CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG A
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG A
1. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến
là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu
có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng
hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng
Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ
mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì
thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như
lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người
thiện tâm.
Thời đại của Chúa là thời đại hòa bình như tiên tri Isaia đã
diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà
rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm ra xông đánh nước kia. Mọi
người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương. Sẽ không còn cái
cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không còn cái cung cách người với người là
chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em ruột thịt vì
cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn tranh chấp lừa đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ
dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ tuân theo ý định của Ngài. Mọi
mơ ước của con người sẽ được thoả mãn, sẽ trở thành sự thật. Vậy cảnh địa đàng
này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa mới ban cho chúng ta hoà bình và hạnh phúc
đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không hay biết bởi vì Chúa đã phán: Vào lúc các
con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Lúc Chúa đến có thể hiểu là giờ chết của
mỗi người chúng ta, hay là ngày tận thế. Chúng ta không biết lúc nào sẽ xảy ra
hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết lúc nào mình sẽ chết hay lúc nào sẽ là
ngày tận thế? Đó là một việc làm luống công và vô ích. Trái lại hãy phó thác
tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán: Chớ áy náy về ngày mai. Ngày mai sẽ lo
cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy, nhưng tiên vàn hãy lo tìm
kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm biết ngày giờ
lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững
trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ:
Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng
ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi
bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và chớ lo
lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ được nghe những
lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu thương của Chúa: Hỡi những người đã được
Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời, đã được dọn sẵn
cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
2. Hãy sẵn
sàng
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng
ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên
nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn
sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết.
Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một
biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại
nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết chính là ngày cái chết
gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với
cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán
xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ,
hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị
bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người
bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc
trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn
khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn
một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã
chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề
quan trọng nhất đó là sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa
Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày
mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng
ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn
đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm của những người tín hữu
trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin
Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp
chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện. Cái chết là một biến cố
quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào
đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và
phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích
này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng
đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ
những hành vị ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng
hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không
tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc
lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là sự thật và là sự sống của
chúng ta mà thôi.
3. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô
Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ
để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo
cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu
đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ
Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu
hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước
nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây
một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng:
"Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng
do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố
thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào
sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!". Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục
nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức
Giê-su chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa
đặt viển vông... " nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên
tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: "có Thiên Chúa, có
thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau... (mình phải nói như vậy
để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn
dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi
già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn. "
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ
già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ
rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai
cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày
mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì...
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14)
thánh Phao-lô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giê-su
Ki-tô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những
việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở
cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không
chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa
Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng. "
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức
vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như "Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con
Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên
hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không
hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người
quang lâm cũng sẽ như vậy".
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào
Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ
trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh
em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con
Người sẽ đến".
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến
Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có
khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì
không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có
thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm
đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau
giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao
mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc
phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy
tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
4. Sống tỉnh thức – Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu "nước tới chân mới nhảy"
thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm thía câu nói này qua những ngày tháng
lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua. Không có lương thực dự trữ, đa phần phải
sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa đói. Có những nơi chỉ còn biết trông chờ
ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang đến. Không ai nghĩ rằng lũ lụt lại quá
kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn uống, vẫn vui chơi, vẫn không cần tích
trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có những ngày "gạo quế củi châu", khiến
họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi phải ngửa tay van xin lòng thương xót của người
khác. Họ đâu ngờ rằng những gì họ tích luỹ, cất dấu lại bị nước cuốn trôi và
trở nên trắng tay lại hoàn trắng tay. Xem ra trên thế gian này chẳng có gì an
toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong
manh như loài hoa trước gió, đến độ "một cơn gió thoảng cũng làm nó biến
đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày
khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như "thời ông Noe, người ta vẫn ăn
uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng". Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế,
chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã
vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn
bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng
chỉ một mình ông và gia đình lên tàu, còn những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn
hát cho đến khi cơn hồng thủy đến và nhậm chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh
trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà
cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được
mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng
thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và
thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn
sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị
Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và
kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe
lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà
này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên
có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ
và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi
được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ
như họ.
Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông
Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông già đó.
Trong thư thứ hai của thánh Phêrô có ghi rằng: "Chúa cứu
Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì
những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại vùng Sôđôma. Khi Sôđôma bị các nước lân
bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham là chú phải ra tay tiếp cứu Lót. Nhưng
Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi Chúa quyết định giáng tai họa xuống
kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa giải cứu, nhưng vì Sôđôma không có
đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có
hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng ông ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra
khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại nhìn và đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc
ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là
tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình,
phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc
dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng
nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất
chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan
Phaolo II đã than thở rằng: "cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính
là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần
nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục
vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải
nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo
chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác
đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với
xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ
từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những
đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em
đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
5. Suy niệm
của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGMVN
(Trích từ ‘http://www. kinhthanhvn. org’)
Đức Giêsu đã đến xưa kia, sẽ đến vào ngày Quang Lâm và vẫn đang
đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp Người đến dưới bất cứ dạng nào.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị,
đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản
là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như
lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc
Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
1. Israel mong chờ Đấng Thiên Sai (Messia)
Do-Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm
về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri
tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc
Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép:
người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn
giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và
thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7, 14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho
vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một
vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước. Ngôn
sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng
Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là
Emmanuel” (Is 7, 14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào
thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung
quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2, 2-5; x. Mk 4, 1-5). Niềm
hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587). Nếu
trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-Cập, giờ đây Người lại
giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất
nước. Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà
trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18, 18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là
người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa
tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để
cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại
chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là
Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm
nhân loại (Dn 7, 13-14). Trong từng giai đoạn, Israel lại mong chờ vị Thiên Sai
cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm
hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa
trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết
kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đã đến hoàn tất niềm mong
đợi Cựu Ước
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và
tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến
giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã
nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1, 23). Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận
biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể
lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan
viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Người Con một
ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1, 1. 14), sinh bởi một
người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho
họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4, 4-5). Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong
lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp
đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình
và cứu độ.
3. Hướng về ngày Quang Lâm
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn
bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất
là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn
nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án
phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ
Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Ngày Chúa quang lâm thật bất ngờ, không ai biết trước được sẽ
xảy đến lúc nào. Vì thế, Chúa dạy phải sẵn sàng tỉnh thức như người đầy tớ khôn
ngoan chờ đợi chủ về vào lúc đêm khuya, hoặc như các trinh nữ khôn ngoan chờ
đợi chàng rễ đến chậm, như người quản gia trung tín luôn biết chu toàn bổn phận
khi chủ vắng nhà. “Hãy cầm đèn cháy sáng trong tay và hãy thắt lưng như người
chờ đợi chủ về ”. Hình ảnh Hồng thuỷ và Sôđôma luôn là một cảnh tỉnh con người
trong cuộc sống cần biết hướng về ngày thế tận, chứ không phải sống như thể
trần gian và hiện tại là tất cả. Cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị và xác định
cho định mệnh cuối cùng. Chúa Giêsu đã có lần cảnh cáo qua dụ ngôn người giàu
khờ dại: “Không phải sự sung túc của cải đời này đảm bảo hạnh phúc đời đời” (Lc
12, 15). Thánh Phaolô khuyên: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành
vi ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng để chiến đấu... ” (Rm 13, 11-14).
4. Chúa vẫn đến mỗi ngày
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn
sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện
tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để
chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và
gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
- Chúa đến và đối thoại với ta trong Kinh Thánh. Hãy biết lắng
nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
- Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình
yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ
tiến về nhà Cha. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn
thờ và sống bí tích Thánh Thể.
- Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé
mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25, 40). Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là
yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Người đã rửa chân cho các môn đệ
trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13, 14-15).
Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương
và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa
Giêsu (Ga 13, 34-35).
6. Niềm tin yêu phó thác.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con
tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó
trôi lênh đênh như con thuyền không bến”.
Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời
thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt
thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời
tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền không bến” của người đời: “cũng liều nhắm
mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo
thành có mục đích, nó trôi nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng
mục đích.
Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm
đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu
thương.
Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy,
để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới - một Thế Giới Mới. No-ê
đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa
dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có
đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con
thuyền không bến” của No-ê cập bến: - bến bờ sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình
hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có
những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những
người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía
trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là
cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày
mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn
được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để
trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai
đạt được mục đích mà chỉ “nằm há miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin
yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải
có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng
giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi
những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo
bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm nhận được những giá trị cao
cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo
ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời
ông Nô-ê thế nào, thì con người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày
trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày
ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn
đi hết thảy. Ngày con người quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt. 24, 37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ...
Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975,
người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia
đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên
trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc
quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại
nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người
ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an
táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi
người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình,
thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào
nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là
người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn
sống!”.
Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực,
nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra
tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai
đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay
muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở
gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng.
Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng
khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá
sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ.
Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước
lòng mẹ...
Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là khát vọng muôn thuở của con
người!
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa Giê-su đã xúc động trước đám
tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc. 7, 11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh
lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc
rất lớn lao và thật không ngờ. “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức
Giê-su trao anh ta cho bà mẹ”.
Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân
người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của
mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa
rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng
thăm dân Người ’”. (Lc. 7, 16).
Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà
chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là
thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ
chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta
thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta
niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của
chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết
lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ
gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh
thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin
vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh
danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy
ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ”
(Lc. 21. 28).
Có một chút màu trắng trinh nguyên,
Có một chút màu đen bóng tối,
Có một chút màu xanh hy vọng,
Có một chút màu đỏ tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.
7. Âm vang mùa vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây
đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái
ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ
gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch
địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt
phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải
tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích
lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu
thương!
Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu
cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh thức!”(Lc 21, 36); “ Sẽ có những điềm lạ trên
trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước
cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21, 25).
“Hãy tỉnh thức”: - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý
tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
“Hãy tỉnh thức”: - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước;
cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp kiếp “người”!
“Hãy tỉnh thức”: - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia
đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết
thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau:
rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là
lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy
đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào
phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời
đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều mầm bệnh!
Do từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau:
bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi
nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê,
dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền
tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn
học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển
lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng
muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: “Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con!
Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong
ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương, trong tính toán tom góp vật chất mà
quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết!
Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần
“người”!
Nếu sống phút giây hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc
không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!
Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình
sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn
là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng
cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời
gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành
hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy;
có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú
ngụ không đây?
8. Một ánh sáng trong đêm tối
(Suy niệm của Bernard Lafrenière – BTGH chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban đêm, trên một con đường xa lạ, chúng ta
chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một ngôi nhà để cảm thấy được an tâm. Như
vậy, khi chúng ta vượt qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta tìm một ánh sáng
trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm nay, nói về giấc ngủ, đêm tối và ánh sáng.
“Hãy đến – lời tiên tri Isaia nói với chúng ta – hãy bước đi
trong ánh sáng của Đức Chúa”. Thánh Phaolô viết: “Giờ đã đến để ra khỏi giấc
ngủ... Đêm sắp tàn, ngày đang đến gần…”. Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy sẵn sàng:
Chính vào giờ các con không ngờ, Con Người sẽ đến…”. Và như để nhấn mạnh tầm
quan trọng của thông điệp nầy, Chúa Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người
không nghi ngờ gì hết trong khi một biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của sách Sáng Thế Ký, một tình huống khác
thường sắp sửa đảo lộn nhân loại, nhưng không ai mảy may nghi ngờ, trừ một
người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới hỏi, ăn uống như thể không gì có
thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một con tàu ngay giữa nông thôn. Vả
lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí ngắm ông làm. Chúa Giêsu nói
thêm: “Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi nạn hồng thủy ập tới chôn
vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở ngoài đồng, làm công việc rất bình thường,
giữa thiên nhiên: “một người được đem đi, người kia bị bỏ lại”. Hai người phụ
nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn còn tìm thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông
được làm với hai hòn đá đặt chồng lên nhau và một hòn có một tay nắm, mà hai
phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm cho viên đá nầy quay. Đây là một công việc
rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa Giêsu nói – “một người được đem đi, một người
bị bỏ lại”.
Nhưng biến cố nào sẽ chợt xảy đến với chúng ta? Tại sao lại phải
thức dậy khi đang ngủ và để cho mình được dẫn đi theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ
cần nhìn những người sống xung quanh ta và tự hỏi: “Điều gì làm họ chăm chú
vậy?”
Nhiều người an toạ tốt bao nhiêu hay bấy nhiêu trong thế gian
chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp cho chúng ta một sự thoải mái nhất
định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì mỏng manh như là những lời hứa của
thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang đến! Chúng ta phải chỉnh tề khi Nước
Thiên Chúa sắp đến!
9. Chúa sẽ
đến cho con người hạnh phúc.
(Suy niệm của Lm Jos Phạm Thanh Liêm)
Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ
Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang
để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người được sống vĩnh cửu với Thiên
Chúa.
1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này
Thế gian này không phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh
tật, làm cho con người đau khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị
đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy
đến cho những người thân như con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi
khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.
Những thất bại trên đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà
không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán
nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng
nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.
Cái chết, làm người ta phải xa lìa những người thân yêu, và nó
cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn xa người mình thương yêu, có
ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu
vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái chết làm người ta phải xa
lìa những người thân yêu mà không ai cản được.
Những áp bức bất công thường xảy đến với con người. Những bất
công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này
làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống
trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những người này? Ai có thể mang
lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa
Cái chết làm con người khổ, vì thế con người mong có thuốc
trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường sinh bất tử nơi
“cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong
cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại bao người khác. Con người mới
chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning” được tinh thần. Con người được
“cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người đó là
những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho xã
hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn nữa,
ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm thấy
chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh bất
tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của người
đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc, và rồi
cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được chết như
tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc?
Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con người? Ai có thể
cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con người?
Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng
trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước
của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta không còn chém giết đánh
nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng
của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại
trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.
Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con
người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày
đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên
Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết
chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời này
Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào
mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi
của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để
sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và
xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng
hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những
gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha
thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố
gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn,
bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.
Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần
sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại
trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao?
2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con người được gì?
3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn
nói, có thể thực hiện được không?
10. Sẵn sàng đón Chúa – ĐTGM. Giuse
Ngô Quang Kiệt
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương
hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu
nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta
đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc
đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới
có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình
trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy
vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng
vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được
niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta
sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ
phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống
tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm
hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở
đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều
thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không
ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun
tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất
vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can
đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm
hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa,
tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài
vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương
lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không
cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế
sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích
cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó
chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng
công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt
tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của
những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ
No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị
tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ
ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán
nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững
chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những
tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng
tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng
tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha
thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức
không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm
việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời
sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản
thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
11. Hãy sẵn sàng
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ
tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà
và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế. Kinh
Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không
biết (Mt 24, 36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi, nhưng
kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ
chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải
chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng
sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa
đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn
thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ
trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào
thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến ít hơn các Kitô hữu
thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế. Tận thế bị coi là chuyện
tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng: ăn uống, cưới
vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết
của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta
biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường
tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày
của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai
sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra
đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và
công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ
đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này và đời sau nơi người
Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không làm ta sao nhãng đời
sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho ta chu toàn bổn phận
đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con
sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao
điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người
nào
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế
giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là
một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy
vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày
Chúa trở lại.
12. Mùa Vọng:
Mùa màu xanh
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống – Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’
– trg. 7)
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở
tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó,
nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa
biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo
lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm
mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ
rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng
chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi
bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng
cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu
đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo
bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn
tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những
sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa
màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý
nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do
hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận
hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết
ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng
Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ
hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa,
Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào
người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những
chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người
đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận
con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu
độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn
dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ
quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người
hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang
để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện
ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với
ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ
hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính
thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức
Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến
với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu
lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và
lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những
cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh
tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy
vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy
vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những
đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm
tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có
một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ
tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời
này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai
rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và
tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều
quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà
Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân
thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình
của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con
người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là
hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm
hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn
Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như
những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ
hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy
rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh;
nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định
phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn
đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức
thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình
sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết
rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ
đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên
liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới
những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một
chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ
phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa
là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính
cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh.
Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những
cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay
cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi
mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng
chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy
chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên.
Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi
mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn
kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì”
ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ
đẹp xanh hy vọng.
13. Dấu hiệu thời đại –
Achille Degeest
(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn
phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người nói về ngày tận thế. Ngày ấy sẽ xảy đến
bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu hiệu mô tả trong Phúc Âm đã xảy ra trong
lịch sử loài người, và nhân loại đã quen với chúng rồi. Trong lúc mà bằng vô
vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra cho thấy rằng thế gian không phải
là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn dừng lại ở trình độ tìm tòi duy vật
trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là trường hợp của những người xưa kia bị
hồng thủy thình lình ập xuống trên mình. Những ai không biết đọc dấu hiệu thời
đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như vậy. Cũng trong một viễn tượng gần như
thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc dấu hiệu thời đại không? Thật vậy, hành
động liên tục của Chúa trong nhân loại có thể quan niệm như một cuộc ngự đến
không ngừng của Người trong nhân loại. Ta có biết nhận ra những dấu hiệu của
cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng
Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang gắn ý nghĩa Phúc Âm nào cho
những biến cố hiện đại đang tác động trên con người, trên cộng đồng nhân loại
và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút kính trọng đối với nhân vị.
Theo một số khoa học gia, bậc thầy trong khoa sinh vật học, con người là kết
quả của một sự tình cờ may mắn trong đà tiến hóa của vật chất. Trong cách thức
người ta quan niệm thì con người có giá trị gì? Con người có giá trị nào trước
những vấn đề như phá thai, ngừa thai, công bằng, chính trị v. v… Phúc Âm đặt
con người vào trình độ của tương quan giữa nó với Đức Giêsu Kitô. Con người
được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Nó tội lỗi nhưng được cứu độ. Trong
toàn con người nó, xác và hồn, nó là con cái Chúa. Sự sống của nó là một điều
thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi hỏi rằng trí khôn nó phải được soi sáng và
con tim nó được huấn luyện. Chủ nghĩa duy vật hiện đại là một dấu hiệu thời đại
phải thôi thúc người Kitô hữu quả quyết lại phẩm giá của con người một cách
mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm kiếm, chưa bao giờ con người được sử dụng
nhiều phương tiện kỹ thuật như thể gặp gỡ nhau khắp cùng trái đất. Đó là một
dấu hiệu thời đại khiến người Kitô hữu phải tạo cho mình một não trạng phổ quát
‘công giáo’, bao trùm toàn thế giới. Hiện nay, đối với ai biết nhìn xem, Thiên
Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con
người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con người
Những cuộc chiến thắng, những thành công của con người là dấu
hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên của Chúa trong tạo vật. Nhưng uy quyền con
người càng tăng, thì trách nhiệm của nó càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con
người, và làm việc trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì liên quan của
mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa, thì uy quyền nó càng nhiều, sức mạnh phá
hủy của nó càng tăng.
Trên các biến cố thời sự làm xao động thế giới, ta hãy luôn luôn
chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải tỉnh thức. Hơn nữa, ta hãy tùy theo phương
tiện ta có mà can thiệp vào để giúp cho Chúa ngự đến trong thế giới chúng ta.
14. Chống lại thói quen –
André Sève
“Anh em hãy tỉnh thức!”
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức
được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói quen này như sau: “Vào thời Noe, người ta
ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng …”. Có một người thoát ra khỏi thói quen này
đúng lúc, đó là Noe. “Noe bước lên tàu”. Còn những người khác vẫn sống “mà
không nghi ngờ gì cả, cho đến khi trận lụt nhận chìm họ”.
Thói quen nhận chìm chúng ta. Bạn hãy nghĩ đến những câu: “Tôi
phải phản ứng lại… Tôi phải bắt đầu… Không thể tin được là thời gian trôi qua
nhanh thế…
Nếu có thể làm lại điều đó… Nếu lúc trẻ mà biết thì …”.
Chúng ta biết chứ. Chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu thì đủ rõ: “Hai
người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại; hai bà
cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một sẽ được để lại. Vậy các ngươi
hãy tỉnh thức”. Khi làm cùng những công việc, có người thì chết, có người thì
sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì? Phải lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác
này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác đó, một sự cảnh
giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ như một sự lo âu làm cho tê liệt, hoặc
đi đến chỗ đặt câu hỏi “ích lợi gì cơ chứ?” làm cho quay sang khinh dể thế gian
và những công việc trần thế. Không, trái lại, sự cảnh giác trong Phúc Âm là một
sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì người ta luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi
và sự biểu hiện thực sự của điều mà người ta đang làm.
Những thói quen của chúng ta (công việc, truyền hình, xe cộ), những
lo toan của chúng ta (kiếm tiền nhiều hơn, hoàn thành nhiệm vụ nào đó), những
dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối tuần mau đến, mong kỳ nghỉ hè mau đến), có
phải những điều đó làm cho mỗi người chúng ta sử dụng cuộc sống đến nơi đến
chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa là cuộc sống 100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi
ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở đâu?
“Tôi không có thời giờ”
đôi khi là tiếng than phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là
bài ca của thói quen. Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống
trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những
điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. “Một sẽ bị đem đi, và
một sẽ được để lại”. Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những
người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất sở thích những gì thuộc về cuộc sống, sự
tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho những bước khai tâm, những bước đầu học
tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua những gì người ta sống, khi trở thành một
người được xây dựng cho sự vĩnh cửu và xây dựng một phần của nhân loại vĩnh
cửu!
Chống lại thói quen là sao? Là suy nghĩ, lại tiếp tục, không
buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch hoặc sự đều đặn máy móc và bảo “tôi luôn
luôn làm điều đó”.
Người tín hữu Kitô “sẵn sàng” là người sống cái bình thường một
cách hết sức tự do, ý thức, đến độ điều này giữ cho họ tỉnh thức đối với điều
bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối đời, giờ kẻ trộm đến: “Hãy sẵn sàng, vì vào
chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
15. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas
(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo
Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng
vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn quan trọng nhất của sách
tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của
ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô
Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị
chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc
Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa,
càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với giao ước kết thúc trong
đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân
Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất
trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất
cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào khi mà giữa những thử thách
hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ
bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với Thiên Chúa được nghe những lời
loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ
đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi
dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc
họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong
Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và
nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường
lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn
nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là
thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri Isaia "các dân các nước sẽ
lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm", nghĩa là
biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng
đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo tiếp: "Nước này không
còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng không còn thao luyện để chiến
đấu nữa". 700 năm sau, sau lời tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện
lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc
nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân
mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng
của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện để
xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người
với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với
sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình giữa con người với
nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình
với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại
quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này
với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ
Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến
cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân
loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình
là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong
lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên
Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người
đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn
trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh
tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc
lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu:
"Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì
giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn,
ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh
sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu
trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi
Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ
bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được
chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự
đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến
như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì
Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh
sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa
không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa,
với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc
lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như
phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống
trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các
công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa
ngự đến. Amen.
16. Chờ đợi Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi
đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, kết nụ
đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới. Như vậy, mùa Xuân cũng là mùa vọng, là
thời gian trông chờ, mong đợi…
Nhưng, thưa anh chị em, chúng ta mong đợi gì?
Sống là phải có hy vọng, đợi chờ. Còn hy vọng, con người còn nỗ
lực, phấn đấu để sống. Mất hy vọng, con người sẽ không còn động lực nào để sống,
để làm việc, dù bất cứ ở lãnh vực nào. Khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến khi
hy vọng được thành tựu, là lúc người ta phải chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả
hết được những tâm trạng chờ đợi? Vì nó đa dạng và có nhiều mức độ thao thức
khác nhau:
- Với một em bé, chắc không còn nôn nóng nào hơn khi mong mẹ đi
chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi, chắc hẳn không một việc gì có thể làm cậu
gián đoạn sự trông chờ kết quả với đầy hồi hộp, bồn chồn.
- Với một thanh niên, còn gì thú vị hơn lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề nghiệp, người ta cũng mong ngóng, đợi chờ:
Người buôn bán thì mong trúng mối, đắt hàng, nhiều lời. Người nông dân chẳng
mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy vọng, chờ mong. Đó là động cơ của cuộc
sống con người. Hy vọng với những kết quả đạt được là hạnh phúc của con người:
được mùa, thi đậu, là những món quà hạnh phúc của tuổi trẻ. Người yêu đến thăm,
đến đón, người chồng đi xa trở về, là những hạnh phúc êm đềm, dịu ngọt. Được
mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh phúc ấm no… Tất cả đều là những hạnh phúc
nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị em,
Phải chăng con người chỉ mong đợi có những hạnh phúc nho nhỏ đó
thôi sao? Con người không còn gì lớn lao hơn để đợi chờ sao? Bởi vì, những hạnh
phúc cỏn con đó không thỏa mãn được khát vọng của con người: Trong cuộc sống, rất
nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn chán, lạc lõng, không biết mình muốn cái gì và
ước mơ điều gì nữa. Đó chính là một cảm nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu
một “ai đó” có thể thỏa mãn được mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người, sau khi đã hưởng thụ tất cả, bỗng cảm thấy
chán chường mọi giàu sang phú quý và sống vất vưởng, tuyệt vọng. Nhưng họ không
biết đó chính là tiếng réo gọi thiêng liêng đang đòi hỏi một cái gì có giá trị
vô cùng so với mọi thứ hạnh phúc trần gian tổng hợp lại. Một hạnh phúc đích
thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có một đối tượng hy vọng, một đối tượng trông đợi
hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất đối với con người mà qua bao nhiêu thế hệ, con
người vẫn mang khát vọng sâu xa tìm kiếm: đó là Thiên Chúa.
Thật vậy, đời người là cả một thời gian nôn nóng chờ đợi ngày
giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy mọi khát vọng
của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là con người là kết quả của tình thương vô
biên đó, nên con người luôn có những khao khát vượt thoát trần gian, mong được
giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, thể xác và những đau khổ phiền muộn
để sống với tình thương viên mãn, bất diệt. Nhưng con người lại gắn chặt vào
thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người luôn bị giằng co, ray rứt giữa trời và
đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại vật chất, nhu cần thể xác.
Với người tín hữu, đối tượng mong chờ của chúng ta đã cụ thể:
chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên không phải mong chờ Chúa đến như một
cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước, nhưng là Chúa đến trong vinh quang, Chúa
đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào, giờ nào,
thì chúng ta không biết được vì vậy, “phải tỉnh thức, vì không biết giờ nào
Chúa các con sẽ đến… Phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”.
Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng
tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã
không tỉnh thức để bị trộm vào nhà vét sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình Thiên Chúa biết, chúng ta đi tìm tòi có
ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý nghĩa ở ngày hôm nay, sống để tạo điều
kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh Phaolô đã dạy: “Anh em biết rằng thời này
là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng
ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám
muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban
ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ.
Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác
thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày Giáo Hội giúp chúng ta ý thức đến ý nghĩa
cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối kết chặt chẽ với tương lai, với ngày Chúa
đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến, không làm cho chúng ta xa rời cuộc sống, trái
lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt để hơn, hoàn thành nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi
vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ chúng ta sống trung thành với Ngài và yêu
như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta có thể chờ đợi Chúa như đứa con chờ mẹ như
người yêu chờ người yêu.
17. Niềm vui
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu
hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài
con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta
thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc
thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì. Như ta đây, mỗi
khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong
lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi. Nhà sư Viên Phủ Trung
quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của
kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh là nước trời.
Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn
gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở tương lai.
Tỉnh thức là biết phải hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón
bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
“Anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh
em sẽ đến” (Mt 24, 42).
Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh
thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con
người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt thì lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón
Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em
hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
“Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và
cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật
trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời
ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm
gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có
một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh
không kịp bịt tai”, là chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng
vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để
thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập
xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính
là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn! Muốn vậy hãy tỉnh
thức và đợi chờ.
Mùa Vọng là mùa của đợi chờ:
Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là
đợi chờ trong niềm hy vọng. Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng là làm
việc trong đợi chờ. Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con
Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về
tới nước trời. Chờ đợi như thế chính là chung tay xây dựng một thế giới công
bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc. Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến
không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh quang. Vui vì bao con
người được ơn cứu rỗi. Vui vì vũ trụ này đã được giải thoát. Vui vì “trời mới
đất mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vĩnh phúc.
18. Hãy sẵn sàng
Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau:
Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn,
nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì
sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba
ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì
tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó?
- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống
sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song đằng sau xa xa có con
bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần
đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này
lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình
bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm
và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà
quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ
lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.
Cũng vậy, vì đam mê chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, chúng
ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta
cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở
trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ
chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo
và thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng ta mải miết chạy theo
tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân xâm lăng, mở thêm
chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, không ngờ rằng một khi mình giàu sang, thì
sẽ bị một nước khác nhòm ngó và chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của,
bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và
càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa, thì hãy biết sử dụng vào những việc bác ái,
giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì chỉ những cái chúng ta cho đi hôm nay, thì
ngày mai mới thuộc về chúng mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì
càng cao danh vọng càng dày gian nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được
bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì tốt
hơn.
Sau cùng, cũng đừng đặt trong tâm đời mình vào lạc thú vì lạc
thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình
hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì đã phạm tội
này.
Thực tế cho hay: phạm những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối
ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì
thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần chết luôn rình rập sau lưng. Hãy sẵn sàng
vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, là một tâm hồn
trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được kết đọng từ những hành
động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện.
Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ
phải bẽ bàng và cay đắng vì thấy mình trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy
mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu.
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta có thể nói gì về những bất ngờ xảy đến khi Đức
Giê-su quang lâm? Có thể có những bất ngờ nào khác ngoài phương diện thời gian?
2. Sự công minh của Ngài khi xét xử trần gian có siêu việt
không? Những kẻ gian ác nhưng biết ngụy trang một cách khéo léo có bị lật tẩy
không?
3. Phải tỉnh thức như thế nào trước những bất ngờ của ngày Chúa
đến? để vẫn có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa?
Suy niệm
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cho biết Ngài sẽ trở lại
trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều về ngày ấy như sau:
1) Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giê-su cho biết: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con
Người sẽ đến” (Mt 24, 44; Lc 12, 40), “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban
đêm” (1 Tx 5, 2; 2 Pr 3, 10). Sự bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian –
nghĩa là không thể xác định được ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về
cách thức: không biết được trộm đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy
trộm thứ của cải nào, trộm sẽ giả dạng như thế nào, v. v… rất có thể kẻ trộm
lại là người rất quen thuộc với ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù việc Đức Giê-su đến trần
gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được toàn dân Ít-ra-en mong
đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ hơn nữa, họ còn kết án
và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác hẳn với cách mà hầu
hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ mà người thường
không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả mấy trăm năm
đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải thích hay
cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử nhân loại cũng có thể có
nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán trước được, không chỉ về
thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế, sự công chính hay gian tà
mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất nhiều trường hợp lại được
ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang những bộ mặt hết sức thánh
thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được, nhưng không ai qua mặt
được Thiên Chúa. Đức Giê-su đã từng nói về “các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên
mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7, 15). Thánh
Phao-lô đã từng vạch mặt những hạng người ấy: “Những kẻ đó là tông đồ giả, là
thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô. Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng
đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội
lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công
việc chúng đã làm” (2 Cr 11, 13-15).
2) Cách phán xử của Ngài công minh không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giê-su đến để xét xử trần gian mà không vạch mặt được
những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người này qua mặt như đã từng
qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì là công minh nữa? Với tư
cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ phải hết sức công minh, công
minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi người. Ngày ấy, biết bao điều
bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra
ánh sáng: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà
người ta sẽ không biết” (Lc 12, 2), và “những việc tốt thì đã rành rành; mà cả
những việc không tốt cũng chẳng che giấu được” (1 Tt 5, 25). Chính vì thế mới
có những chuyện bất ngờ như: “nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn
những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu” (Mc 10, 31; x. Mt 20, 16; Lc 13, 30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc được mọi người tưởng là
như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có nhiều kẻ tưởng mình
thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như thế, nhưng lại được
Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ
cầu nguyện (x. Lc 18, 9-14) là một thí dụ điển hình cho sự trái ngược ấy. Còn
bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh Kinh: “Tôi nói cho
các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ
phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì
sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến
răng” (Mt 8, 11-12; nên xem thêm Rm 9, 30-32; 10, 20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng
ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào thì càng dễ trở nên bất chính do
chính sự tự hào ấy: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10, 12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng mình công chính vì tự thấy
mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được biết bao việc phúc đức, nhưng
lại không được coi là công chính, mà thậm chí ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không làm những việc quan
trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau khổ cùng quẫn của người
chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để mặc bất công hoành hành
đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành của mình đồng thời lên
mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan nguội lạnh nên tưởng mình
là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính, vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho tha nhân thì đã hy sinh
một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ ra khiêm nhường, biết cảm
thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3) Số phận con người khi ấy được định đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su cho biết: “Bấy giờ, hai người đàn
ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người
đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại”. Chúng
ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai từ “được đem đi” và “bị bỏ lại”, nhưng
qua đó, ta biết được số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác
nhau: kẻ “bị” người “được”, kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách
sống, cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài “cứ theo công
việc mỗi người mà xét xử” (1 Pr 1, 17; Kh 20, 12-13), “sẽ thưởng phạt ai nấy
xứng việc họ làm” (Mt 16, 27; x. Rm 2, 6). Thánh Gia-cô-bê còn cho biết: “Đừng
ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn” (Gc 3, 1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây bất công sẽ phải đền tội:
“Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân cho anh em phải
chịu gian truân” (2 Tx 1, 6), “Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công
mình làm; không có chuyện thiên vị” (Cr 3, 25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và
chịu bất công vì Thiên Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: “Anh em sẽ được coi
là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu
đau khổ” (2 Tx 1, 5).
4) Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm của Chúa xảy đến lúc nào, và
xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có nhiều điều rất bất ngờ, không
ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giê-su đề nghị với chúng ta một thái độ
khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là phải sống làm sao để dù
Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc xét xử công minh
đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức
cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa là thái độ tự hủy và yêu
thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi mình là cái gì quan trọng,
không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án ai, và cũng không coi ý
riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu thương là thể hiện tinh
thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha nhân: sẵn sàng hy sinh
bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu thương đòi hỏi phải tự hủy
như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương đích thực nếu không tự hủy. Sống
tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu nguyện đúng nghĩa nhất: cầu
nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa nơi tha nhân,
một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể. Đó là cách tích cực để ta nên
công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm tùy thuộc rất nhiều vào sự
khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: “Thiên Chúa không thương xót khi xét xử
kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết thương xót, thì Người chẳng quan tâm
đến việc xét xử” (Gc 2, 13). Ngài không thể không tha thứ cho những ai luôn
luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ
vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể thua con người về lòng khoan dung. Vả
lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy
của Đức Giê-su: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những
người có lỗi với chúng con” (Mt 6, 12; x. Lc 11, 4). Khốn cho chúng ta nếu đã
hợp đồng với Chúa như thế mà lại không biết tha thứ: “Nếu anh em không hết lòng
tha thứ cho anh em mình, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như
vậy” (Mt 18, 35). Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều
kiện, dù lỗi họ có nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một
bí quyết giúp ta hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng
đến đâu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống yêu thương, quên mình, đồng
thời biết cảm thông với những đau khổ cũng như những yếu đuối của tha nhân, để
con biết ra tay cứu giúp, biết tha thứ những lầm lỗi của họ. Con nghĩ đó là
cách tỉnh thức đón chờ Đức Giê-su đến một cách khôn ngoan nhất. Xin cho con
thực hiện được những điều ấy, để ngày ấy Cha sẽ hài lòng về con và ngày ấy cũng
sẽ là ngày hạnh phúc nhất của con. Amen.
20. Hãy tỉnh thức
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu
vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm trong một màu tang tóc và một
bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để chúng ta luôn sẵn dàng và nhìn cái chết bằng
cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô
định.
Có một mẩu chuyện cổ tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng
mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu viện, nghe thấy tiếng chim hót véo von.
Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy một con chim họa mi rất đẹp, thày liền
đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi lại dừng, làm thày miệt đuổi theo, đến
lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì con chim biến mất.
Thày tìm đường trở lại nhà dòng. Mãi tới chiều mới về đến. Cửa
nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác
nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay trong nhà dòng. Thày tự giới thiệu nhưng
không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề trên đem sổ sách ra tìm tòi, thì mới
thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây 100 năm. Một trăm năm
trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.
Thời giờ thấm thoát tựa thoi đưa, vụt đến rồi vụt đi như ngựa
hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại, như người
ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là một đứa bé, đầu để chỏm ba quả đào, mà
hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt đầu bước vào tuổi già.
Những em thiếu nhi đang ngồi đây, nhưng rồi 20, 30, 40 năm nữa
sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu nữa sẽ đến giây phút trọng đại, giây phút
cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như thế, chắc hẳn sẽ có người cho tôi là lẫm
cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và cứ dệt nhiều ước mơ, thân xác mình còn đầy
tràn nhựa sống và hăng say hoạt động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm, cái chết không dành riêng cho một người
nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy phải bước theo nó, dù là vua chúa quyền uy.
Nó không bao giờ phân biệt giai cấp, tuổi tác cũng như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của một thanh niên người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ vì nó dám kéo người trai trẻ này đi trước
cụ già.
Một làn gió nhẹ, một sơ suất nhỏ bé cũng đủ đưa chúng ta sang
thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý thức được sự mỏng manh, bèo bọt của kiếp
sống là như thế, nên thái độ cần phải có, đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá lâu tôi quen một gia đình ở Sài gòn. Mùa
hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú tài phần hai, cả gia đình rủ nhau đi Vũng
tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong xanh, giữa lúc mọi người đùa giỡn với sóng
biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa hơn một chút và rồi cậu không bao giờ trở
lại nữa.
Một xoáy nước nào đó đã cuốn mất cậu, người ta tìm kiếm hoài mà
cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi lên và dạt vào bờ.
Thế nhưng, chúng ta có biết được niềm an ủi độc nhất của người
cha và người mẹ đáng thương ấy không? Hai ông bà đã nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và vẫn còn rước lễ sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng ta có một linh hồn được chuẩn bị sẵn sàng,
bằng không thì chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, mất cả đời
này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những người thời xưa, chúng ta thường thấy ghi
háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết sau nụ hôn của Chúa.
Chúng ta hãy sống thế nào, để dù Chúa có đến vào lúc chúng ta
không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì chúng ta vẫn sẵn sàng, vẫn bình an
và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình
cuối cùng này hay không?
Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite
Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa chăng?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn sàng.
Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ
vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả lời:
- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn
sàng.
Em bé ấy sau này đã trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan
Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải đến trước tôn nhan Chúa, liệu tôi đã thu
xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi đã trả hết những món nợ đối với Chúa và
đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa hết những vết nhơ tội lỗi qua bí tích
cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa soạn ngay từ ngày hôm nay, nếu mỗi khi
chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự vấn lương tâm và chỉ ngủ yên khi nào
linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình thống hối, nếu chúng ta giữ được màu
trắng của tấm áo ngày rửa tội, nếu chúng ta giữ được ngọn nến đức tin luôn bừng
cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết không còn là giờ kinh hoàng và đáng sợ
nữa.
Nếu bây giờ chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, thì khi Chúa đến, chúng
ta sẽ không chết, nhưng chính lúc ấy chúng ta mới bát đầu sống. Cuộc sống nơi
trần thế là một chuyến viễn du trong đêm tối hay trên mặt biển dậy sóng. Nhưng
ở đằng kia bình minh đang ló dạng và Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay chào đón
chúng ta nơi bờ bến hạnh phúc.
Hãy sống để chuẩn bị cho cái chết và hãy chết để được sống
muôn đời.
21. Tỉnh thức
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời như chưa từng thấy
ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu
tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được
người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa
xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một
góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo cáo với các chức sắc trong làng như
sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn,
người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói
thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại trống phát cho dân làng. Không
bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất cả dân làng đều đem trống ra
khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn
lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ
ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn
hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng như sau: Các
người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt được ngọn lửa
ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh thức dân
chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà chờ ngọn
lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức không
có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. Để nói lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa
Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ đêm ngày trung thành với công việc được chủ
trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực đòi
hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho các tín hữu
Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức ấy. Trong những năm đầu của Kitô
giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một sớm một chiều, nên
họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào chuyện người khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ
họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say lao động và thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người Kitô hữu. Toàn bộ thánh
kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong
từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức
để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng gọi của Ngài, Ước gì
cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là tiếng trống khua inh ỏi trong bốn
bức tường nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp gỡ để cảm thông và phục
vụ.
22. Sẵn sàng
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi
vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Vì thế
phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Đồng thời thái độ nguy hiểm nhất đó là cứ cho
rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội của quỉ sứ, chúng bàn bạc và góp ý
xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám dỗ con người. Tên quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo cho loài người biết rằng chẳng có Thiên Chúa.
Tên quỉ thứ hai phát biểu:
- Tôi sẽ bảo cho họ hay rằng chẳng có hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Các ngươi sẽ không thể lừa dối được một ai bằng những
phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay, loài người vẫn tin rằng có Thiên
Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến kế:
- Tôi sẽ bảo với loài người rằng còn nhiều thời gian, nên
đừng có vội vã làm chi.
Satan đáp:
- Hãy đi đi, với phương cách này, chúng ta sẽ làm hại được
rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất chính là ảo tưởng cho rằng mình còn
nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất trong cuộc sống con người chính là khi
chúng ta học được hai chữ ngày mai và trì hoãn công việc bởi vì không ai biết
ngày mai có còn đến với mình nữa hay không. Bởi đó, có một câu danh ngôn đã
khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày mai. Lịch sử còn ghi lai nhiều
câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở Thebea đang ngồi uống rượu với các dũng sĩ
của mình, bỗng có sứ giả bước vào và báo cho ông hay về một âm mưu sát hại ông.
Thay vì lên phương án đối phó. Ông nói: để đến mai hãy hay. Thế nhưng ngay đêm
hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai lấy chồng giàu ở Nữu ước. Ngày kia trên
đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn giao thông và bị thương rất nặng. Lúc còn
trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường
khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói với cô về Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu.
Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng dưng về tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng
dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa để rồi cuối cùng chính cô cũng không còn lưu
tân đến Thiên Chúa và linh hồn nữa. Tai nạn bất ngờ đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy
của trần gian và ném cô vào vòng tay tử thần. Cô khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi
sẽ chết ư? Tôi còn sống được bao lâu nữa? Chừng một giờ. Nghe vậy toàn thân
côrun rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên không động đậy trong giây lát. Sau
đó, hình như cô lấy hết sức còn lại và nói: Xin hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng
vị bác sĩ trả lời:
- Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô nói:
- Tôi đã có thể làm biết bao nhiêu điều tốt lành với tiền
bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức tin. Thế nhưng tôi chỉ nghĩ đến những
cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn sống được một giờ nữa mà thôi. Bây giờ
thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị, hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng, để chúng ta
khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng: đã quá muộn rồi.
23. Chúa đến
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu cuốn phim mang tựa
đề: “After day”, nghĩa là “ngày sau đó” kể lại nghịch cảnh của ít người dân
trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa Kỳ còn sống sót sau một trận bom nguyên
tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người khi quyết định
dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục
trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau
khổ và thất vọng của những người đang chờ đến lượt mình phải chết, vì bị nhiễm
chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người
còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng
ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất
và con người phải đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng, bất lực và
tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng nói với
chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là ngày tận thế bị chết chóc, buồn
thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới. Đó cuộc sống của tự
do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế, chúng ta phải sống đẹp lòng Thiên Chúa
chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa. Nhưng
phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải
sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi
thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương
mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng
Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu
đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ
đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các
thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn. Càng
biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống
Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng
giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho Ngài vui
sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều khổ đau, vì con người
không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau theo tinh thần Tin mừng
của Chúa mà Ngài mời gọi. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất
là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự
sống thần linh và xây dựng trời mới đất mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất.
24. Sẵn sàng
Năm Phụng Vụ mới được Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa Nhật thứ
nhất Mùa Vọng.
Thế nhưng, mùa vọng không phải chỉ là thời gian để Giáo Hội nhìn
về quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã giáng sinh và cử hành biến cố này
với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng không phải chỉ là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng
sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố
Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân
loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của
mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong
lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên
Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người
đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn
trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh
tân đời sống, đó là sừ điệp mà bài đọc II và Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhắc
lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu:
“Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ
đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày
gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy
đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu
trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi
Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ
bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được
chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự
đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến
như kẻ trộm: “Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con
Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh
sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa
không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa,
với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc
lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như
phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống
trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các
công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa
ngự đến. Amen.
25. Tỉnh thức
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa
đến được giải thích bằng ba dụ ngôn: Dụ ngôn kẻ trộm đến bất ưng ban đêm và
người đầy tớ bất trung, người trinh nữ ban đêm chờ đợi chàng rể đến và các nén
bạc phải được sinh lời cho chủ.
Lời căn dặn chung của ba dụ ngôn này: “Các con hãy tỉnh thức, bởi
vì các con không biết Chúa đến lúc nào”. Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy
niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh phòng ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ
giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là việc chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa
trở lại được loan báo trong các dụ ngôn là điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài
đến lại không thể biết được. Vì không thể biết trước, nên cần phải tỉnh thức và
canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng kitô hữu thời các thánh Tông đồ, việc chờ
đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc biệt. Chúa đến trong ngày tận thế đã gây
nên những phản ứng khác nhau nơi các tín hữu thành Thessalônica, họ thất vọng
vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên vì công việc làm, vì ham thích thú vui. Chính
thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới tình trạng này trong thư gởi tín hữu
Thessalônica như sau: “Kẻ thì sống qua ngày không làm lụng gì cả, người thì
luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều chuyện”.
Sau khi nhắc đi nhắc lại cho các tín hữu biết ngày giờ của Chúa
sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh Phaolô khuyên họ bằng những lời sau đây:
“Thưa anh em, vì mình không ở trong chỗ tối tăm, nên ngày ấy vụt đến với anh em
như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là con cái sự sáng, con cái ban ngày không
thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên chúng ta chẳng phải chết như những người
khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và điều độ”.
Có những người đã dùng những từ ngữ kinh hoàng gây nên sợ hãi về
giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây không là mục tiêu, là nhân tố thiết yếu
của việc canh phòng theo tinh thần Phúc âm. Bởi vì việc chờ ngày Chúa đến không
phải là lý do gây nên sợ hãi một cách nô lệ cho những người theo Chúa Kitô. Trái
lại, đây là lý do của niềm tin cậy, của ước ao, của khát khao và của nguồn vui
chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể đến với chúng ta hôm nay và ngày mai như
kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng ta không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp
Người, nếu chúng ta không chuẩn bị, không canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta biết rằng, Thiên Chúa ở gần chúng ta trong
mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần chúng ta không biết hoặc vô tình quên ngài.
Để nhận biết Người, chúng ta phải bỏ qua những gì ngăn cách giữa Ngài với chúng
ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Ngài và sống hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ
đợi của chúng ta sẽ được thỏa mãn và được thưởng công: “Hỡi đầy tớ trung tín và
tốt lành, hãy vào hưởng sự sung sướng của chủ ngươi”.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khám phá ra những lần Chúa đến
trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng con. Chúa đến nơi
người anh em chúng con đang sống trong cảnh cùng cực cần sự giúp đỡ, săn sóc và
tình yêu thương của chúng con. Chúa đến trong anh em đang đau khổ tinh thần và
thể xác, như người bị cướp đánh, bị đả thương bỏ bên lề đường Giêricô. Chúa đến
trong những anh em đang tìm Chúa để gặp được Ngài, tôn thờ và yêu mến Chúa như
chúng con. Những người anh em này cần đến chúng con, chúng con phải trở nên
những người đem Tin mừng của Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức để nhận ra
ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức khác nhau, để đón tiếp Chúa với niềm hân
hoan: “Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về mà còn đang tỉnh thức”.
26. Chú giải của Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi
Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và
năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng
sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự
đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu
không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một
người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang lâm như
một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phả là một cách
làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung
gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế
nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua!
Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới
vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa
và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây?
Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và
Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương.
đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì
tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế (16, 5-13), cơn hồng thủy được trình bày như
một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; "Đức Chúa thấy rằng
con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa
suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải
Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục dục của những người đương
thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục... và cuối cùng đi tới hủy
hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn
hy vọng sống xót…” (chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người
không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà
đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối
cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn
toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ
điều gì nào?
Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi
hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội
lỗi. Chính vì họ “không biết sớ hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu... không
có một nhận thức đúng đắn về thực tại…
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận
con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi” để rồi, trong phút
chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là “những thần linh” và nếu muốn sống
thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở vào "những ngày thời No-ê!".
Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ
vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững
vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn
tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một
cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế
nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột ngột như một cơn són
triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh
không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng
ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ "quang lâm"
“parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự "hiện
diện", "đã đến": Có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong
thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng
đế".
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa
“parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ
may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các
sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng
ta rằng Người đến "thăm chính thức” chúng ta trong lúc ta bận rộn những
chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà ta, ở nới ta ăn uống, trong
các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào ta cũng phải sẵn sàng cho
Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối cùng", ' có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm nương, thì một người được đem
đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được
đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng ngày.
Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà
Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm... và
ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào
Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải "tỉnh thức": Hãy canh
thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa
"có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến” tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ
mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai
người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có
chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sắn sàng, người kia thì không!
Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng còn người kia không được ở
với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và
nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi
cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo
chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới
xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa “cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy
của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm
người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi
vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến
mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ... một trên
hai. . năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25, 12). Và
hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi
những người “đang đứng", những người "canh thức", những người
"đang rình". Cái "liều lĩnh" trong cuộc sống kinh tế, xã
hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp
đang "thiêm thiếp ngủ”
sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái
lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống
hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng
cuộc "viếng thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em không biết ngày nào
Chúa của anh em đến. Anh em hay biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm
sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!
Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là
thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có nghĩa là "tích lũy cho
nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung quanh nhà để tránh
cướp": Không! Tỉnh thức, chính là “sắn sàng" để đối phó, chính là
"được vận động liên tục” để hành động:. . Tỉnh thức, chính là trái nghịch
với "để buông trôi", lo lắng, bất cần.
Không nên nói "giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá
muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến... Hẳn ông đã
thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ
trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình
ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó "khoét vách
nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá
một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực củ dụ ngôn: Chúa
luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người
đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để
cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa
không?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ
phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi cái ngày. . luôn luôn sắn
sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn
giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc khải này của Chúa không?