NGƯỜI
CÔNG CHÍNH SỐNG NHỜ ĐỨC TIN
Niềm tin vào Thiên Chúa chính là sức mạnh
và lẽ an vui của người môn đệ Chúa Giêsu trong mọi nghịch cảnh: “ta là dân Người
chăn giữ, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.”
Cuối năm 2004 Tạp chí Forbes đăng danh sách những người giàu
nhất thế giới, với 313 tỉ phú người Mỹ, một con số rất đông các nhà tỉ phú Mỹ với người dẫn đầu là
Bill Gates. Cũng trong tháng đó,
bản tường trình của Cục Điều tra Dân số Hoa kỳ (US Census Bureau) lại cho biết có gần 36 triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khó, tăng 1,3 triệu người so với năm trước, và
khoảng cách giữa người giàu
và người nghèo ngày càng rộng hơn. Với những số liệu trên,
thật là không biết phải trả lời thế nào cho câu hỏi dân Mỹ đang
giàu lên hay là đang nghèo đi. Phải nói là
muốn trả lời thế nào cũng được, chỉ cần thay đổi góc
nhìn.
Từ những dữ liệu rõ
ràng trong một cuộc sống cụ thể mà người ta vẫn còn có
thể có nhiều ngộ nhận về sự hưng suy thì ai dám có đánh giá về sự thánh
thiện, về đức tin.
Vì thế mà khi thấy các tông đồ hỏi xin
thêm đức tin để làm được phép lạ, Chúa Giêsu đã phân định cho các ông biết rõ rằng đức tin mà Thiên Chúa muốn là sự khiêm
nhường thẳm sâu để lắng nghe và sống theo Lời Chúa,
như một hạt cải nhỏ được gieo
có thể mọc lên thành một cây lớn. Khiêm
nhường tín thác tất cả cho
Chúa là điều kiện đầu tiên
cho một phép lạ thật lớn lao vượt ngoài
sức con người, là loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, là nhổ cả thế giới này khỏi tội lỗi mà trồng vào ân sủng, như bảo cây dâu bứng rễ lên mà trồng dưới biển, “và nó
liền vâng lời các con”.
Trong hành
trình đức tin, có những lúc trí khôn tự nhiên của con người nói lên những lời phản kháng với niềm tin: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa,
con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: "Bạo tàn!" mà Ngài không cứu vớt?” (Kb
1,2). Đó là lúc người ta dễ bị cám dỗ nên cứng lòng, chỉ tin vào
những ngẫu tượng có vẻ nhiều sức mạnh, như là
quyền thế, tiền bạc, xảo kế,… để rồi tự trở nên mù loà, câm điếc, như sự cứng lòng của dân Do
thái ngày xưa trong sa mạc.
Niềm tin vào Chúa bắt đầu từ việc nhận thức sự thiếu thốn và tội lỗi của mình
cùng với sự nhận biết về quyền năng và tình
thương Chúa: “Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh
Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng
nước hằng sống” (Ga
7,38).
Cũng như người tôi tớ biết mình không làm được gì mà không có Chúa, nên chỉ tận tâm hầu hạ chủ mà không dám đòi ban thưởng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”, người tin
vào Chúa là người trung thành
thi hành ý muốn của Chúa và kiên nhẫn đợi chờ hoa trái của tình thương: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không
trì hoãn đâu” (Kb 2,3).
Niềm tin đó đem đến niềm vui và
bình an dù có ở giữa trăm ngàn
thử thách, gian nan,
“vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho
chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là
một Thần Khí khiến chúng
ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2Tm 1,7).
Con người không thể tìm được một chỗ dựa nào
khác vững vàng
cho thân phận yếu hèn và tạm bợ của mình
ngoài niềm tin vào Chúa:
“Đức Chúa xử tốt với ai tin cậy Người, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa” (Ac 3,25)
Thánh Vianney
đã đặt hết niềm tin
vào Chúa, và chính ngài trở nên một chứng tích
lạ lùng về những điều vĩ đại Chúa làm được nơi một người mà tin
vào Chúa là tất cả việc người ấy làm. Sức học của thầy
Vianney rất kém, nhưng sau
Cách mạng, Giáo hội Pháp còn rất ít linh mục nên thầy được bề trên gọi về để khảo hạch, và lần nào cũng trượt. Dù vậy,
Vianney vẫn bền chí học. Sau
cùng bề trên gọi cha xứ của thầy đến hỏi thăm. Sau khi biết rằng thầy đạo đức và có lòng kính mến phép Thánh Thể thì bề trên
quyết định: “Thôi,
cho thầy chịu chức vì thầy bền chí,
chứ nếu khảo hạch thì không bao giờ đỗ được”.
Sau khi được chịu chức linh mục một thời gian,
Cha Vianney được cử đến Ars, một xứ đạo nhỏ với khoảng 300
giáo dân. Học kém, nhưng bù
lại ngài đặt trọn niềm tin vào Chúa: Tất cả những gì là hay, là tốt đều là việc của Chúa.
Còn với khả năng hạn hẹp của mình, làm sao ngài dám
nghĩ điều gì khác hơn ngoài việc nhận thực rằng:
“Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì
chúng tôi đã làm điều chúng
tôi phải làm”.
Với niềm tin
đó, Cha Vianney đã biến xứ Ars đã thành một nơi thu hút đông người đến nỗi người ta phải thêm một đường rầy xe lửa cho những ai đến đó để giao
hoà với Chúa. Với đức tin bằng hạt cải, Cha Vianney đã nên thánh quan thầy của các
linh mục.
Niềm tin vào
Thiên Chúa chính là sức mạnh và lẽ an vui của người môn đệ Chúa Giêsu trong mọi
nghịch cảnh: “ta là dân Người chăn giữ, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.”
Lm. HK