THỨ
4 SAU CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: Kn 6,
1-11
1
Hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học cho biết, hỡi những
vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian. 2 Mở tai ra, hỡi những ai
đứng đầu trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân. 3 Vì
chính Đức Chúa đã ban cho chư vị quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền
thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm tra các việc chư vị làm và dò xét những
điều chư vị toan tính. 4 Chư vị là bề tôi phụng sự vương quyền Người,
nếu như chư vị không xét xử công minh, không tuân giữ lề luật, không theo ý
Thiên Chúa, 5 thì quả là kinh khủng hãi hùng, Người sẽ kíp đứng lên
chống chư vị, vì một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có
chức có quyền. 6 Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ
quyền thế lại bị xét xử thẳng tay. 7 Chúa Tể muôn loài không bao giờ
vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè. Sang hay hèn đều do
Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, 8 nhưng kẻ
quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt. 9 Vậy, hỡi các bậc vua chúa
quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ
khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước. 10 Ai sống thánh và
tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân. Ai học hỏi luật thánh, thì
sẽ tìm được lời bào chữa. 11 Vậy chư vị hãy ước ao khao khát lời tôi,
và chư vị sẽ được chỉ bảo.
ĐÁP CA: Tv 81
Đ. Tâu
Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu. (c 8a)
3 Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người
khốn khổ, kẻ bần cùng, 4 giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu
khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
6 Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh, là
con Đấng Tối Cao, 7 thế nhưng rồi phải chết không khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc quan quyền. "
TUNG HÔ TIN MỪNG: x. 1Tx. 5, 18
Hall-Hall: Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính
là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Hall.
TIN MỪNG: Lc 17, 11-19
11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi
qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào
một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa13
và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi! "14
Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế. " Đang
khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi,
liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp
mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17
Đức Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì
chín người kia đâu?18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
mà chỉ có người ngoại bang này?" 19 Rồi Người nói với anh ta:
"Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh. "
CHỈ CÓ LỜI TẠ ƠN
NHỜ VỚI TRONG CHÚA GIÊSU
NHỜ VỚI TRONG CHÚA GIÊSU
Trong Kinh Tiền Tụng Tạ Ơn,
Hội Thánh dạy ta cầu nguyện: “Lời tạ ơn của chúng con không thêm gì cho Chúa,
nhưng mang lại cho chúng con ơn cứu độ”.
Qua các Bài đọc trong
Thánh Lễ hôm nay dạy chúng ta biết phải tạ ơn Chúa thế nào để được ơn cứu độ.
Có mười người cùi đều cất
tiếng van xin: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi” (Lc 17, 13: Tin Mừng). Đức Giêsu ra lệnh cho mười
người cùi phải đi trình diện với các tư tế (x. Lc 17, 14), để rồi tạ ơn Thiên
Chúa đã cho khỏi bệnh cùi (sạch tội), vì theo Luật Môsê trong sách Lêvi 14, 1-20,
bệnh cùi là hậu quả bởi tội gây ra, nên họ không được gần gũi với người khỏe
mạnh, nhất là không đựơc tham dự Phụng Vụ. Ai được khỏi cùi phải được các tư tế
kiểm nhận, và họ phải dâng lễ vật vào Đền Thờ, khi các tư tế tuyên bố người cùi
đã được “sạch”, họ mới đựơc trở lại cộng đoàn sinh hoạt bình thường như mọi
người khoẻ mạnh khác. Đó là cách gián tiếp Chúa cho các tư tế nhận biết Đấng
Mêsia đã đến cứu dân đang mong đợi, vì chỉ có Chúa mới có quyền tha tội qua dấu
chỉ Ngài cho bệnh nhân lành mạnh (x. Is 53, 4).
Khi mười cùi được
Đức Giêsu chữa lành bệnh, thì chỉ có một người Samari bị mang tiếng là lạc đạo,
không đến với các tư tế Do Thái giáo ở Giêrusalem để được xác nhận hết cùi rồi
dâng lễ Tạ Ơn Chúa, mà người này quay trở lại quỳ dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn.
Đức Giêsu khen người Samari và Ngài hỏi: “9
người kia đâu?” Chắc chắn là Ngài không nhằm trách 9 người Do Thái kia cũng
được khỏi cùi mà không biết cám ơn Ngài, mà Ngài tiếc cho 9 người đó chỉ được
ơn lành mạnh về thân xác, còn linh hồn họ không được sự sống đời đời, vì họ
không đến bái lạy Đức Giêsu là Vị Tư Tế thời Tân Ước để tạ ơn Chúa. Đối với
người Do Thái, hành động quỳ lạy trước ai là cách tuyên xưng Đức Tin của mình
chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi. Như thế trong mười người cùi, chỉ có
người Samari nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cha sai đến, thì anh đã
đạt sự sống đời đời (x. Ga 17, 3), còn 9 người kia thì không. Ai nhận được ơn
Chúa ban cho thân xác mà không đón nhận được ơn Chúa ban cho linh hồn, thì dù
người đó có đến Giêrusalem dâng lễ Tạ Ơn cũng không được Chúa chấp nhận, vì chỉ
“nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, trong
Chúa Giêsu, mọi chúc tụng và vinh quang mới quy về Thiên Chúa” (Rm 11, 36).
Ai nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa chẳng những được sự
sống đời đời, mà còn biết phục vụ đồng loại theo ý Chúa. Nhất là các bậc vua
chúa, những người đang nắm quyền bính, họ phải biết rằng:
1-
Mọi quyền bính của các bậc vua chúa trên khắp thế gian đều do bởi Chúa ban
cho. Do đó ai không dựa vào ý Chúa để phục vụ, mà lạm quyền thống trị đồng
loại, đều bị Chúa trị tội (x. BĐ năm lẻ: Kn 6, 1-11). Người nắm quyền bính có ý
thức sống như thế mới đáng được dân phục tùng, không bị dân chửi (x. Tt 3, 1-2:
BĐ năm chẵn). Bởi thế người nắm quyền phải tuyên xưng Đức Tin: “Tâu Thượng Đế, xin đứng dậy mà xét xử địa
cầu, xin hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn
khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, cũng như nghèo túng được cứu khỏi nanh
vuốt bọn ác nhân. ” (Tv 82/81, 3-4. 8a: ĐC năm lẻ). Vì “chỉ có Chúa là Mục Tử, Ngài chẳng để ai
thiếu thốn gì” (Tv 23/22, 1: ĐC năm chẵn).
2-
Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi loài, Ngài ban ơn cho mọi người
cách đồng đều (x. Kn 6, 7: BĐ năm lẻ), Ngài làm mưa làm nắng trên người công
chính và kẻ bất lương (x. Mt 5, 45). Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó
chính là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx. 5, 18:THTM). Cụ
thể như ông Gióp, lúc Chúa để cho Satan đến cướp hết tài sản và con cái của ông,
ông vẫn tạ ơn: “Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi, xin tạ ơn Ngài!”(G 1, 21),
và ông nói với vợ: “Chúng ta biết đón nhận điều tốt lành từ tay Chúa, làm
sao chúng ta lại không chấp nhận điều bất hạnh!?” (G 2, 10). Đặc biệt ta
phải tạ ơn Chúa vì “xưa kia chúng ta cũng
ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống
trong gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau.
Nhưng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã
biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không
phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người
thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng
ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống
trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên
công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời,
như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3, 3-7: BĐ năm chẵn).
3- Cách thờ phượng tạ ơn Chúa
trọn vẹn nhất chính là tham dự Thánh Lễ. Đức Giêsu nói với phụ nữ Samari: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người
sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người
thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu
độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng
Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng
Người như thế. ” (Ga 4, 21-23). Đức Giêsu đã nhấn mạnh: Phải “thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự
Thật”.
-
Thần Khí chính là Lời Chúa (x. Ga 6, 63).
-
Sự Thật chính là Chúa Giêsu (x. Ga 14, 6).
Vậy Lời Chúa
và Chúa Giêsu Phục Sinh là hai phần
chính của hai bàn tiệc trong Thánh Lễ. Chính vì vậy mà Hy Tế Chúa Giêsu lập
được gọi là “Lễ Tạ Ơn”, và đến phần Hiệp Lễ (chuẩn bị rước Lễ), Linh mục chủ tế
luôn luôn phải lập lại chân lý: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và
trong Đức Kitô, mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng đến
muôn thủơ muôn đời” (Rm 11, 36).
Chúng ta đã xác tín được
thể thức thờ phượng và tạ ơn Chúa như trên, thì khi nhìn vào cách sống Đạo của
đa số giáo dân lại rất buồn, vì hầu hết họ chỉ bắt chước người chung quanh, có
khi bắt chước cả lương dân, chứ không sống Đạo theo xác tín dựa vào Lời Chúa và
Giáo Lý của Hội Thánh. Cụ thể:
-
Người lớn cho trẻ cái gì chỉ tập cho em biết “ạ” người cho, mà không biết dạy
bé “cám ơn Chúa” trước!
-
Tiếc hơn nữa, có nhiều người đề bảng Tạ Ơn Đức Mẹ, Tạ Ơn ông Thánh nọ bà Thánh
kia, nhưng không muốn đi dâng Lễ, và nhiều lương dân khi được ơn Chúa, cũng để
bảng Tạ Ơn Mẹ, Tạ Ơn Thánh, rồi trở về cúng Phật , thì việc Tạ Ơn đó ích lợi gì?
Trong khi đó mục đích Chúa ban ơn thể xác là để người ta nhận biết Ngài là
Thiên Chúa và chỉ tôn thờ Ngài mà thôi.
Rối Đạo hơn nữa, tại nhiều nơi có Đền khấn, như Đền Công
Chính tôn kính thánh Giuse, Thánh Địa Lavang kính Đức Mẹ, Đền thánh Martin …
chỉ thấy để bảng Tạ Ơn Đức Mẹ, Tạ Ơn thánh Cả Giuse, Tạ Ơn thánh Martin… mà lẽ
ra phải viết: “Con tạ ơn Chúa đã ban cho con qua Đức Mẹ …”; thì
lương dân đến đó họ mới nhận ra Chúa đã ban ơn qua lời bầu cử của Đức Mẹ hay vị
Thánh, để rồi ai cũng phải tạ ơn Chúa vì xác tín rằng: Không có Chúa, chẳng có
Mẹ hay thánh nào cứu giúp ai.
Nhiều lương dân đến Linh Địa, họ đếm số bảng Tạ Ơn, vị
nào được nhiều bảng, người ta cho vị đó thương loài người nhất, vị đó mới đáng
được tôn thờ! Và nhiều khi người Công Giáo còn làm cho lương dân rối trí thêm, khi
họ đến “Bà Lavang” thấy nhiều bảng Tạ Ơn hơn “Bà Tà-pao”; khi tới nước Pháp
người ta lại thấy “Bà Lộ Đức” ít bảng Tạ Ơn hơn “Bà Fatima” ở Bồ Đào Nha, không
biết bà nào cao tay hơn bà nào?! Vì người Công GIáo đã bỏ tên Maria, tên này do
tiếng Hipri là “Miriam”, lấy từ gốc ngôn ngữ Ai Cập là “Mri”, có nghĩa là “Được Yêu Mến”; thời Tân Ước, tiếng bình
dân dựa trên tiếng Aram là “Mara”, có nghĩa là “Bà Chủ, Bà Chúa”.
Tên Mẹ Thiên Chúa đẹp như vậy, mà người ta lại loại bỏ, lấy
tên nơi Đức Mẹ hiện ra mà gọi Mẹ mình! Lạy Mẹ, chớ khi nào Mẹ vô ý hiện ra
những nơi có tên: Lạc Đạo, Lạc Quần, Lác Môn, Tử Đình, Tắc Rỗi, thì người ta sẽ
gọi Mẹ bằng tên đó, làm sao chúng con hân hoan dám kêu danh Mẹ được!
Truyện kể: Có lần người ta thỉnh tượng
Đức Mẹ Lộ Đức rước lên máy bay qua Roma xin Đức Giáo hoàng làm phép, khi máy
bay chở tượng Đức Mẹ Lộ Đức qua vùng trời Bồ Đào Nha, thì sự cố hãi hùng xảy
đến: Máy bay nhào lộn trên không như muốn đâm phập xuống đất, rất may lúc ấy
một Giám mục có mặt trên máy bay ngộ ra rằng: Mẹ Lộ Đức qua địa danh Fatima mà
không xin Passport, chưa có Visa, thế là Đức Giám mục bảo mọi người cùng cầu
nguyện: “Lạy Mẹ Fatima, xin cứu chữa Mẹ Lộ Đức, kẻo chúng con chết hết!”
Thế là Mẹ Fatima ban bình an cho Mẹ Lộ Đức và cả mọi người trên chuyến bay!
THUỘC LÒNG
Chúa đã ban cho Chúa lại lấy đi, xin chúc
tụng danh Chúa! (G 1, 21)
Lm Giuse Đinh
Quang Thịnh