin, thì con hãy cho, ai muốn vay mượn, con đừng khước
từ”. Chúa nói rằng đức bác ái không có biên giới, không phát xuất từ xác thịt
mà từ một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa, yêu mến đến từ bỏ mình, đến hy sinh.
Việc hy sinh lớn lao hơn cả là hy sinh tính tự
ái của mình, là tha thứ cho kẻ làm nhục ta, là tha thứ cho kẻ thù. Xưa nay,
chưa có một đạo giáo nào dạy tha thứ cho kẻ thù. Chúa phán: “Các con nghe dạy
rằng: ngươi hãy yêu thương anh em ngươi và thù ghét kẻ làm hại ngươi. Còn Ta,
Ta bảo các con: Hãy yêu thương kẻ thù”.
Người Do thái quan niệm anh em là người đồng
hương hay người cảm tình với đạo. Đối với Chúa Giêsu, anh em là tất cả, là
người Samaritanô, là người ngoại bang, là người lạc đạo nữa (Lc 10, 29-37).
Chúa biết trái tim con người có thể vượt tính tự ái, mở rộng trái tim và vòng
tay để ôm ấp cả kẻ thù.
Chúa đã tha thứ cho kẻ giết mình, “Lạy Cha,
xin tha cho chúng” (Lc 23, 34). Khó thật nhưng Chúa ban cho kẻ thật lòng xin ơn
biết tha thứ.
Văn hào Henry Bordeaux kể: Ngày kia, một nhóm thợ thuyền 20
người được Đức Giáo Hoàng Piô XII đến thăm và trò chuyện thân mật. Bỗng có một
người thợ quỳ xuống và nói: “Thưa Đức Thánh Cha đây là cuốn sách con đọc điều
dữ và đây là… con dao con muốn ám hại Đức Thánh Cha, con xin lỗi Ngài.” Đức Piô
trả lời: “Con ơi, Chúa chúc lành cho con như cha” (Images romaines, plon, trang 279).
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương thù địch, làm lành
cho kẻ ghét và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và vu khống chúng con…, để chúng con
trọn lành như Cha trên trời.
6. Hãy hoàn thiện như Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có câu chuyện kể rằng: Nhà truyền giáo trên hòn đảo nọ rất ngạc
nhiên khi thấy một phụ nữ mang nắm cát ướt bước vào lều của ông, và nói:
- Ông biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Ông có biết vì sao tôi mang nó vào đây không?
- Tôi không hiểu ý bà.
- Đây là tội lỗi của tôi, tội tôi không thể đếm được như cát
biển này. Làm thế nào tôi biết chắc được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đem cát ra biển và chất thành đụn cát, rồi ngồi nhìn
xem sóng biển ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. - Thưa bà, đó là cách Thiên
Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài dành cho tội nhân. Lòng nhân từ, thương xót
và tha thứ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật ăn năn để hưởng hồng
ân của Thiên Chúa. Đó chính là lòng nhân từ của Thiên Chúa cho những ai có lòng
ăn năn và tin cậy Ngài.
Thiên Chúa là Đấng rất mực yêu thương con
người. Tình yêu đã thôi thúc Ngài thể hiện qua muôn ngàn cách dành cho con
người. Ngài tạo dựng con người giống hình ành Ngài. Con người phản bội. Ngài
vẫn thứ tha và hứa ban Đấng Cứu Thế đến để chuộc lỗi lầm con người. Con người
sa đi ngã lại trong lầm lỡ. Ngài vẫn chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Con
người thì bất trung. Ngài thì trung thành mãi với tình yêu dành cho con người.
Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì vô bờ.
Tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được
thể hiện cụ thể qua Đức Giê-su. Đấng hiện tại hóa tình yêu ấy nơi dương gian.
Một tình yêu nhân từ nhẫn nại trước sự dữ bủa vây. Chính Ngài không chỉ nói:
“Khi người ta vả má này thì đưa má kia cho người ta tát” mà Ngài đã dám sống
điều đó trong cuộc tử nạn. Chính Ngài đã để quân dữ lột áo ngoài của Ngài để
chia nhau với thái độ bình thản đầy nhân từ. Chính Ngài vẫn một lòng nhân từ
cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Ngài còn chúc phúc cho mọi người như chính Chúa
Cha đã làm khi cho mưa thuận gió hòa trên kẻ lành người dữ.
Có một em học sinh trong lớp giáo lý đã hãnh
diện nói về niềm tin mình rằng: “Khi con đặt Chúa Giê-su làm trọng tâm cuộc
sống mình, thì con mới thấy ngày hôm nay vui hơn, con tử tế với mọi người hơn,
và dễ tha thứ với mọi người”.
Quả thực, theo lẽ thường con người thường “ăn
miếng trả miếng”, nhưng nếu mặc lấy tâm tình của Đức Giê-su, con người sẽ sống
tha thứ và nhân từ với nhau. Nếu biết đặt Chúa Giê-su làm trung tâm con người
sẽ thôi chiến tranh hận thù nhưng luôn biết vì Chúa mà làm hòa với nhau, vì
Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ. Đó cũng là lời mời gọi mà Chúa
vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà sống cao thượng hơn lẽ thường. Lẽ
thường chỉ yêu thương kẻ yêu mình nhưng còn là ky-tô hữu thì phải yêu thương cả
kẻ thù mình nữa. Lẽ thường chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì chưa đủ mà còn
phải thân thiện với tất cả mọi người.
Ước gì chúng ta biết hoàn thiện như Cha chúng
ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Hoàn thiện trong cách yêu mến tha nhân như
Chúa đã yêu thương chúng ta. Hoàn thiện trong cách sống phục vụ như Chúa đã
quan phòng gìn giữ chúng ta. Amen.
7. Sống chữ Nhẫn – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi
câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm
thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm
kè kè bên mình.
Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường
thách:
Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho
chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải
lòn trôn tôi mà đi.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự
nhủ: "Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì
không đáng tí nào!"
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong
làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng
vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại
phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: "Lúc
trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy
được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo: "Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố
chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng
là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta
ban".
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì
ban thường, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật
là một người quân tử.
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy
làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan
trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi
trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu
ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo
gian... Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng
chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa
muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và
làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến
với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập
toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần
phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức
tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng
đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung
và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ
chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều
mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình
yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ
quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán
báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy
làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu
đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài,
thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình
thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành
cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho
anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn
bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những
người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng
ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen.
8. Yêu “kẻ thù” như thế nào đây?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều,
thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc
không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc
“phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).
“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi
thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ
những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì
hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực
của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy
của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong
Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua
cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật
Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của
luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật
này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta
khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy
nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào
lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không
dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng”
dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác,
điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm
choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó.
Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác.
Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ
già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn
ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ
đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu
nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng
ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị
tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu
ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền
mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm
trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.
Chúa
Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc
lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn
phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được
trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta
rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa
Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng
ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng
sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước
mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa
Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn
nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai
vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn
mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng
trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ
lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ
chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô
không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người
còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả
sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng
nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi
lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về
đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo.
Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách
ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh,
đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả
rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn
khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải
ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách
với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng
người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là
người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu
rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện
dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm
người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta
(x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem
ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem
chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân
cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại
chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những
người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo
cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền
đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc
tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy
nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được
biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến,
quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có
thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển
nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân
chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không
phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi
Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái
cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người
đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu
thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ
lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi
người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình
diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức
nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý
Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác
nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt
hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi
thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự
trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền
trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu
bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng
ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng
ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu
xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy
cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha
nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ
thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà
rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính,
đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo
cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để
nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ
đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương,
nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động
thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí
là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã
làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
(Suy niệm của Giuse Hồng Ân)
Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng
“yêu thương” chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài
người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng “thương hại” những người nghèo khó, cô
đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình
mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình.
Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh
họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi
phối bởi những thứ luật có thể nói là “luật rừng”, thứ luật mà chỉ bảo vệ cho
một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà,
cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có
chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một
thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp
lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì “thân
bại danh liệt”. Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những
người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt
người khác phải đền oan uổng.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta
không sống theo “luật rừng”, không chỉ dừng lại ở mức độ công bằng. Mà hãy sống
theo giới luật Chúa truyền, đó là luật “yêu thương”, một tình yêu bao là rộng
lớn, một tình yêu vượt trên sự công bằng, vượt ra ngoài sự giới hạn tình gia
đình, tình bằng hữu, tình đồng hương, vượt ra ngoài chủng tộc hay tôn giáo,
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy,
Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”
(Mt 5, 43-44). Yêu kẻ thù, là yêu thương cả những người làm hại, khinh bỉ, nói
xấu, vu khống mình, không tìm cách báo thù, không lấy ác báo ác, mà ân báo oán,
luôn cầu nguyện và mong muốn cho họ gặp những điều may lành. Đavid bị vua Saul
thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn không làm hại người Thiên Chúa xức
dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn của con người thì Đavid
đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ hội “hiếm có” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng
Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích cho riêng mình mà làm hại đến tha
nhân.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống
yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù
họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài
giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt
các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa. Khi Giuđa dẫn quân
lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi,
anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên
nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà
được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi
tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì
họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là
bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Thánh
Tê-pha-nô đã thực hành lời Chúa dạy, noi gương Thầy Chí Thánh yêu thương và cầu
nguyện cho những kẻ giết mình: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin
rằng: Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn
tiếng: Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv
7, 59-60).
Chúa Giêsu căn dặn chúng ta, để trở nên con
Thiên Chúa phải “yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,
44). Để được làm con Chúa, chúng ta cũng phải đối xử giống như Thiên Chúa đã
đối xử tốt với tất cả mọi người không phân biệt người tốt, kẻ xấu. “Vì Người
cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa
xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 46). Chúng ta hãy
sống lời Chúa dạy, yêu thương hết mọi người, một tình yêu không có giới hạn,
không chỉ yêu thương những người thân cận, những người đồng hương, những người
cùng tôn giáo, những người cùng quan điểm, những người đem lại lợi ích cho
mình… Mà yêu thương cả thù địch, cả những người ghen ghét, hãm hại, nói xấu,
phỉ báng mình nữa, yêu thương cả những người tội lỗi. Yêu thương, cầu nguyện và
làm ơn cho kẻ thù. Nếu chỉ là một tình yêu co cụm, ích kỷ hẹp hòi, thì không
phải là con Thiên Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: “Nếu anh em yêu thương kẻ
yêu thương mình, thì anh em nào có công chi. Ngay cả những người thu thuế cũng
chẳng làm như thế sao?” (Mt 5, 46).
Chúa còn mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên
hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ
luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham
lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền
dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay
thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô
tình hay hữu ý.
Thật khó để yêu thương kẻ thù, một khi đã ghét
nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, chưa nói đến yêu
thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù, như trong bài thơ “yêu thương” của Lm
Giuse Nguyễn Nhân Tài có viết:
“Anh em con đó con chưa thương
Nói chi đến kẻ con chán chường
Ghét cay, ghét đắng, ghét thậm tệ
Làm sao ôm lấy để yêu thương”.
Quả
thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó chúng ta càng phải cố
gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy, muốn trở nên con
Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương
và tha thứ”. Thánh Phaolô dạy cho ta biết: “Đã yêu thương thì không làm hại
người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13, 10).
10. Suy niệm của Lm. Anrê Đinh Duy
Toàn
Qua Lời Chúa trong phụng vụ Thánh lễ hôm nay,
Thánh Matthêô cho chúng ta một thực đơn thật là khó nuốt. Hiểu Lời Chúa đã là
một việc khó, sống Lời Chúa lại còn khó hơn, huống hồ chia sẻ Lời chúa như một
kinh nghiệm sống thì quả thật muôn vàn khó.
Quả vậy, đối với nhiều người không biết hoặc
không quen với tinh thần Ki tô giáo thì đoạn tin mừng này gây ra nhiều thắc
mắc, đố kỵ. Ngay cả chúng ta, những người đã thấm nhuần giáo lý của Đạo Chúa,
vẫn thấy ngờ ngợ nếu không nói là nghịch lý.
Thử đọc đoạn tin mừng này trong bối cảnh thời
Chúa Giêsu rồi hội ra những điều Chúa dạy.
Đoạn tin mừng hôm nay nằm trong phần Hiến
chương Nước trời. Mt (5-7). Chúa Giê su khởi sự bằng cách trích dẫn luật lể cổ
xưa, luật Hammurabi.
Năm 1901, một đoàn nghiên cứu khảo cổ người
Pháp đã tìm được bộ luật được khắc trên một phiến đá ở thành phố Suse thuộc
Iran ngày nay. Đó là Bộ luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại - bộ luật
thành văn cổ xưa của nhân loại, một thành tựu có giá trị của lịch sử văn minh
cổ đại. (Thực ra có rất nhiều bộ luật đương thời: bộ luật của Ur-Nammu, vua xứ
Ur (khoảng 2050 TCN), bộ luật Eshnunna (khoảng 1930 TCN)… đều có các khoản
tương tự như nhau).
Bộ luật ra đời trong khoảng thời gian từ năm
1792 đến 1750 trước công nguyên và mang tên Hammurabi, vị vua đã ban hành bộ
luật, vua Babilon thứ sáu. Bộ luật mang tính cách phân biệt cách đối xử giữa
quý phái và công nhân. Điều 196 -200 trong bộ luật ấy có ghi: Nếu một người gây
cho một người quý phái mất con mắt thì phải mất con mắt; nếu làm thương tật thì
phải chịu thương tật; nếu làm gãy răng thì phải chịu rụng răng, v…v…nói chung
ai gây thiệt hại gì thì chịu thiệt hại tương đương.
Có lẽ luật Cựu ước cũng chịu ảnh hưởng rất
nhiều với luật Hammurabi, vì như chúng ta thấy những khoản tương đương được đề
cập đến ít nhất là 3 lần:
(Xh 21, 23-25) Nếu ai gây thiệt hại thì mạng
đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tai đền tai, chân đền chân, …
(Lv 24, 19-20) Khi một người làm thương
tích cho kẻ lân cận, thì phải làm thương tích cho nó như nó đã làm: gãy đền
gãy; mắt đền mắt; răng đền răng…
(Tl 19, 21) … Mắt đền mắt; răng đền
răng; chân đền chân …
Thoạt nghe, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, vì
nó man tính chất hơi man rợ, nhưng nhìn tổng thể bối cảnh thời đó, nó chỉ có
tính chất ngăn ngừa, giới hạn sự trả thù, và có thể nói, đó là khởi đầu của sự
thương xót. Thời đó, hầu như cơ chế xã hội sống theo cái khung của từng bộ lạc.
Vì thời tiết khắc khe, điều kiện kinh tế và cạnh tranh sinh tồn, họ luôn hặm
hực ý muốn trả thù. Giả như không có luật này, thì khi một người ở bộ lạc này
làm hại đến người bộ lạc kia, tức tốc họ kéo cả bộ lạc đi tiêu diệt toàn thể bộ
lạc của người gây hấn. Luật chỉ cho phép một đền một mà thôi. Hơn nữa, luật này
không cho phép cá nhân tự do báo thù mà phải có quan án ấn định hình phạt và
khoản phạt. ( xh 19,18). Như vậy, xét trong bối cảnh lịch sử của nó, thì đây
không phải là man rợ mà là nhân từ.
Tuy rằng có chịu ảnh hưởng nhưng chúng ta đừng
quên nhận ra rằng luật Cựu ước tiến xa hơn rất nhiếu so với những bộ luật thời
đó. Qua luật cựu ước đã thể hiện lòng thương xót: Chớ toan báo thù (Lv 19, 18).
Rõ ràng là luật cựu ước đã có dấu chỉ của lòng thương xót.
Trở lại với bài tin mừng. Ở phần đầu, Chúa Giê
su dạy: Còn Thầy (chỉ có Chúa) Thầy bảo anh em: Đừng chống kẻ ác. NGƯỢC LẠI !
Ai vả má phải thì đưa luôn má trái. Ý nghĩa thật phong phú chứ không phải hiểu
theo nghĩa đen. Do thái có những phong tục rất lạ: tát ai bằng lưng bàn tay thì
kẻ bị tát chịu sỉ nhục gấp hai lần. Như thế, giả như có người đứng đối diện với
người kia, muốn tát má trái đang khi thuận tay phải, thì chỉ còn cách tát trái
bằng lưng bàn tay mà thôi. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Là người Ki tô hữu
dẫu có bị hạ nhục cho dù gấp mấy thì cũng không được trả thù. Đừng phản kháng
nhất là trả oán. Dù có ai muốn trút lên đầu sự nhục mạ thậm tệ nhất thì cũng
không được báo thù.
Nếu ai lột áo trong hãy đưa luôn áo ngoài. Ở
đây cũng vậy. Áo trong là áo dài thường là bằng vải bông để mặc ở trong. Người
Do thái có nhiều áo trong để thay đổi. Áo ngoài là loại áo lớn, vải dày, có thể
dùng làm mền vào ban đêm (giống như áo măng tô, có chiều dài quá gối mà những
thế kỷ trước chỉ có quân đội và các nhà quý phái mới có). Luật Do thái cho phép
cầm cố áo trong chứ không phải áo ngoài. Sách Xuất hành có ghi: Nếu cầm áo
ngoài của người ta để làm tin, thì phải trả cho nó trước khi mặt trời
lặn, vì đó là đồ che thân để ngủ. Nếu nó kêu đến Ta, thì Ta sẽ nghe, vì Ta là
Đấng hay thương xót. (Xh 22 26, 27). Do đó, điều Chúa dạy ở đây là: Ki tô hữu
là người không bao giờ tranh biện về quyền hạn và pháp lý. Hiểu theo nghĩa tích
cực là không nghĩ đến quyền lợi mà chỉ nghĩ đến phục vụ; không nghĩ đến đặc
quyền mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm của mình mà thôi.
Tiếp theo, Nếu bắt đi một dặm, thì hãy đi hai
dặm. Từ “bắt” có một ý nghĩa lịch sử. Người xưa có hệ thống bưu điện khá hay.
Đường đưa thư được chia làm nhiều chặng, mỗi chặng dài một ngày đường. Mỗi trạm
đều có sẵn lương thực cho người đưa thư, lại còn có nước, có cỏ cho ngựa của
người đua thư nữa. Nếu chẳng may một trạm có thiếu món gì, thì bất cứ ai cũng
phải cung cấp cho đủ, thậm chí chính mình phải mang thư đi một dặm đường. Nó
còn có nghĩa bị trưng dụng nữa. Dân của một xứ bị bị trị buộc phải mang hành lý,
cung cấp thức ăn, chỗ ở cho kẻ đến chiếm đóng. Lắm lúc phải chịu trưng thu một
cách tàn bạo không chút xót thương. Phải chăng điều Chúa muốn dạy là: Đừng nghĩ
mình tự do để muốn làm gì tuỳ ý mà hãy nghĩ bổn phận và niềm vui được phục vụ
kẻ khác?. Một việc đôi khi là gánh nặng, phi lý nhưng đem lại chút lợi ích cho
người ta, đừng làm như cực chẳng đã, nhưng hãy làm một cách vui vẻ.
Phần thứ hai của bài Tin mừng Chúa cũng trưng
dẫn luật Lêvi (Lv 19…) Luật của lòng thương xót. Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương
cả kẻ thù, là vì ngay cả những người đó và chính chúng ta đều có cùng một Cha
chung trên trời. Qủa thực, suy gẫm kỹ càng sẽ thấy điều Chúa dạy tuy rất phi
thường, nhưng cũng rất thực tế. Ngài lấy hình ảnh gia đình mà người cha tràn
đầy tình thương, như vị trọng tài vô cùng công mình và nhân từ với mọi con cái
theo hoàn cảnh của chúng. Vượt xa Khổng tử với “ Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân
“, với Chúa phải tích cực hơn nữa “ Hãy đi và làm cho người ta điều mình muốn
người ta làm cho mình”. Sở dĩ như thế là vì mọi người đều có MỘT CHA CHUNG.
Như vậy, những lời giáo huấn ở phần đầu bài
Tin mừng thật không khó hiểu nếu đặt trong khung cảnh Đông phương thời đó.
Và Chúa Giê su đã thiết định một qui luật quan
trong cho người Kitô hữu đó là: - Không bao giờ thù hận để rồi tìm cách báo
thù, cho dù sỉ nhục đó có tính toán và độc ác đến đâu – Không bao giờ bám vào
một thứ quyền nào để rồi cứ nghĩ là mình đương nhiên được hưởng – Không bao giờ
nghĩ đến mình tự do hoàn toàn để rồi làm bất cứ điều gì tuỳ ý.
Tóm lại: “ Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi là Đáng Thánh. ( Lv 19, 2) Bài đọc I.
Anh em hãy nên hoàn thiện như cha trên trời là
đấng hoàn thiện. (Mt 5, 48).
“Hãy nên hoàn thiện” dễ thương làm sao, chứ
không phải “ phải” với lời ngăm đe khủng khiếp!
Trước giới luật của Chúa, ai trong chúng ta đã
không kinh nghiệm một cách bi đát: chúng ta đã lắm lần, nếu không nói là hoàn
toàn thất bại.
Hơn ai hết, Thánh Phao lô cũng đã trải nghiệm
những thất bại ấy, và phải xác nhận “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống mà là
(ƠN) Chúa sống trong tôi” nên mới khuyên được mọi người “Anh em đừng tự
lừa dối mình…” “Đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào”…(Cr 3, 18,21).
Phúc thay! Thánh Gioan đã xác tín một cách
chắc nịch: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai
tin vào Người Con thì được cứu độ. Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để
luận phạt, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu. (Ga 3, 16).
Rốt cuộc, trong tôi, tất cả là …dối!. TRONG
CHÚA, TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN!
Vậy thì, xin cho môi con luôn biết ca khen ân
tình của Chúa. Xin cho mắt con luôn biết ngắm xem kỳ công của Ngài. Xin cho tai
con luôn biết lắng nghe những điều Chúa dạy. Và mỗi chiều về xin Chúa nhắc con
luôn cảm ơn Ngài.
Vậy thì, Xin cho con một đức tin vững bền, để
con luôn trung kiên trong hành trình theo Chúa. Vì có những lúc con gặp nhiều
khó khăn, thấy trước mắt ê chề những bất công, con làm sao tránh cho khỏi bâng
khuâng. Xin ƠN của Chúa giúp con luôn xác tín: Chúa chính là sức mạnh đời con,
Chúa chính là thành luỹ kiên cường, nơi nương tựa ngàn đời kiên vững. Chúa ơi,
khấn xin Ngài ấp ủ đời con, giới luật Ngài xin giúp giữ tròn, bước dương trần
cùng đi với con.
Bởi lẽ, có những lúc con thấy Chúa như người
xa lạ. Có những khi con thấy Ngài thật gần gũi với con. Có những lúc con thấy
Chúa rắc gieo an bình và đầy thương xót, thì có những lúc con thấy Chúa rắc
gieo ê chề trên đường con đi.
Cho nên, xin cho con qua trọn ngày dài, luôn
nếm tình Cha yêu thương con, để rồi trên dương gian sóng xô dập dồn, thuyền dù
đã xa lối về, thì xin cho con được tin, yêu Chúa nhiều, và xác tín Chúa
đỡ nâng con bước tới quê hương nhà, dù thuyền xa lối con chẳng còn lo gì.
11. Yêu thương thù địch - điều không
dễ chút nào
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
“Hãy yêu thương tha nhân và ghét thù địch”.
Mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi (Lv 19,18). Theo đó, người Dothái chỉ
yêu thương những người đồng loại, tức là những người thuộc dân riêng của Chúa,
dân Israel. Nói cách khác là họ chỉ yêu thương những người đã được cắt bì mà
thôi. Còn dân ngoại, họ coi như thù địch. Họ còn có luật và bổn phận ghét người
ngoại bang, nhất là dân Amalec, dân Moab (x. Đnl 25,18; 23,6).
Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã phá đổ những giới
hạn của luật cũ, và mạc khải cách trọn hảo về điều luật mới, khi dạy: “Anh em
hãy yêu thương kẻ thù” (Mt 5,43a). Thế thì, kẻ thù mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây
là ai ?
Một số quý ông, quý anh bảo rằng kẻ thù của
con là rượu, là thuốc lá, là cờ bạc… Chúa dạy phải yêu kẻ thù, nên con yêu luôn
những thứ đó. Không phải lập luận theo kiểu lý “cùn” này. Kẻ thù mà Chúa muốn
nói ở đây là những người làm cho ta đau khổ, làm cho ta bị tổn thương, những kẻ
không ưa thích gì ta, v.v… Yêu thương kẻ thù là yêu thương những người như thế:
“Hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43b).
Qua lời dạy trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi ta
điều gì ? Thưa Chúa Giêsu muốn mời gọi ta biết vượt lên tình yêu tự nhiên, vốn
nặng về cảm tính, để yêu thương hết mọi người. Và như thế, không còn ai bị loại
ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Đức Kitô nữa. Đây là điều mới mẻ và
độc đáo của luật Tin Mừng Đức Giêsu và là mức độ cao nhất của tình yêu hoàn
thiện.
Thứ đến, tình yêu thương đó được biểu hiện
bằng việc làm cụ thể, mà quan trọng nhất là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ
tự nhiên không được ta yêu thương. Không phải là cầu nguyện chống lại kẻ thù,
cầu nguyện xin Chúa khừ trừ giùm kẻ thù của mình, như trong Thánh Vịnh:
“Còn những quân thù nghịch,
Thiên Chúa sẽ đập bể đầu;
bọn theo đường gian ác,
Người đánh cho gãy răng”.
Hay: “Lạy Chúa xin thẳng tay khai trừ bọn chúng
khỏi thế giới loài người;
Án phạt Chúa đã dành,
xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng;
cả đàn con cũng được ăn cho thoả thích,
phần còn lại cho bầy cháu mai sau” (Tv 17,14).
Không phải là cầu nguyện kiểu đó, mà là cầu
nguyện cho họ để họ được ơn hoán cải, ơn biến đổi.
Nhưng
tại sao lại phải yêu thương như những kẻ thù nghịch? Đơn giản là vì
chính chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương, đang khi chúng ta là kẻ
nghịch thù với Chúa. Giả như Thiên Chúa đối xử với ta như cách ta thường đối xử
với anh em mình, thì số là chúng ta đã bị diệt trừ từ lâu rồi. Vì trước mặt
Chúa, đã nhiều lần chúng ta là kẻ thù của Chúa, đã nhiều lần làm ô danh Chúa,
và đã từng chống đối Chúa, thử thách Chúa. ..
Lý do thứ hai là vì có yêu thương kẻ thù nghịch, thì ta mới đáng
được gọi là con cái của Thiên Chúa, và có yêu thương như thế, chúng ta mới thực
sự trở nên giống như Cha trên trời là Đấng trọn lành, Đấng đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ
xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất
lương” (Mt 5,45).
Dĩ nhiên, kính thưa quý…., yêu thương kẻ thù
nghịch là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ
cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu
thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Thế nhưng chúng ta có thể thực hiện
được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có
thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13).
Hãy yêu thương và cầu nguyện cho người kẻ mà không
ưa ta, những kẻ thù ghét ta. Để rồi nhờ lời cầu nguyện của ta mà họ được hoán
cải; nhờ tình yêu thương của ta mà họ được biến đổi, vì “tình yêu có sức biến
đổi phận người”. Và cũng nhờ đó mà chúng ta được lớn lên trong tình yêu của
Chúa.
12. Luật của tình yêu toàn thiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa
Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn
miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain
được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77
lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật
“ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn
lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật
mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu
hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh
dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa”
(Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai
kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40).
Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một
dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác?
Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ
động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi
Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do
của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự
ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”.
Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao
dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là
các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình
an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha
trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn
trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình:
“Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn
hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được
trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình
thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ
muốn giết ngay viên trọng tài đó”.
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai
lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa
nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm
sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều
thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B,
vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để
báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và
may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy
bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5,
38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến
lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại
trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa.
Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông
B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết
sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ
đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho
đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho
các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng
như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng
chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà
người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của
anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha
cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha
thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh,
kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh
mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự
với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình
yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?
Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa
Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao
dung tha thứ luôn luôn. Amen.
13. Hãy nên trọn lành như Cha trên trời
(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa
Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối
với những người chống lại mình/kẻ thù: - Đừng thề (5,33-37), - Đừng chống lại
người ác (5,38-42), - Yêu thương kẻ thù (5,43-48).
Đừng chống lại người ác (5,38-42)
Câu mở
đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ
định giống với câu ở phần trước: mè + động từ nguyên mẫu (c.
34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ
cụ thể ở mỗi bên.
Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng”
(Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi
sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả
thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây
thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm
thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).
Chúa
Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39).
Động từanthistèmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây
nên. Người ác, ponèros, tương đương với kẻ thù, echthros,
với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là
không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực;
một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức
độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1Pr
2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess
5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:
- Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò, là hành vi hạ nhục và khinh
dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người
ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do
lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt”
(Is 5,5-6; x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế
và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).
- Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án
để đoạt lấy áo, “muốn kiện”,theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30).
Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và
không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitòn để
trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc
13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế
chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi
mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27;
Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị
lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn
áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài
(27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.
- Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”, mượn từ
tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm
ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển
thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuò nầy
chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch
nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp
Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
- Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh:
"Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân
của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu
40a: tò + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay
mượn”,thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là
muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy
với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi,
ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48 bởi từponèros,
“người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh
họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc
giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm
đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu
đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay:
“Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45),
trong đó bao hàm cả người ác/xấu.
Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta
giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên
Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà
theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).
“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự
công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù.
Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48)
và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và
người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn
trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy
là agapaò, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù”
(cc. 43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người
lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng
có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18,
33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc
ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18;
25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa
Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và
thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi
thời.
“Kẻ
thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu
khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất
công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người
đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên
trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10).
Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng
từ ponèros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên
quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là
Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài
(13:25tt, 22:44).
Trước
khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người
môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc.
46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút
nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn
5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành
động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là
người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ
quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và
không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về
Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là
tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành
trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng
qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hòs, chỉ
phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được
đặt trong tương quan Cha - con, “Cha trên trời” (c. 48) - “con cái Cha trên
trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có
cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt
trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước
gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài
đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa,
phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm
điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con
đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
14. Hãy sống yêu thương và nên trọn lành
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn
tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng. Tiếp theo sau đó, Chúa Giêsu tiếp
tục mạc khải cho khi dạy các môn đệ và cũng dạy chính chúng ta về thái độ cần
phải có cũng như thực hành trong đời sống: "Các con đã nghe bảo... Còn
Thầy, Thầy bảo các con". Vậy nghe bảo gì? Và cụ thể giáo huấn của Chúa
Giêsu cho các môn đệ mình ra làm sao?.
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người
xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước "Mắt đền
mắt, răng đền răng " ( Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một
bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek,
bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: "Vì một vết thương, ta giết một người,
(Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng
La-méc thì gấp bảy mươi bảy!" (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật
"Mắt đền mắt, răng đền răng" ( Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào
tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ
thù: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác"
(Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi
vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo
chúng ta "đưa má bên kia cho nó nữa, " là Ngài muốn chúng ta xây đắp
tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình
yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thể. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ
ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin
cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và
lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích
lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó
là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không
phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu.
Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động
xây đắp tình hiệp thông trong tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn
vay mượn, thì con đừng khước từ " (Mt 5, 44).
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn:
"Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con,
và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5, 44). Chúa
Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn
muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo
kiểu có đi có lại - người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người
ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự
khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người
khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như
Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không
bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó
có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với
nhau.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn
tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con
cái của Cha trên Trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại đã mạc khải rõ
về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả
kẻ thù, kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn
miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù,
tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con
đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu
dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì
Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân
Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên
Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn "Ngươi phải
yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Tuy nhiên, phải đi xa hơn để
tình yêu của chúng ta được phổ quát nhằm cho luật cũ được kiện toàn. Khi yêu
như thế, ta đang thực hiện lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy nên
trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành " (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành
là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-nô từng viết:
"Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của
Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành
của con người" (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có
thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa
Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm
cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công
chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như
kẻ dữ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành " như Cha các con
trên trời là Đấng trọn lành "(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, nhưng Chúa Giêsu đã làm
gương cho chúng ta trước khi nói: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những
kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,
Ðấng ngự trên trời" (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình
và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có
thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi
sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta
đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc
và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không
còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là
con Cha trên Trời. Amen.
Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu
đạo đức.
Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng
đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay
không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt
tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…”
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà
chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai
đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những
con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn
hơi sức.
Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú,
chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể
sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải
quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh,
trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa
các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su
muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải
pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu
kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác,
trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,
39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn
nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải
pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá
sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra,
bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng
mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của
búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là
nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ
cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu
quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau
sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo
chiều gió nên chúng được an toàn.
Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn
sinh từ mấy ngàn năm trước: “nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của
môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu
đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.
Thay phần kết luận:
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai
lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa
nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm
sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều
thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B,
vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài
dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm
suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban
sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét
kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược
đãi anh em”… “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên
phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5, 44. 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến
lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại
trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa.
Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông
B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết
sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ
đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho
đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho
các xung đột giữa đôi bên.
16. Tha thứ – Lm. Giuse Trần Việt
Hùng
Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery,
Alabama, đây là điểm sáng đích thật. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe
búyt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp
lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao
trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng
cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ
nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bầy: Hành động qúi báu của sự tha
thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.
Lời mời gọi sống phúc âm giữa đời là một thách
thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức
yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: Đừng giữ lòng thù ghét
anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. (Lev 19, 17).
Chữ ‘đừng’đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo
đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được
kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng
ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của
dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời,
ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói
xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của
lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dậy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng
hãy tha thứ và công khai răn bảo.
Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống
đạo: Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu
thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa (Lev 19, 18). Đừng báo oán, không
phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một
thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung
và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.
Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù óan và bất
công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng
người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành
công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận
dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu
mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.
Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát
vượt trên mọi lẽ thường tình: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ
hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó
nữa (Mt 5, 39). Sống theo lời Chúa, xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính
Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có
uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta
không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục
chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung
quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên
nhẫn cư xử và thắng vượt.
Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể
đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu
tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự.
Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hòa. Đôi khi có những
câu truyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là
không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những
người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia
đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn
nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu
đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con
dao hai lưỡi, có thể xây dựng hòa bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta
biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.
Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng:
Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm
lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống
cho các con (Mt 5, 44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng
phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi
ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất
tình: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt
qủa đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái
an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ
cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt
giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và
tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt giây xích của sự báo
thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm
hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.
Thánh Phaolô cảnh tỉnh: Đừng có ai lừa dối
mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy
nên điên dại để được khôn ngoan (1Cor 3, 18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người
một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giầu
cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác
nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người
chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã
được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ
thỏa mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có
khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới
hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm
mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương
rơi.
Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến
tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ
trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư
tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: Lại có lời khác rằng: Chúa biết
tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền (1Cor 3, 20). Thiên Chúa cho
tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận
hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của
Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc
diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu
chúng ta cắt đứt sợi giây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên
Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng
ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện
cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó qúa Chúa ơi. Mỗi lần chúng
con bị người ta hiểu lầm, bịa truyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách
báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để
học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!
17. Bão lòng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi anh em(Mt. 5,44).
Bạn tôi lái xe xuống Phố Tầu ở Mahattan kiếm được chỗ trống đậu
xe dọc theo đường lộ và đi bỏ tiền vào máy tính giờ đậu xe gần bên. Chỉ chưa
đầy một phút sau, trong khi bạn trở lại với biên nhận trong tay, thì đã thấy
một cảnh sát công lộ đang ghi giấy phạt vì vi phạm luật đậu xe là 90 đô. Nói
qua nói lại, bạn vẫn phải nhận vé phạt. Cảnh sát nói: Nếu muốn được giảm phạt
phải gởi kèm cả vé phạt và biên nhận ghi giờ parking cho Sở Tài Chánh, thành
phố Nữu Ước. Vé phạt và biên nhận được gởi đi, nhân viên Sở Tài Chánh trừ cho
một nửa số tiền và ghi rằng muốn được tha phạt toàn bộ, bạn phải làm hẹn ra
tòa. Câu truyện nghe mà ứ máu, tuy số tiền không bao nhiêu nhưng bị oan ức.
Biết chia xẻ cùng ai. Ra tòa lại mất toi một ngày làm. Trả phạt cho xong, lòng
không phục!
Hãy yêu kẻ thù. Chúa Giêsu mở rộng chân trời yêu thương tới hết mọi người. Lời
khuyên dạy của Chúa cao siêu và tuyệt vời qúa. Chúng ta cảm nhận rằng tình yêu
thương của chúng ta đối với tha nhân và kẻ thù chỉ mới là ở bước khởi đầu.
Những người dưng nước lã, những khách qua đường và những người xa lạ không quen
biết, chúng ta rất ít quan tâm nói chi đến yêu thương. Chúng ta chỉ dễ dàng yêu
thương những người có cảm tình và yêu thương chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu lại dậy
rằng: Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?
(Mt. 5,46).
Trong thực tế cuộc sống, tình yêu vị tha
thường rất giới hạn. Theo quan niệm chung, yêu thương cũng phải có qua có lại
chứ. Chúng ta biết rằng ngay cả anh chị em hay những bà con ruột thịt trong gia
đình yêu nhau đã khó, yêu thương những người hàng xóm lại khó hơn và yêu thương
kẻ thù thì khó gấp bội. Yêu thương kẻ thù trên lý thuyết chung chung hay trên
môi miệng thì có thể được, nhưng yêu thật trong lòng một kẻ thù thì khó lắm.
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương mọi người và yêu cả kẻ thù. Chúa đã nêu
gương cho chúng ta qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài. Ngài đã yêu hết
mọi người, cả kẻ thù và đã tha thứ tất cả lỗi lầm của mọi người. Chúa đã chấp
nhận chịu mọi cực hình oan trái đến chết để mang ơn cứu độ cho mọi người.
Với sức tự nhiên của con người, chúng ta khó
vượt qua những yếu đuối của bản năng. Bản năng đòi sự công bằng tự nhiên: Mắt
đền mắt, răng đền răng (Mt.5,38) là lẽ thường. Vì trong bản năng của con người
có một động lực tiềm ẩn của sự báo thù do tội nguyên tổ. Khi chúng ta giận dữ
thì cơn giông bão hận thù và ghen tương nổi lên trong lòng như một khao khát
đốt cháy tâm can. Chúng ta rất khó cầm lòng để có sự bình tĩnh mà xét xử hơn
thiệt. Người ta thường nói giận mất khôn là đúng lắm. Đôi khi trong cơn giận dữ
lại có người còn thêm dầu vào lửa nữa, thì cơn giận càng có cơ hội bốc cháy.
Những giận hờn, thù ghét chua cay và những gian dối che phủ mất lòng nhân ái.
Hành động khi giận dữ dễ đưa đến những hậu qủa tác hại vô lường.
Truyện kể: Một hôm, một vị Samurai đến thu nợ của người đánh cá.
Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng
nào để trả ngài”. Vị Samurai nổi nóng, rú kiếm ra định giết người đánh cá ngay
lập tức. Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi
khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận”. Vị Samurai nhìn người đánh cá
một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ
của ta cũng dạy như vậy. Đôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình.
Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc
chắn ta sẽ giết ngươi”.
Vị Samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà
vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ
lạ mặt mặc quần áo Samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận
dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng
vẳng bên tai: “Đừng hành động khi đang giận dữ”. Vị Samurai ngừng lại, thở sâu,
sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt
cũng vậy, hóa ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt
nữa con đã giết cả hai người rồi!”. Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào
nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để dọa chúng”.
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị Samurai. Người đánh cá
phấn khởi nói: “Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có
cả tiền lãi nữa”. Vị Samurai trả lời: “Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi và ngươi
đã trả nợ rồi”.
Ai cũng thù ghét sự bất công, gian tham và độc
tài. Chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người biểu tình ở các nước Tusinia, Ai
Cập, Yemen đòi quyền sống cho công lý và tự do. Sự đấu tranh, sự hận thù và
ghen ghét diễn tả trên những khuôn mặt giận dữ la hét và bạo động của họ. Giận
dữ vì bị đối xử bất công và bị tước đoạt mất quyền sống. Làm sao họ có thể yêu
thương những kẻ làm gây oan trái và ngỗ nghịch. Sức chịu đựng của con người có
giới hạn. Chúng ta cũng là những người đã từng bị đối xử cách bất công trong
cuộc sống. Chúng ta hiểu được phần nào những áp bức trong cuộc sống dưới chế độ
những Phát-xít và độc tài. Trong tinh thần Kitô Giáo, Chúa Giêsu mời gọi chúng
ta nên có những cách đối xử nhân từ và rộng lượng hơn. Làm sao chúng ta có thể
dung hòa để mang lời Chúa áp dụng vào cuộc sống thực tế đầy đau thương và bất
công này. Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương thù địch, hãy làm lành cho những kẻ
ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con.
Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ nhưng làm
lành hay yêu thương kẻ thù thì chúng ta khó có thể. Nhiều khi chỉ cần nhắc lại
chuyện cũ không vui, sự tức giận đã trào nghẹn lên tới cổ.
Có
những sự kiện nhỏ nhặt thôi nhưng chúng ta cũng khó lòng bỏ qua. Chỉ cần nhìn
thấy bản mặt của họ là thấy ghét, làm sao chúng ta có thể dung hòa và tha thứ
được chứ?. Chúa Giêsu nhắc nhở dịu dàng: Như vậy, anh em mới được trở nên con
cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên
soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng
như kẻ bất chính (Mt. 5,45).Khi thực hành được lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta
sẽ tìm thấy sự yêu thương hòa giải thật tuyệt vời và đong đầy ý nghĩa. Khi
thương yêu tha thứ, chúng ta không mất mát gì cả, mà còn được lợi gấp trăm. Ai
cũng hiểu biết yêu là như thế đấy, nhưng đi vào thực hành tha thứ với con người
cụ thể thì còn một khoảng cách cần lấp đầy. Truyện cổ Trung Hoa kể câu
truyện về sự hòa giải và kết hạn: Ngày xưa ở Trung Quốc, có một người nông dân
và một người thợ săn là hàng xóm của nhau. Người thợ săn nuôi một đàn chó săn
rất dữ tợn và khó bảo, chúng thường nhảy qua hàng rào và rượt đuổi đàn cừu của
người nông dân. Người nông dân bảo người hàng xóm của mình hãy trông nom đàn
chó cẩn thận, nhưng xem ra những lời đó đều bị bỏ ngoài tai.
Một ngày nọ, đàn chó lại nhảy qua hàng rào, chúng đuổi cắn đàn
cừu và làm nhiều con trong đàn bị thương nặng. Lúc này, người nông dân không
thể chịu đựng thêm nữa. Anh ta bèn lên phủ để báo quan. Vị quan phủ chăm chú
lắng nghe đầu đuôi câu chuyện rồi nói: “Ta có thể phạt người thợ săn và bắt anh
ta xích hoặc nhốt đàn chó lại. Nhưng anh sẽ mất đi một người bạn và có thêm một
kẻ thù. Anh muốn điều gì hơn: một người bạn hay một kẻ thù làm hàng xóm của
mình?” Người nông dân trả lời rằng anh muốn có một người bạn hơn. Vị quan phủ
nghe vậy bèn phán:“Được, vậy ta sẽ bày cho anh một cách để vừa bảo vệ an toàn
cho đàn cừu, vừa giữ được một người bạn”. Người nông dân bèn nghe theo lời chỉ
dẫn của vị quan phủ. Vừa về đến nhà, người nông dân liền thử làm theo những gì
vị quan phủ đã bày cho anh ta. Anh ta bắt ba con cừu tốt nhất của mình và đem
tặng chúng cho ba cậu con trai nhỏ của người hàng xóm. Đám trẻ rất vui thích
quấn quít chơi đùa bên mấy con cừu. Để bảo vệ cho đồ chơi mới của lũ trẻ, người
thợ săn đã làm một cái cũi chắc chắn để nhốt đàn chó. Từ đó trở đi, đàn chó
không bao giờ quấy rầy đàn cừu của người nông dân nữa. Cảm kích trước sự hào
phóng của người nông dân với những đứa con của mình, người thợ săn thường mang
chiến lợi phẩm mà anh ta săn được sang cho người nông dân. Người nông dân đáp
lại bằng thịt cừu và phô mai mà anh ta làm ra. Chỉ trong một thời gian ngắn,
hai người hàng xóm đã trở thành bạn tốt của nhau.
Chúng ta biết rằng chiến tranh bao giờ cũng có
thiệt hại, đổ nát, chia cách và mất mát. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín
sự lành". Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Lấy oán báo oán, oán
nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan". Trong cuộc sống,
chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu
truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.
Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha
thứ. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để
mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Eph. 4,26).
18. Tình yêu vượt ra khỏi mối hỗ tương.
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ –
Achille Degeest)
Khi đề nghị một buổi lễ đọc một đoạn Phúc Âm,
Giáo Hội ao ước cho ta làm quen với giáo huấn, lối nhìn, cách suy nghĩ, sứ điệp
của Chúa Giêsu. Ít nhất người ta cũng có thể nói một điều: là Chúa Giêsu đi
ngược lại các phản ứng thuộc bản năng của con người. Không chống lại sự ác
nghiệt và yêu mến kẻ thù, đó không phải là những khám phá của sự khôn ngoan sơ
đẳng của bản tính nhân loại. Sự táo bạo kêu mời con người thực thi tình yêu
hoàn hảo, chỉ có thể xuất phát từ Con Thiên Chúa, Đấng đã nêu gương về một mức
độ tình yêu như thế. Nếu Người dám xin ta yêu mến thù địch ta, là vì Thiên Chúa
đã yêu loài người trước hết, ngay trong khi họ còn chống lại Người, còn nằm
trong tội lỗi. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu Người đối với ta: ấy là khi ta còn
tội lỗi, Đức Kitô đã chết cho ta (Rm 5,8). Có những triết thuyết, những tổ chức
tôn giáo ngoài Kitô giáo đôi khi đã xích lại gần sự đòi hỏi của Chúa Giêsu
nhưng không hề đạt tới được. Phúc Âm quả là một chóp đỉnh duy nhất mà chỉ Thiên
Chúa của Đức Giêsu Kitô dám xin ta leo lên. Tình yêu đối với thù địch nằm ở
chóp đỉnh ấy. Giới răn của Chúa Giêsu buộc ta không được giản lược tình yêu vào
trình độ của mối hỗ tương, trao đổi không vươn xa hơn. Tình yêu tuỳ thuộc ở một
sự trao đổi là một tình yêu mong manh. Trái lại, tình yêu mà phát xuất từ sâu
thẳm của hữu thể là một sức vọt mạnh mẽ, chỉ lấy tự do mình làm giới hạn. Mà
chiến thắng của cái tự do ấy, chính là ở chỗ nó quyết định yêu thương, cả khi
gặp cản trở, tức bị từ chối. Chúa nêu gương cho ta về điều này:
1) Chúa muốn điều hay cho những kẻ muốn làm hại Người. Người chịu khổ, chịu chết để những ai
bắt Người phải khổ, phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối
tuyệt đối của con người không đáp lại tình yêu – (trước sự từ khước một mối hỗ
tương), Chúa vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là thương yêu.
2) Tình yêu ấy mặc khuôn mặt của lòng tha thứ. Tình yêu theo Thiên Chúa biết nhìn từ
bên trong. Tha thứ là một sự sáng suốt của tình yêu. Lạy Cha, xin tha cho họ,
vì ho không biết mình làm gì. Người tự coi là kẻ thù của ta, họ vâng theo những
động lực nào? Có lẽ họ là nạn nhạn của sự dốt nát, của những sức mạnh tối tăm
làm chủ họ, của tính tình v.v… Không ai nói phải khuyến khích lòng độc dữ của
họ, nếu họ tỏ ra nguy hiểm. Điều cấm làm, là trả thù. Điều phải làm theo là yêu
mến họ, dầu sao đi nữa, và ao ước sự tốt lành cho họ. Điều này có thể đòi hỏi
một sức mạnh tinh thần gần như là khí phách anh hùng. Phải biết thưa với Chúa
rằng, nếu Người đòi hỏi phải nên anh hùng, thì Người cũng phải ban đủ sức làm
anh hùng.
19. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày
những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.
Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng
trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc
thật).
Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước
Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy
đem những giáo huấn của Người ra thi hành. Sứ mạng cao cả của người công dân
Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.
Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của
Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4
trường hợp cụ thể:
· Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải
coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với
nhau.
· Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới
ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu
xa như con mắt, cái tay, cái chân…
· Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới
triệt để cấm li dị.
· Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân
thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn
hoàn thiện luật cũ.
· Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu
thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở
rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
· Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền
răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện
thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
· Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người
đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
1. “Hãy yêu kẻ thù”
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của
Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:
· Làm ơn cho kẻ ghét mình.
· Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
· Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
· Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
· Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
· Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao
la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời "Người làm
cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ
lành cũng như người bất lương…".
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng,
một nổ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con
người. “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa,
sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có
ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ
quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi
hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không
có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ,
đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn
tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế.
Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại
cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho
nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ
có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
2. Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình
thật khó biết bao! Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán
chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà
thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã
đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng
tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của
đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và
bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của
sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù
hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng
sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp,
nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo
vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng
cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ
thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai
cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính
tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau
chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những
buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng
như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng
như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải
tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên
đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
3. Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.
Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất
nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có
thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Chúng ta cố gắng xây dựng hòa
bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên dạy chúng
ta: Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn
(Ep 4,26).
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình
ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác,
xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình
yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con
người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ
hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có
sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu
thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành
cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm
trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật
nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh,
lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử
bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc
nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con
vật nào đến thăm ta cả?
Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp
và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm
uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì
đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu
thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ
giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi
ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho
đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người.
Amen.
20. Yêu kẻ thù
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh
em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt” (Mt 5,44-45).
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù mình”. Việc này
thật đòi hỏi: Nó đảo lộn các suy nghĩ của ta và làm mọi người phải thay đổi
hướng đi của đời mình!
Bởi vì, đừng dấu diếm nữa, tất cả chúng ta đều
có một vài kẻ thù… lớn hoặc nhỏ.
Kẻ thù đang ở đàng sau cánh cửa căn nhà bên
cạnh, nơi người đàn bà đáng ghét đó mà tôi thường tìm cách tránh né mỗi làn bà
ta sắp sửa cùng bước lên cầu thang. Kẻ thù ở chính nơi người bà con mà cách đây
ba chục năm đã đối xử bất công với cha tôi, vì thế tôi không còn chào hỏi nữa.
Kẻ thù ngồi ở bàn đàng sau trong lớp học và từ ngày nó tố cáo cho bạn tôi với
thầy giáo, không bao giờ bạn nhìn mặt nó. Kẻ thù là người bạn gái đó, vì cô ta
đã bỏ bạn để đi với người khác. Kẻ thù là người bán hàng đã đánh lừa bạn. Đó là
những người không nghĩ như bạn về chính trị, vì thế ta tuyên bố họ là kẻ thù.
Có người coi Nhà Nước là kẻ thù, nên dùng bạo lực đối xử với người đại diện Nhà
Nước. Cũng có người nhìn các linh mục và Giáo Hội như là thù địch. Tất cả những
người này và vô vàn những người khác mà ta gọi là “kẻ thù” ta phải yêu thương
họ.
Phải yêu thương họ sao?
Thưa phải, phải yêu thương họ! Và đừng cho
mình có thể làm được bằng cách thay đổi tình cảm oán ghét thành tình cảm nhân
hậu hơn.
Mà còn hơn nữa. Bạn hãy lắng nghe lời Đức
Giêsu dạy:
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới thực sự trở nên con cái của
Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu
cũng như người tốt”.
Bạn thấy không? Đức Giêsu muốn một tình thương
thể hiện qua việc cầu nguyện và những hành động cụ thể.
Ở nơi khác, Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn
cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ
mình” (Lc 6,27-28).
Ngài giải thích cho ta lý do tại sao Ngài
truyền dạy như vậy, và chỉ cho ta mẫu gương là tình thương của Thiên Chúa, Cha
Ngài; Ngài dạy ta làm như vậy cùng hành xử theo gương Chúa Cha.
Điều đó có nghĩa là trên đời ta không còn cô
đơn: ta có một người Cha và phải sống như Người. Không những thế, mà Thiên Chúa
còn có quyền đòi ta làm như vậy, bởi vì khi ta còn là thù địch của Người, còn
sống trong tội lỗi, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x.2Ga 4,19), và
sai Con của Người đến với ta, Đấng đã chết cách nhục nhã vì mỗi người chúng ta.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha
anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng
như người tốt”.
Bài học ấy chú bé Jery người da đen đã học
được ở Washington. Vì có trí thông minh, em đã được nhận vào một lớp đặc biệt
gồm toàn thiếu niên da trắng. Nhưng trí thông minh không đủ để làm cho các bạn
cùng lớp hiểu rằng em cũng bình đẳng như chúng. Màu da đen đã làm cho tất cả
ghét bỏ em, đến độ ngày lễ Giáng Sinh các học sinh tặng quà cho nhau nhưng
không thèm để ý tới Jery. Em bật khóc, điều này dễ hiểu! Nhưng khi về nhà em
nghĩ đến Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù của anh em”, và đồng ý với má, em
mua quà vui vẻ tặng cho tất cả những “người anh em da trắng” của mình.
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em, như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh
em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt”.
Ngày hôm đó Elizabeth, cô bé có đạo ở thành
phố Florence (Italia) thật đau lòng, khi bước lên bậc thang vào nhà thờ dự lễ,
vì cô nghe tiếng cười nhạo của một nhóm đồng lứa tuổi. Cho dù muốn chống lại,
em mỉm cười và trong nhà thờ em cầu nguyện cho những thiếu niên ấy.
Khi đi ra, các thiếu niên chặn em lại và hỏi
lý do tại sao em xử sự như vậy. Em trả lời, mình là người có đạo, nên phải
thương yêu luôn luôn. Em nói lên điều đó với niềm xác tín mạnh mẽ.
Chứng ta của em Elizabeth đã được thưởng công:
Chúa Nhật sau đó em thấy tất cả các thiếu niên ấy trong nhà thờ, rất chăm chú ở
hàng ghế trên cùng. Các thiếu niên chấp nhận Lời Chúa như thế. Do đó các em là
người lớn trước mặt Chúa.
Có lẽ ta cũng nên điều chỉnh lại một vài tình
trạng, hơn nữa cũng vì ta sẽ được xét xử theo như cách ta xét đoán người khác.
Thật vậy, chính ta là người trao vào tay Chúa cái thước mà Ngài phải dùng để đo
tình yêu của chúng ta. Ta đã chẳng xin Chúa: “Xin tha nợ chúng con như chúng
con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đó sao? Vậy ta hãy yêu thương kẻ thù! Chỉ khi
xử sự như vậy ta mới có thể sửa chữa lại sự chia rẽ, đạp đổ những hàng rào ngăn
cách và xây dựng cộng đoàn huynh đệ.
Điều đó khó khăn sao? Nặng nề sao? Nó không để
ta ngủ yên, ngay khi mới nghĩ đến sao? Hãy can đảm lên! Điều đó không phải là
quá sức: một nỗ lực nhỏ từ phía ta, rồi 99 phần trăm Thiên Chúa sẽ làm, và…
trong tâm hồn ta sẽ dâng trào niềm vui.
21. Chúng ta có tiến bộ tí nào không?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của
Charles E. Miller)
Dòng giống nhân loại đã làm một tiến bộ vượt
bực trong lịch sử gần đây. Hãy suy nghĩ về điều tương phản giữa một “toa xe
không ngựa kéo và một chiếc xe hơi hiện đại”, hoặc sự khác nhau giữa “chuyến
bay đầu tiên ở Kitty Hawk, Bắc Caroline vào năm 1903 và một cuộc du hành bằng
máy bay hiện đại”. Vào một trăm năm trước, không người nào có thể tưởng tượng
ra rằng người ta có thể ngồi trước một cái hộp, vừa gọi điện vừa nghe được
tiếng nói, vừa xem thấy người đang trò chuyện với mình.
Những tiến bộ của chúng ta thật đáng kinh
ngạc, nhưng một vấn nạn về luân lý và giáo dục vẫn còn tồn tại và nặng nề hơn
cả người sống ở thế kỷ trước hay ba mươi thế kỷ qua. Chúa Giêsu trong Phúc Âm,
Người đã ám chỉ tới sách Xuất hành, sách đó thuật lại sự kiện đã xảy ra trước
khi Chúa Giêsu sinh ra khoảng một ngàn bốn trăm năm. Đoạn văn mà Người đã trích
dẫn như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Điều này có nghĩa là chỉ có mắt mới
đền mắt được và chỉ có răng mới đền răng được. Nói cách khác, đây là một sự bào
chữa cho một công lý chính xác vào một thời mà nền quân chủ ngự trị, không hè
do dự phạt tội chết một người ăn cắp một quả nho trên bàn của vua. Hãy nhớ lại
vào những ngày tháng của Chúa Giêsu, nhiều năm sau lời bào chữa này đã trở nên
hòa hoãn hơn. Vua Hêrôđê đã không do dự chém đầu Gioan Tẩy Giả bởi vì vị quốc
vương dại gái ấy đã làm một lời hứa ngu ngốc với một cô gái nhảy dâm đãng.
Chúa Giêsu tìm kiếm một nền đạo lý cao hơn cho
những người đi theo Người. Nơi hình ảnh một bức tranh Người đòi hỏi chúng ta
không nên nhấn mạnh đến một sự công lý nghiêm thẳng. Điều đó đang muốn nói đến
án lệnh làm cho sự việc nên nghiêm trọng hơn. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa.
Người tuyên bố nếu chỉ yêu thương những người cùng dân tộc với mình thì không
đủ. Người ban mệnh lệnh yêu thương ngay cả kẻ thù của mình và cầu nguyện cho
những kẻ bắt bớ mình. Những kẻ hoài nghi chế tạo những giáo huấn này. Họ nghĩ
rằng Chúa Giêsu là một gã khờ khạo và những giáo huấn của Người là những lý
tưởng không thể thực hiện được. Đương nhiên Chúa Giêsu không ngây thơ tí nào,
Người rất khôn ngoan. Những lý tưởng Người đưa ra là những mục đích không phải
là không đạt tới được. Ít nhất chúng ta cũng như những người có dit đã nghe và
chấp nhận sự thách đố của Người: “Các con phải trở nên hoàn hảo như Cha các con
ở trên trời là Đấng Hoàn Hảo”.
Thánh Phaolô hỏi chúng ta: “Anh em không ý
thức anh em là Đền Thờ Chúa Thánh Thần ư, và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự
trong lòng anh em sao?”. Một sự khiêm nhượng giả hiệu sẽ không bao giờ làm cho
chúng ta quên đi giá trị của mình. Chúng ta xét thấy nhà thờ là nơi thánh
thiêng bởi vì đó là nhà của Thiên Chúa. Cùng một cách ấy, chúng ta phải nhận
biết sự thánh thiêng của chúng ta vì nó là Đền Thờ của Thiên Chúa. Thánh Thần
Thiên Chúa sống động bên trong chúng ta, biến đổi chúng ta nên con cái của
Thiên Chúa, củng cố hình ảnh Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu nơi chúng ta. Có phải
không khi nói với chúng ta rằng chúng ta phải trở nên khác đi, rằng chúng ta
không phải tự dối mình bằng việc suy nghĩ theo lối trần tục sao? Chúng ta được
kêu gọi để hành động theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, không phải theo
những tiêu chuẩn của xã hội thế trần.
Khi chúng ta đến dự Thánh Lễ, việc đầu tiên
chúng ta lắng nghe Lời Chúa, Thánh Kinh sẽ dẫn chúng ta đi đến những lý tưởng
và những thách đố. Tiếp đó, chúng ta tham dự Phụng vụ Thánh Thể và chúng ta
được lãnh nhận Mình và Máu Chúa. Thánh Thể là nguồn sức mạnh Thiên Chúa ban cho
chúng ta để chúng ta tiến bước theo những lý tưởng của Thánh Kinh và để chấp
nhận những thách đố ấy. Sẽ không có sự tiến bộ thật sự trong đạo đức nếu chúng
ta không sẵn lòng cố gắng, dù vất vả cũng không hề chi để toàn tâm toàn ý với
tiếng gọi của Chúa Giêsu là: “Các con hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời
là Đấng trọn lành”.
22. Yêu kẻ thù là thánh.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học
chi đạo: Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Kết thúc Hiến chương nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay cũng
đặt rõ mục đích là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời... là yêu kẻ
thù”.
Nho Giáo ở phương trời Viễn Đông, Kitô giáo ở phương trời Cận
Đông, tuy xa nhau hàng ngàn dặm, nhưng tình yêu đâu có khác nhau?
Một đàng muốn con người nên chí thiện ở tại thân dân, thương yêu
dân.
Một đàng bảo: “Anh em hãy nên toàn thiện ở tại thương yêu cả kẻ
thù”.
Một đàng: “Minh minh đức”, minh là làm sáng tỏ, minh đức là đức
sáng láng của Trời; minh minh đức là làm cho đức sáng của Trời sáng tỏ ra,
chiếu sáng ra.
Một đàng bảo: hãy cầu nguyện, cốt yếu của cầu nguyện là làm cho
danh thánh Cha trên trời hiển sáng, chiếu sáng ra khắp muôn dân. Thiên Chúa là
ánh sáng, Đức Kitô là ánh sáng bởi ánh sáng (Ga. 1, 9).
Phần kinh của sách Đại học chỉ có 205 chữ: đây là cương lĩnh, là
Hiến chương của Nho Giáo, mục đích đào tạo người học Thánh quân tử, thánh nhân.
Hiến chương nước Trời của Đức Giêsu cũng rất ngắn gọn, vài trăm
chữ, nhằm đào tạo con người thành con Cha trên Trời, thành Thánh nhân của Thiên
Chúa.
Hai Hiến chương có lẽ chỉ khác nhau ở chỗ: Tin Mừng nói rõ Cha
trên trời là Đấng hoàn thiện và hạnh phúc Nước Trời; sách Đại học không nói rõ,
nhưng cũng ngầm hiểu: làm cho dân được hạnh phúc là ở tới đích chí thiện; chí
thiện chính là Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay đặt chương trình nên chí
thiện, nên chí thánh rất cụ thể.
Bài I (Lv. 19, 1-2; 17-18) Chúa phán dạy: “Các
ngươi phải nên thánh”. Nhờ sống thánh thiện, mới tránh được: ghen ghét, oán
hận, trả thù; mới biết yêu đồng loại như chính mình. Nền tảng của dân thánh đặt
trên: “Ta là Đấng Thánh”.
Ở thời Cựu Ước, trước kỳ lưu đầy, khi nghe nói
đến “Đấng Thánh” thì dân nhớ đến Đền Thánh, nhớ đến nơi cực Thánh trong cung
thánh, nhớ đến những ngày lễ Thánh, những việc Thánh họ phải làm nơi đền thờ để
được nên thánh.
Đến thời lưu đầy đền thờ bị phá hủy, dân bơ
vơ, không còn điểm tựa để nhận ra Giavê là Đấng Thánh cho dân nên thánh. Họ
phải nhớ lại giới luật giao ước núi Sinai mà Giavê, Đấng Thánh đã ban cho họ.
Họ cần sống thực hiện giới luật đó để họ nên thánh như Đấng Thánh đã truyền dạy
họ. Họ mới mong Đấng Thánh giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy như Ngài đã giải
phóng tổ tiên họ khỏi nô lệ Ai Cập.
Bài II (1Cr. 3, 16-23) Phaolô không nhắc tới
đền thờ Giêrusalem, không nhắc đến luật cũ nữa. Tân Ước là thời đại mới, dân
Chúa thực sự không nên thánh nhờ đền thờ hay lề luật. Họ nên thánh, họ là dân
thánh (1Phêrô 2, 9) nhờ được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Phaolô cho họ
thấy: “Anh em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”
Từ nay họ là chi thể thánh của Đức Kitô “Anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô
thuộc về Thiên Chúa”
Thánh Phaolô đã cho ta biết rõ, bản chất cốt
yếu của thánh thiện, không nhờ đền thờ hoặc bất cứ ai dù là Phaolô... hay luật
lệ chỉ nhờ một mình Thiên Chúa: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” đã
làm cho ta nên thánh.
Khi đã nhờ Người mà nên thánh, thì chính nhờ
Người mà chúng ta mới có thể yêu kẻ thù.
Nhờ Người và như Người, chúng ta sẵn sàng chịu
vả má phải và giơ thêm má trái cho họ vả, chứ không như luật dạy: mắt đền mắt
răng đền răng. Nhờ Người và như Người, chúng ta không cần che thân, không cần
bảo vệ, sẵn sàng chịu bóc lột áo trong cũng như áo ngoài. Nhờ Người và như
Người không có hòn đá gối đầu, chúng ta không tiếc xót khi cho vay mượn, không
bám gót của cải, dễ dàng cho đi, bỏ đi.
Nhờ Người và như Người đã vác khổ giá, chúng
ta sẵn sàng phục vụ công việc như nô dịch, làm phu như ông Simon vô cớ bị quân
dữ bắt làm phu vác đỡ thánh giá Chúa. Hơn nữa, còn phải sẵn sàng hy sinh cả
mạng sống để yêu kẻ thù.
Như thế, mới được trở nên con Cha, Đấng đã làm
cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống
cho kẻ dữ cũng như người lành. Chiêm ngắm những kỳ công bao la đó, Nho gia xưa
đã rất ngạc nhiên kêu lên: “Ôi đạo của bậc thánh vĩ đại thay! mênh mông như
biển cả, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục, thánh hóa tất cả vạn vật trong vũ
trụ từ đất đi tới trời cực kỳ tốt đẹp: Đại tai thánh nhân chi đạo! dương dương
hồ, phát dục vạn vật; tuấn cực vu thiên” (Trung Dung - chương 27)
Thánh như vậy đã “phối hợp với trời đất rộng
dầy cao minh: bác hậu phối địa, cao minh phối thiên” (Trung Dung - 26)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy ba mức độ
thánh thiện:
Thánh thiện ở đền thờ, kinh lễ như hạng tư tế,
bị Chúa phê: quân này mến Ta bằng môi miệng và lòng nó xa Ta.
Thánh thiện ở giữ trọn lề luật như chàng thanh
niên giàu có, nhưng anh thiếu một điều là: hãy về bán những gì anh có mà cho
người nghèo, người nghèo là kẻ thù của người giàu.
Thánh thiện ở yêu kẻ thù, yêu kẻ thù mới thực
là tình yêu chí thiện, chí thánh phản ánh rõ nét tình yêu Thiên Chúa đã thí
mạng sống Con Một cho kẻ thù: kẻ thù của Thiên Chúa là kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, xin thánh hóa tình yêu con, cho con biết yêu mến mọi
người, nhất là những người thù ghét, oán hận con. Amen.
23. Gợi ý giảng của Lm Carôlô.
SỐNG BẰNG YÊU THƯƠNG
1) Thế nào là thánh?
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được
hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là
Đấng Thánh” (bài đọc I); “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời
là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng).
Thánh là thế nào?
Người ta thường hình dung vị thánh là một
người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung
như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị
thánh một cách rất dễ thương, dễ thích: Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà
vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu
thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.
Một vị thánh như thế, ai mà không thích? Hình
ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành? Và những người thánh như
thế, xã hội nào mà không cần đến?
2) “Mắt đền mắt, răng thế răng”
Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong
sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay,
chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản
luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại:
kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt
(không được hai); nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được
hơn)…
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân
Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu
Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật “Hòn đất ném đi, hòn chì ném
lại”. Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel: một
người của bên này bị bắn tỉa chết là liền sau đó một làng của bên kia bị máy
bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn: hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai
gia đình xung đột với nhau; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì
người kia đáp lại ba câu; người này nói “Cha mầy” thì người kia đáp lại “Tổ
tiên sư mầy”…
Làm thế nào để chấm dứt xung đột? Cách giải
quyết “Mắt đền mắt răng đền răng” rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường
có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách “Hòn đất ném đi
hòn chì ném lại” thì xung đột càng leo thang nhanh hơn.
Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức
Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn.
Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng
nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.
3) Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người
đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một
cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy “Hãy yêu thương kẻ thù”, như
sau:
“Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được
dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào
hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn
con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người,
không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh
giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó
chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi,
tôi sung sướng vì Ngài đã không nói “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh
em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc
cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không
thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè
bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người
đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn
thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ
đối với hết mọi người” (Trích bởi Fiches Dominicales, Năm A, trang 201)
4) Mảnh suy tư
- Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không
phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng
phạt mà người lành phải gánh chịu; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải
do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt.
(Oscar Wilde)
- Tha thứ giống như cái gì? Giống như mùi
hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
5) Lời cầu nguyện cuối ngày
Lạy Chúa, mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi
vào một cái chết nho nhỏ để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua.
Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con
đều đã được tha thứ, và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được
thánh hóa.
Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con
vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa.
Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho
cuộc tái sinh vào cõi đời đời, chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt
chan chứa tình yêu và hy vọng và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là
quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu
độ yêu thương. (Đức Giám Mục Appleton)
6) Chuyện minh hoạ
a/ Trả thù
Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm
tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay.
- Tốt hơn, con nên về nhà.
- Nhưng con bị nhục mạ.
- Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự
nhục mạ cũng giống như bùn.
- Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.
- Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt
ngay bây giờ và sau này: Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô.
b/ Tiêu diệt kẻ thù
Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt
hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ
thù trước kia.
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt
hết kẻ thù?
- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã
biến họ thành bạn bè của ta.
24. Nên hay dừng? - JM. Lam Thy
Cả chương 5 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu
trỉnh thuật Lời dạy của Đức Giê-su nhằm giúp các môn đệ và những kẻ tin trở nên
người công chính: Từ “8 mối phúc” đến “muối, men và ánh sáng cho đời”. Tiếp
liền theo đó, Đức Giê-su lại dạy 5 “Đừng”: Đừng giận ghét – Chớ ngoại tình –
Đừng ly dị – Đừng thề thốt – Chớ trả thù; và 1 “Nên”: Phải yêu kẻ thù.
Bài Tin Mừng tuần trước (CN VI/TN-A – Mt 5,
17-37) trích Lời Đức Giê-su dạy các môn đệ 4 “Đừng”; đến bài Tin Mừng hôm nay
(CN VII/TN-A – Mt 5, 38-48), Người lại dạy thêm 1 “Đừng” nữa: Chớ trả thù. Vì
sao con người hay trả thù? Chung quy cũng do tự ái quá cao mà thôi, bởi tự ái
là gì nếu không phải là tự yêu mình. Khi chỉ biết yêu mình một cách thái quá
thì sẽ cho là mình đúng, lúc nào và trong trường hợp nào cũng đúng hết. Bởi thế
nên được người khen thì chẳng nói làm gì, nhưng bị chê thì sửng cồ lên ngay. Bị
phê bình trúng tim đen thì bằng mọi giá sẽ tìm cách trả đũa. Nói cách khác, khi
con người tự ái quá đáng, sẽ rất dễ giận ghét và từ giận ghét sẽ đưa đến hành
động trả thù.
Ngay trong Cựu Ước, Lề Luật cũng dạy: “Luật
báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay,
chân đền chân.” (Đnl 19:21); “Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì
phải xử với nó như nó đã xử với người ta: chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt,
răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ
làm cho nó như vậy.” (Lv 24, 19-20); “Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy
mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21,
23-24). Mới nghe qua những điều khoản đó thì thấy quả thật là Lề Luật quá khe
khắt. Và cũng vì thế nên đã có những bài suy niệm cho rằng hành động như vậy là
phản Ki-tô giáo. Sẽ có phản biện: Nếu là phản Ki-tô giáo thì tại sao Đức Giê-su
không bãi bỏ mà Người lại dạy “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện
toàn Lề Luật” (Mt 5, 17)?
Thực
ra, vấn đề cũng không đến nỗi nan giải cho lắm. Trước hết, cần phải hiểu Lề
Luật của Cựu Ước dù sao cũng chỉ là luật do con người đặt ra, mà đối với con
người thì chỉ thích sòng phẳng theo kiểu “ân đền oán trả” (đền ơn trả
oán), nên mới đòi “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân
đền chân”. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là lề luật có tính răn đe: Chỉ có nghiêm
ngặt như vậy mới có thể răn đe, ngăn ngừa người ta phạm tội. Coi lại câu chuyện
Nguyên tổ phạm tội thì vấn đề sáng tỏ ngay. Thiên Chúa đưa ra giới luật “trái
cấm” cũng là để răn đe. Nếu con người biết vâng phục thì đâu có sao. Đã không
vâng lời, còn muốn trở nên “những vị thần biết điều thiện điều ác" (St 3,
5) ngang bằng với Thiên Chúa, nên mới thành cớ sự. Biết là tội mà còn cứ cố
tình phạm tôi, rõ ràng Nguyên tổ loài người đã tự xử án mình. tự kết án mình
vậy. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói
mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không
phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. Ai từ chối tôi và không đón
nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử
người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 47-48).
Không những chỉ khuyên “Chớ trả thù”. Đức
Giê-su còn đi xa hơn: “Phải yêu kẻ thù”. Để cụ thể hóa vấn đề, Người lại tiếp
tục dùng kiểu nói “Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, để răn
dạy môn đệ: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải,
thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của
anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì
hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng
ngoảnh mặt đi.” (Mt 5, 38-42). Đã không “ăn miếng trả miếng”, mà lại còn lấy
đức độ mà đáp trả oán thù (dĩ đức báo oán), sẵn sàng chịu đựng gấp bội sự tàn
độc của ác nhân, thì quả là… thiên nan vạn nan, khó lòng mà chấp hành.
Con người chỉ có thể tự yêu mình (tự ái), khó
lòng yêu được người khác, chớ đừng nói đến yêu cả kẻ thù. Mà có lẽ cũng chính
vì thế nên mới có vụ “cửa rộng, cửa hẹp” ("Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa
rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó.
Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.
Mt 7, 13-14). Như vậy thì phải làm sao? Cái đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản
thân, bởi “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra
mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”
(Hc 15, 16-17). Nếu không muốn bận tâm bận trí, không muốn hy sinh này, thiệt
thòi khác, con người được quyền tự do chọn cho mình cửa rộng – còn rộng thênh
thang nữa kia! – còn ngược lại, sẽ được vào cửa hẹp.
Nói cách khác, con người hoàn toàn tự do khi
yêu hoặc ghét, Chúa không hề ngăn cấm hay bắt buộc, Người chỉ khuyên bảo, nhắc
nhở thôi. Có lẽ cũng nhờ thế mà trong cuộc sống vẫn còn nhiều thật nhiều những
con người sẵn sàng quyết tâm chọn cho mình cửa hẹp. Thế thì tại sao lại cứ đưa
cái tự ái lố bịch của mình lên quá cao như thế? Vâng, hãy bình tâm lại mà
“xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi”, để thấy được rằng mình đã “nhận” quá nhiều từ
Thiên Chúa, kể cả của anh em đồng loại. Vậy tại sao lại cứ khép chặt cửa lòng,
bịt chặt miệng túi, mà không biết đem chia sẻ với anh em những gì mình đã được
nhận? Hãy nhớ rằng, nếu bản thân có đem “cho” anh em cái gì thì cái đó cũng
chẳng phải là của riêng mình, mà là của Thiên Chúa đã ban cho, vậy đâu có mất
mát thiệt thòi gì mà cứ phải ca cẩm? Vâng, Lời Chúa còn rành rành ra đó: “Anh
em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8).
Như
vậy là đã rõ, Đức Giê-su không bãi bỏ Lề Luật, “dù một chấm một phết cũng không
thay đổi”, mà Người chỉ “kiện toàn”. Nói cho dễ hiểu hơn thì Lề Luật vì do con
người soạn thảo nên chưa đầy đủ, chưa nêu bật được cái cốt lõi của vấn đề (giữ
Lề Luật để phụng thờ, tôn vinh Thiên Chúa). Vì thế, Người mới dùng cách nói
“Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” để các môn đệ hiểu được
rằng những điều Lề Luật dạy chỉ là những “lý lẽ”, những “tư tưởng của loài
người”, và cần phải nhìn vấn đề theo “tư tưởng của Thiên Chúa”, đó là “điều
quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này
vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23, 23). Và cũng vì
“điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín”, nên
sau 5 lời khuyên “Đừng”, thì tiếp liền theo đó, Đức Ki-tô lại khuyên “Nên”
(“Phải yêu kẻ thù”). Thay vì “lấy oán báo oán (“dĩ oán báo oán”) thì hãy lấy ơn
báo oán (“dĩ đức báo oán”).
Cả 6 điều khuyên bảo “Đừng” và “Nên”, xét cho
thấu đáo, đều nằm trong luật yêu thương, mà ở đây là Luật yêu thương của Thiên
Chúa (vô hạn) chớ không phải của con người (hữu hạn). Nói về luật yêu thương
thì chính là nói về nguyên lý tình yêu, nguyên lý ấy xuất phát từ
Thiên-Chúa-Tình-Yêu. Vâng, kể từ khi Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, muôn loài, thì
đã vì tình yêu mà Người dựng nên loài người và đặt làm chủ mặt đất. Con người
đầu tiên được sinh ra chỉ có một mình, Thiên Chúa lại thương "Con người ở
một mình thì không tốt" (St 2, 18), nên ban cho một người bạn khác giới
tính để từ đó có thể sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Sự đối kháng giới tính
không nhằm loại trừ nhau mà là bổ túc cho nhau, hỗ trợ nhau nên hoàn thiện. Cũng
vì tình yêu, không những Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có
nam có nữ, mà Người lại ban cho con người một đặc ân là được tự do đến gần như
tuyệt đối. Cũng vì được tự do như vậy, nên con người đã vượt qua giới răn của
Thiên Chúa mà phạm tội. Sau khi phạm tội, con người vẫn không bị trách phạt;
chẳng những thế, còn được Thiên Chúa ban Con Một xuống thế để cứu chuộc, để
giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi và đem lại đời sống vĩnh
cửu. Nếu không vì tình yêu, thì Thiên Chúa có đối xử với con người như vậy
không?
Nói tóm lai, bản chất con người vốn dĩ là
thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm
hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình.
Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác), “ái
nhân như ái thân” (yêu người như yêu mình). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa,
tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Người đã ban cả Con
Một làm giá chuộc muôn người vì tình yêu. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức
Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta
làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời
các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12); “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là
môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 15).
Ôi!
Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết
phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt
đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con
đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào
cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình
hại người). Xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm
lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi
tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ
hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời.
Ôi! “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến
yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình
an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng
nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem
tin kính vào nơi ghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh
sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con,
tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu
biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi
được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ
tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần
Linh thánh ái! Xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy
thiện chí, ơn an bình.” (TCCĐ Kinh Hoà Bình). Amen.
25. Yêu thương tha nhân không giới
hạn
(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Câu Mt 5,17 đưa vào một vấn đề: tương quan
giữa Luật Môsê và các Ngôn sứ, tức trọng tâm của niềm tin Cựu Ước, và giáo huấn
của Đức Giêsu, trọng tâm của niềm tin Kitô giáo. Vấn đề được minh nhiên cứu xét
trong phân đoạn 5,20-48 là bản văn nói về sáu “cặp đối nghĩa”. Phân đoạn này
cho thấy tính cách mới mẻ trong giáo huấn của Đức Giêsu so với chính các bản
văn Cựu Ước.
Bản văn chúng ta đọc hôm nay đề cập đến hai
cặp đối nghĩa cuối cùng: chớ trả thù (5,38-42) và phải yêu kẻ thù (cc. 43-48).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chớ trả thù (5,38-42);
2) Phải yêu kẻ thù (5,43-48).
3.- Vài điểm chú giải
- mắt đền mắt, răng đền răng (38): Đây là luật hình sự dựa trên
nguyên tắc đối trọng: ai đã gây thiệt hại, thì phải sửa chữa thiệt hại đã gây
ra. Xem Xh 21,23-25; Lv 24,19-20; Đnl 19,21; Bộ luật Hammourabi (2000 năm tCN).
- đừng chống cự người ác (39): Lời này được ngỏ với kẻ bị xúc phạm để họ biết xử sự
đúng tư cách là môn đệ Chúa Kitô, chứ không phải là nhằm hủy bỏ nền luật pháp
hiện hành (thánh Phaolô đã vận dụng luật pháp này: x. Cv 25,11). Chính cách xử
sự này cho thấy rằng các bộ luật hình sự chỉ có tính cách nhất thời, giới hạn.
- đi một dặm (41): Có lẽ đây là một dịch vụ. Các lính tráng và quan
chức có thể bắt người qua đường vác một gánh nặng (trường hợp Simôn Kyrênê)
hoặc đi với họ như là con tin hoặc như người dẫn đường.
- Ai muốn vay mượn (42): Bên Paléttina, “cho vay thường tương đương với bố
thí (x. Hn 29,1). Người Israel không được cho người đồng chủng vay lấy lãi (Xh
22,24; Lv 25,35-37; Đnl 15,7-11; 23,20-21).
- hãy yêu kẻ thù (44): Động từ agapaô nói đến một tình yêu hy sinh cho
người kia. Tình philia (phileô) là một tương quan đặc biệt, một sự trao đổi,
một sự đồng thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất tự nhiên, sự để ý đến nhau,
sự đồng cảm. Còn eraô (eros) là tình yêu phàm tục.
- nên hoàn thiện (48): Teleios (Hp. tamim) có nghĩa là đã đạt tới đích
(telos), tức là tới mức thể hiện tối đa; như thế là không có lỗ hổng, khiếm
khuyết, giới hạn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chớ trả thù (38-42)
Luật báo phục (“mắt đền mắt, răng đền răng”)
hình thái triệt để nhất và cũng sơ khai nhất của luật hình sự; luật báo phục
chính là việc hợp pháp hóa sự công bình riêng tư. Thật ra, vào thời Đức Giêsu,
người ta không còn áp dụng luật này cách cứng ngắc nữa, vì đã tạo ra những hình
thức khác để nộp phạt (đóng tiền…). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã lấy luật báo phục
làm điểm xuất phát để giáo huấn: với năm ví dụ cụ thể (cc. 39b-42), Người mời
gọi các thính giả đi xa hơn thái độ cam chịu thụ động: không những không đáp
lại sự dữ bằng sự dữ, nhưng còn phải đáp lại sự dữ bàng sự lành, sự thiện. Bằng
các ví dụ đó, Đức Giêsu cho các môn đệ hiểu rằng Thiên Chúa Cha chờ đợi họ sẵn
sàng cho đi trọn vẹn, cho đến mức tối đa, nếu hoàn cảnh đòi hỏi. Do đó, không
phải là cứ áp dụng sát mặt chữ những ví dụ của Đức Giêsu, nhưng là hiểu cho
đúng để áp dụng cho đúng. Vấn đề không phải chỉ là đưa má kia cho người ta tát
tiếp, nhưng là cống hiến một không gian để kẻ gian ác có thể suy nghĩ về các
lầm lạc của họ.
Chịu vả vào cả hai má, nhường cả áo ngoài cho
kẻ đòi áo trong, đi hai dặm với một người bắt anh đi một dặm, anh muốn vay
mượn, thì hãy cho vay mượn, tất cả đều là những hành vi diễn tả thái độ Kitô
hữu, nhưng không đúng ý Chúa Kitô nếu người bị khổ không chịu khổ vì tình yêu
đối với những kẻ gây bất công cho mình.
* Phải yêu kẻ thù (43-48)
Với cặp đối nghĩa cuối cùng này, Đức Giêsu cho
hiểu rằng sự hoàn thiện của Chúa Cha, đó là tình yêu. Sách Lêvi (19,18) buộc
người Híp-ri yêu thương người re’a (HL ho plêsios, người thân cận), là người
cùng sống giao ước với Đức Chúa, những thành viên của cộng đồng dân Thiên Chúa;
người ngoại quốc (gêr) mà đi vào cộng đồng tôn giáo với người Israel thì cũng
được hưởng tình yêu này. Sự thù ghét kẻ thù không được quy định trong Lề Luật,
nhất là với một công thức sống sượng như thế. Sự thù ghét này phát sinh như một
hậu quả của luật yêu thương người thân cận.
Kẻ thù đầu tiên được kể ra, đó là “những kẻ
ngược đãi”. Đây hẳn là những kẻ thù chống lại niềm tin của ta, chống lại lối
sống Kitô giáo. Yêu kẻ thù không có nghĩa là trở thành bạn hữu của họ, nhưng là
tỏ ra thông cảm, nhân ái, và sẵn sàng trợ giúp. Đức Giêsu đã yêu thương mọi
người, nhưng không phải không có những sự ưu ái đối với một số người, và cũng
không ngại nói lên lời răn đe và trách mắng các đối thủ. Tình yêu đối với kẻ
khác được diễn tả ra bằng hai ví dụ mẫu: cầu nguyện cho kẻ thù và “chào hỏi”
mọi người không phân biệt. (x. Lc 23,34; Cv 7,60). Người Kitô hữu phải mở rộng
vòng người thân cận ra bên ngoài những gì Luật dạy và những ngươi thu thuế
(telônai) và dân ngoại (ethnikoi) vẫn thực hành. Người plêsios không chỉ là
“những người công chính”, “những người tốt” (c. 45), “những ai yêu thương anh
em” (c. 46), “các anh em” (c. 47), nhưng tất cả mọi người, đặc biệt các “kẻ
thù” (cc. 43-44), “những kẻ ngược đãi anh em” (c. 44), “những người xấu” và
“những người bất chính” (c. 45).
Đức Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý
hướng của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu buộc phải cung cấp cho mọi người
những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong
những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một
lệnh mới cho các tương quan giữa con người. Người môn đệ chỉ trở thành con của
Chúa Cha trong mức độ người ấy mô phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của
Chúa Cha, nghĩa là yêu thương người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu
thương họ. Khi yêu thương mọi người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu
chứng tỏ cách chắc chắn và trung thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa.
Câu “anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”
(Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống
trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” và của sách Lêvi (19,2): “Hãy
nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”.
+ Kết luận
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người
môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này
chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây
đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các
tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị
dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình
sự. Thật ra đây chính là lối sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã chết vì không
nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như
thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan
giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Đức
Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để
vượt qua nền luân lý Pharisêu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua giáo huấn của Người, Đức Giêsu giúp
chúng ta nhìn vào đời sống Kitô hữu giữa lòng xã hội. Như bất cứ ai, người Kitô
hữu cũng có khi là đối tượng của những bất công, của bạo động; họ bị xử thô
bạo, hành hạ, đánh đập, bỏ tù, xử bất công. Đức Giêsu đề nghị không phải là một
cách thức xử sự mang tính tự vệ hoặc chỉ là bất bạo động, nhưng còn là chấp
nhận bị tước đoạt vô điều kiện.
2. Khi chịu xử bất công, người môn đệ Chúa
Kitô vác thập giá cho những kẻ đã chuẩn bị thập giá cho mình. Không phải là
những hành vi thể lý là đáng kể, nhưng là những động lực khiến người ta chấp
nhận, không vì yếu đuối hoặc hèn nhát, nhưng là để khỏi gây thiệt hại cho người
anh em hư hỏng, lạc đường.
3. Đức Giêsu không đề nghị một trật tự mới cho
các tương quan xã hội, nhưng một nguyên tắc sống khổ chế có khả năng minh họa
và giải thích trước thái độ của Người đối với người Pharisêu và các kẻ bách hại
Người nói chung.
4. Luật Tình yêu kẻ thù đảo lộn các cách xử sự
theo quy ước của loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng
kiểu nhìn như mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp
Tin Mừng vượt quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con
người, nhưng tỏ ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của
họ. Lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
5. Từ ngữ “hoàn thiện” in vào trong lối hành
xử của Kitô hữu một sức năng động. “Hoàn thiện” là vượt qua mọi thiếu sót, như
thế là không bao giờ thực hiện được vĩnh viễn, nhưng cứ tiến tới mãi, và nếu
mức độ là sự hoàn thiện của Thiên Chúa, thì ta chẳng bao giờ đạt tới được mức
thực hiện hoàn toàn. Nên hoàn thiện như Chúa Cha, trong cụ thể, là bắt chước
Đức Kitô trong thái độ quy phục trọn vẹn, anh hùng, thánh ý Thiên Chúa, và
trong sự tận tình sống cho anh chị em.
26. Chú giải của Noel Quesson
“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng….còn Thầy, Thầy bảo cho
anh em biết…”
Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở
phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức Giêsu đã chống lại những gì đã
được nói trước kia hay đúng hơn người kiện toàn chúng. Nhưng cách nói này có
một uy quyền chưa từng thấy, nhất là khi người ta biết công thức ở thể thụ động
(“luật dạy người xưa” = luật được dạy cho…) là một ngữ điêu trong ngôn ngữ Do
thái, được dùng vô vị, để tránh việc sử dụng danh của Thiên Chúa mà người ta
không bao giờ nói ra vì lòng tôn kính Người. Nói rõ ra công thức này có nghĩa;
“Thiên Chúa đã nói..còn Thầy, Thầy cho anh em biết…”. Cũng thế, công thức “anh
em đã được nghe, được dạy…” gợi lại việc đọc trang trọng luật trong phụng vụ ở
Hội Đường. Đó là luật thánh, bất khả xâm phạm toả ánh vinh quang của núi
Xi-nai. Vậy, Đức Giêsu đã dám chống lại lời của Thiên Chúa, sách kinh Tô-ra
bằng những khẳng định riêng Người. Không bao giờ có một ngôn sứ nào đã nói như
thế. Vai trò của họ chỉ là truyền đạt lại hay chú giải sứ điệp của Thiên Chúa:
"Đức Chúa nói như thế..." Để nói như Đức Giêsu, phải là người điên
hoặc là Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã dạy anh em... Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em..." Người ta biết rằng Người đã bị buộc tội phạm thánh.
Nhưng phần tiếp theo sẽ chứng tỏ cho chúng ta
thấy rằng đó là một sứ điệp thật sự siêu phàm, một sứ điệp của Thiên Chúa!
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "Mắt đền mắt, răng đền
răng". Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác..."
Tầm thước thời đại của chúng ta... khó mà hiểu
được "luật phạt ngang bằng" (loi du talion). Làm thế nào mà Luật của
Môsê (Luật của Thiên Chúa) đã có thể phát biểu một luật như thế. Vả lại, luật
này đã là một tiến bộ to lớn đối với bản năng: trả thù rất tự nhiên nơi con
người. Bởi luật phạt ngang bằng ấy, những luật theo tập quán của Phương Đông Cổ
đại (ví dụ: bộ luật Ham mourabi) cố gắng giới hạn những sự trả thù thái quá.
Hành động tự nhiên của người bị tấn công là "trả đũa nhiều hơn". Như
một bài ca man rợ mà La-méc đã hát: "Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng
La-méc thì gấp bảy mười bảy..." (St 4,24). Vì thế luật ấy đã cố gắng giới
hạn bạo lực và khuyến cáo chỉ nên bắt kẻ tấn công chịu sự đối xử giống như
người này bắt nạn nhân của hắn phải chịu (Xh 21, 24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Hình
như chúng ta đã hoàn toàn vượt qua luật này của Kinh Thánh vì nó được viết ra
cho một thời- đại khác với thời đại của chúng ta. Than ôi! Nếu như người ta cứ sống
mãi theo luật hình phạt ngang bằng! Biết bao thành phố bị ném bom bởi sự “trả
thù” thật biết bao cuộc đấu tranh chủng tộc, quốc gia, xã hội trong đó người ta
áp dụng điều ngược lại với "luật hình phạt ngang bằng, nghĩa là sự leo
thang của bạo lực". Nó áp dụng cho người nào sẽ là người mạnh nhất cho
người nào sẽ trả đũa lại những cú đòn đã nhận được! người ta nói một cách ngây
thơ về ‘những tương quan lực lượng’ nhưng đó luôn luôn là một bản năng man rợ
lâu đời.
Đức Giêsu đã táo bạo mời gọi con người đi đến
hoàn thiện của tình yêu Người bảo chúng ta rằng không nên trả thù về mọi
việc... không nên đánh trả kẻ hung ác! và vốn là một nhà thuyết giảng cụ thể,
đại chúng, Người sẽ cho chúng ta bốn ví dụ:
“Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa...
Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó
lấy cả áo ngoài...
Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai
dăm...
Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt
đi..”
Ở đây cũng thế, Tin Mừng không bao giờ cho
chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một
"tinh thần" chứ không phải là một "quy tắc". Chính Đức
Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ Thượng Tế, đã không giơ má kia ra!
Người đã đáp lại dũng cảm và xứng đáng: "Sao anh lại đánh tôi" (Ga
18,23).
Vả lại người ta không có quyền dựa trên những
lời đó của Đức Giêsu để bảo lãnh cho sự bất công, ở đây, chúng ta không có
những quy tắc luật pháp có thể áp dụng nguyên xi cho xã hội dân sự: điều này sẽ
khuyến khích tình trạng ăn xin, khích lệ bạo lực và tội ác, không bảo đảm sự
trừng phạt những kẻ bất lương. Chắc chắn, Đức Giêsu đã không muốn công nhận một
tình trạng áp bức bất bình thường khi đòi hỏi những kẻ yếu phải cam chịu. Cũng
có những trường hợp mà một môn đệ chân chính của Đức Giêsu phải chiến đấu: cam
chịu sự bất công, nhất là sự bất công mà những người khác là nạn nhân, hoàn
toàn trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu. Sau khi đã nêu ra những khía cạnh
đó, hãy để Đức Giêsu tra hỏi chúng ta. Phải, tất cả chúng ta đều phải chiến
thắng bản năng trả thù tròng con người của mình. Điều ác sẽ không bị vượt qua
khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa
điều ác bằng điều ác, người ta trở về với vòng tròn hỏa ngục. Thật vậy, điều ác
mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta. Nhưng khi người ta
đáp trả lại điều ác, điều ác ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó
đã đi vào lòng chúng ta. Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại:
chiến thắng điều ác bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù.
"Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "hãy yêu đồng loại và
hãy ghét kẻ thù".
Trong Kinh Thánh, người ta có tìm kiếm một quy
tắc như nhưng thế cũng vô ích. Thật vậy, Đức Giêsu muốn ám chỉ thái độ thông
thường của toàn thể nhân loại; được diễn tả rất mạnh trong nhiều bài Thánh vịnh
về “sự trừng phạt của Chúa”, trong đó lòng thù ghét tội lỗi đi đến chỗ biện
minh cho sự thánh chiến: "Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy
Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét
đắng, chúng trở thành thù địch của chính con" (Tv 139,19-22). Những thủ
bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: "Ngươi sẽ ghét những đứa con
của bóng tối". Vả lại, phải hiểu ở đây trước hết không phải là những kẻ thù
của mình mà là những “kẻ thù của Thiên Chúa" tức là những kẻ thù của của
nhóm giáo sĩ gồm “con cái của ánh sáng. Vậy sự thù ghét trước hết có ý nghĩa là
từ chối ý thức hệ của họ.
"Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha
anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ
xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất
chính".
Đây là điều mới mẻ cao cả nhất của Tin Mừng.
Cho đến bây giờ người ta đã cầu nguyện "chống lại" các kẻ thù của
mình (Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29; v.v…) Giờ đây phải cầu nguyện cho họ,
nghĩa là để cho họ được hoán cải. Nhưng hãy coi chừng, người ta không thể sống
Tin Mừng, bằng cách chỉ ở lại trên bình diện con người. Làm điều mà. Thiên Chúa
vừa đòi hỏi chúng ta là đã vượt quá những khả năng của con người. Nếu Đức Giêsu
bảo chúng ta yêu mến kẻ thù, chúng ta bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên yêu
chúng ta như thế Phải đọc lại đoạn văn nổi tiếng của thánh Phaolô gởi tín hữu
Rôm (5,7.8): "Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám
chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay
khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Khi chúng ta đứng trước một tình yêu
thương mà về mặt con người, chúng ta khó sống hoặc không thể sống nổi thì chúng
ta không còn ở lại trên bình diện tâm lý, đạo đức và xã hội… mà phải đặt mình
trước măt ảnh chuộc tội: Lạy Chúa Giêsu con của Chúa Cha, Chúa đã muốn điều tốt
lành cho những người muốn Chúa chịu điều ác... Chúa đã đau khổ và đã chết… Tình
yêu chúng kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa không ngừng thực hiện, ‘Người cho
mặt trời của Người mọc lên trên cánh đồng của người vô thần bách hại đạo, cũng
như trên khu vườn của các nữ tu Cát Minh’. Bạn có tự hỏi mình phải làm gì để
yêu thương người không yêu thương bạn không?
Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách
không ngừng tha thứ cho bạn. Đức Giêsu chỉ dám yêu cầu chúng ta sống tình yêu
thương xem ra không thể có đối với kẻ thù bởi vì Người đã sống nó trước tiên:
"Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu mình, thì anh em nào có công
chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ
chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại
cũng chẳng làm như thế sao?
Người đã nói: chúng ta hãy trở thành muối và
ánh của thế gian. Vì thế Người mời gọi chúng ta chấp nhận một cung cách hoàn
toàn mới về mặt nhân loại là không thể có cắt đứt với mọi cung cách của những
người khác. Để bắt chước Thiên Chúa; noi gương Người, chúng ta phải đi đến tận
cùng tình yêu ấy vốn không đơn giản là một tình yêu có qua có lại: Tôi yêu
thương bạn bởi vì bạn yêu thương tôi, tôi chào bạn bởi vì bạn chào tôi... Đức
Giêsu nói, người ngoại cũng chẳng làm như thế. Phần Thiên Chúa; trước sự khước
từ tuyệt đối không đáp lại tình yêu, Người vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là
yêu thương. Theo Đức Giêsu yêu không thể chỉ được giản lược vào bình diện tình
cảm, sự lôi cuốn, cảm tính, quyến luyến. Đức Giêsu không chê trách tình yêu đó,
mà chúng ta rất cần. Ai có thể sống mà không có sự dịu dàng âu yếm đó? Có điều,
Đức Giêsu bảo chúng ta rằng không nên ở lại mãi trong tình yêu đó.
Phải Đức Giêsu bảo chúng ta phải yêu thương kẻ
thù của mình. Và chúng ta có sẵn nghệ thuật xoa dịu yêu sách của Tin Mừng,
chúng ta nói: ‘Tôi không có kẻ thù...’ Lúc đó, chúng ta phải chấp nhận ánh sáng
sống sượng và mạnh mẽ mà Đức Giêsu soi chiếu trên cuộc đời con người đã mang
dấu ấn của những xung đột không thể tránh khỏi: Thật ra mọi người không giống
tôi đều xúc phạm và làm tôi tổn thương. "Cái làm cho người khác khác
tôi", cáo giác tôi và nhắm đến việc loại bỏ tôi... ‘Tính tình ấy rất khác
tính tình của tôi’ làm tôi bực dọc giết chết tôi. ‘Cái cách nói năng đó... cái
cách cư xử đó...’ làm tôi phát cáu. Bạn đừng chờ đến ngày mai. Ngay trong giây
phút này bạn. hãy ngừng ngay suy nghĩ của bạn.... và hãy làm điều Đức Giêsu bảo
bạn: Hãy cầu nguyện, dù chỉ trên danh nghĩa cho những người làm bạn bực bội,
những người làm bạn đau khổ, những người mà bạn không yêu hoặc những người
không yêu bạn.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng
hoàn thiện”.
Yêu thương những người không yêu chúng ta...
đó là noi gương Thiên Chúa. Hãy làm điều thiện hảo cho những ai làm hại chúng
ta, đó là điều linh thánh. "Kitô hữu là gì? Đó không phải là đã đạt đến
mục đích cao cả nhất tức tình yêu phổ quát, mà là cố gắng vươn lên tình yêu ấy.
Đây không phải là một thứ đạo đức hiền từ nhu nhược dành cho những người có
tình cảm bất lực. Chúng ta là những con cái của một Chúa Cha được "ôm ấp
tròng lòng của Người" dù là kẻ xấu cũng như người tốt. Trên thập giá Đức
Giêsu có quyền nói với chúng ta những yêu sách ấy. Người là Đấng bị người ta vả
vào má... bị người ta lột áo trong, áo ngoài... bị người ta đem ra xét xử trong
một vụ kiện bất công... bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công...
bị người ta lôi đi hai dặm trên con đường lên núi Can-va-ri-ô. Người là
"Đấng bị đóng đinh mà không có lòng thù hận".
27. Làm thánh sống - Trầm Thiên Thu
Người
ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện
“ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại
sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện
lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn
thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân
cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay
không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói:
“Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”.
Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH
SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi
chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.
Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị
thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005).
Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời”
của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân
lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!
Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu
Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu
Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất
lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con
tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời
của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố
gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.
Tuy
nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm
thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp
người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định:
“Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất
nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân
khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm
thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh
sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng
tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),... và một
người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng
đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và
tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ
mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!
Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức
mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng
người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy
thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua
phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát
triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng
“lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê:
“Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải
thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv
19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng
phải thánh, không thể khác được.
Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để
lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế,
ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận
những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là
Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là
bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ
công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê
phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn”
mà chỉ là “bè” mà thôi.
Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng
ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế,
chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân
tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi
ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh
nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật
ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng
hải hà” (Tv 103:3-4).
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn
giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu
tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ
tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau
ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng
thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13).
Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim
đèn leo lét (x. Mt 12:20).
Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác
nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ
Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là
nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng
Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và
bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của
Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng
cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!
Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở
chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn
ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì
sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng:
Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư
tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr
3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm
điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn
ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể:
“Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là
Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại
hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức
Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).
Luật
vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương
và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật
hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân
đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật
không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu
Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và
ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình
thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép
vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!
Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự
người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra
nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo
ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai
xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu
choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá
chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!
Luật
Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các
loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những
điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ
ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!
Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải
thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người
tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh
em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những
người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình
thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm
như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất
“khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có
dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế
gian này!
Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ
thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha
anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như
vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do
nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định:
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà
chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến
đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp
thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng
con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa
chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con.
Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu)
Một vị vua của Trung Quốc nói với triều đình của mình rằng: “Khi
nào ta chinh phục đất nước ấy, ta sẽ tiêu diệt hết kẻ thù”.
Chẳng bao lâu sau, ông đã toàn thắng trở về. Đình thần của ông
đều chờ đợi một cuộc thảm sát đẫm máu. Họ mong cho kẻ thù phải bị phanh thây
không còn một tên sống sót. Nhưng họ lại vô cùng sửng sốt khi thấy kẻ thù ngồi
ăn uống với nhà vua, cười cười nói nói vui vẻ như kẻ thắng trận. Họ liền tâu
nhà vua:
-Muôn tâu Thánh Thượng, trước khi xuất quân lâm trận, ngài đã
tuyên bố là sẽ tiêu diệt kẻ thù cơ mà! Sao bây giờ…?
Hoàng đế ôn tồn cười nói: “Không phải ta đã tiêu diệt hết kẻ thù
rồi sao? Những người ngồi đây không phải là bạn hữu của chúng ta sao?”
***
Sự trả thù theo Kinh Thánh, nó như một con dã
thú nằm phục trong bóng đêm ở cửa nhà, sẵn sàng nhảy ra nhe răng và vươn vuốt
(Kn 4,7). Con dã thú ấy ở đâu đó trong lòng con người.
Abraham Lincoln, vị Tổng thống vĩ đại nhất của
Hoa Kỳ đã phát biểu một câu danh tiếng: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là
tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu cứu độ.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu
kẻ thù”. Từ khi con người xuất hiện trên trái đất này, chưa có một tôn giáo nào
kêu gọi “Hãy tha thứ cho kẻ thù”, chưa có một vị sáng lập đạo giáo nào đã dạy:
“Hãy yêu kẻ thù”. Duy nhất, mình Đức Giêsu, Người không chỉ dạy “Hãy yêu kẻ
thù” mà còn khuyên: “Hãy cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 6,44). Người
không chỉ dạy phải tha thứ cho kẻ thù, mà Người còn làm gương trước cho mọi
người. Lời cao đẹp nhất tren môi miệng của Đức Giêsu, chính là lời thốt ra khi
Người đang quằn quại trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Và nghĩa cử
hào hiệp nhất trong cuộc đời của Đấng Cứu Thế, chính là việc Người biện hộ cho
những kẻ hành hạ mình: “Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Nhưng làm sao chúng ta có thể yêu kẻ thù?
Trước tiên, hãy học cho biết tha thứ. Không
biết tha thứ thì không thể yêu thương. Khi người cha nhân hậu đã sẵn sàng tha
thứ mọi lỗi lầm cho đứa con hoang đàng, ông mới có thể ôm hôn người con vào
lòng, đeo nhẫn, xỏ giầy, mặc áo mới, giết bê béo ăn mừng. Tha thứ là tháo gỡ
rào cản, phá đổ bức tường ngăn cách. Tha thứ là cất đi gánh nặng, là xóa bỏ món
nợ. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau, là thiết lập lại quan hệ mới. Tha thứ
là chất xúc tác rất cần thiết cho một khởi đầu mới. Tha thứ là mở toang cánh
cửa lòng mình, cho nắng ấm tình yêu tràn ngập tâm hồn. Như thế, mức độ tha thứ
chính là thước đo mức độ yêu thương kẻ thù.
Thứ đến, hãy biết rằng kẻ thù không hoàn toàn
xấu. Nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái chưa
thật tốt. Chính thánh Phaolô cũng phải thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi
không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Trong biển
đời mênh mông, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu,
chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu ai đó tới chân tơ kẽ tóc. Nhìn kỹ vào kẻ
thù, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, điều xấu họ làm thường xuất phát từ sợ hãi,
thiên kiến, hiểu lầm hay ngu dốt. Nhưng dù sao, họ vẫn mang đậm hình ảnh của
Thiên Chúa. Cũng chính vì những yếu đuối, bất toàn và khiếm khuyết ấy họ mới
cần được Thiên Chúa cứu chuộc và mong chờ chúng ta yêu thương.
Cuối cùng, chúng ta đừng nuôi hờn giữ oán,
đừng tìm cơ hội trả đũa, làm nhục kẻ thù hay thẳng tay tiêu diệt họ. Trái lại,
mọi lời nói, cử chỉ, hành vi của chúng ta nên tỏ ra thân thiện, dễ gần gũi, để
gia tăng sự hiểu biết và cảm thông với kẻ thù, để khai mở thiện chí hoán cải
trong họ. Tấm lòng bao dung bao giờ cũng gói trọn con tim vô cùng độ lượng.
Chính tấm lòng bao dung, quảng đại như thế sẽ dẫn chúng ta đến với tình yêu
chân thành, một tình yêu sâu lắng hơn cảm xúc, một tình yêu tràn đầy, không chờ
đợi điều gì cho mình, một tình yêu được tác động từ Thiên Chúa.
Chúng ta yêu kẻ thù vì chính Thiên Chúa đã yêu
họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ghê tởm điều ác họ làm. Yêu như thế là chúng ta
đang dấn thân vào tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu cứu chuộc. Chỉ với tình yêu
đó, chúng ta mới “trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời” (Mt
5,48). Hoa nhân đức cứ tỏa hương mà không cần có người khen ngợi. Lòng bao dung
cứ rộng mở cho dù chẳng ai hay biết.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết rằng: Lấy oán báo oán sẽ làm
tăng thêm hận thù, chỉ có tình yêu tha thứ mới có khả năng biến thù thành bạn.
Hơn nữa, hận thù còn làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách.
Xin cho chúng con biết quảng đại đáp lại lời mời gọi làm công
việc khó khăn này, là “Hãy yêu kẻ thù”.
Nếu chúng con chưa bao dung được cho kẻ thù, thì xin cho chúng
con nghe được lời bao dung của Chúa: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ”. Amen.