Giáo
Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXII Quanh Năm C
CHÚA NHẬT XXII QUANH NĂM,
NĂM C
I. Giáo Huấn Phúc Âm:
Giáo lý Phúc Âm dạy sống khiêm tốn:
Khiêm tốn là chọn chỗ thấp nhất trong đám
tiệc: Chỗ ngồi không làm nên giá trị con người, nhưng con người
có giá trị tự tại: được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được
Con Thiên Chúa khiêm tốn sinh làm con người và hy sinh mạng sống mình để mang
ơn cứu độ cho con người.
Khiêm tốn là thi ơn mà không mong được đáp
trả: Hãy làm bạn và ban ơn bố đức cho hết mọi người, nhất là những người thật
sự cần và họ không có cơ hội đáp trả.
II. Vấn nạn
Phúc Âm
Thói háo danh của người Do Thái, đặc biệt
nơi những nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ.
Phúc Âm tường thuật rằng: “Đức Giêsu đến nhà một Ông
thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố ý dò xét Người... Người nhận thấy
khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Ngài nói với họ dụ ngôn nầy...” Dò
xét hay dòm ngó... Tất cả diễn tả tà tâm và ác ý muốn hại người khác. Nuôi ác tâm hại người là bộc lộ tính ganh tị hay hiềm thù. Sự ganh tị nặng nề
nhất nơi con người do háo danh và ích kỷ. Người Do Thái, đặc
biệt những phe nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ rất háo danh,
rất chuộng tiếng khen. Họ dò xét và dòm ngó Chúa Giêsu với sự hiềm thù và
ganh tị vì Chúa Giêsu đang được dân chúng ngưỡng mộ và muốn suy tôn Ngài làm lãnh tụ.
Một vài phe nhóm chính trị và tôn
giáo xôi thịt và háo danh thời Chúa Giêsu thường được đề
cập:
Nhóm Sađốc:
Nguyên ngữ Do Thái là tsaddiqim, có
nghĩa những người công chính. Tên gọi Sađốc lấy từ tên thượng tế Zadok thời vua
Davít (Sách các Vua quyển I, 1:26) lúc đó nhiều người trong nhóm Sađốc là
tư tế. Thời Chúa Giêsu họ là những người giàu có và có thế lực cả
chính trị cũng như tôn giáo. Hội đồng tôn giáo của đền thờ Giêrusalem cũng như
Hội Đồng dân sự Do Thái đều bị chi phối bởi thế lực và tiền bạc của nhóm Sađốc.
Điều nầy có thể tìm thấy trong Tông Đồ
Công Vụ 4:1; 5;17; 23:6. Họ không tin có sự sống mai sau, không tin có thiên thần hay tinh thần như trong Phúc Âm Matcô 12,18-27;
Luca 20:27 và Tông đồ Công Vụ 23,8 diễn tả. Họ và nhóm Pharisêu luôn
rình rập để ám hại Chúa Giêsu, nhưng nhóm Sađốc cũng chấp nhận niềm tin truyền
khẩu của bè Pharisêu và những mạc khải mới.
Nhóm Pharisêu
Nhóm Pharisêu xuất hiện vào thế kỷ thứ hai trước Chúa
Giêsu. Pharisêu trong tiếng Do Thái có nghĩa “được tách biệt” để diễn tả chủ
trương giữ luật Môsê thật nhiệm nhặt của nhóm, đặc biệt giữ ngày lễ nghỉ, giữ
luật thanh tẩy, luật đóng thuế thập phân và luật kiêng cử những thức ăn mà họ
cho là ô uế.
Đa số thành phần Pharisêu là thứ dân, nhưng cũng khi có
cả thành viên Hội Đồng Công Nghi Do Thái như trong Tông Đồ Công Vụ 5:34. Họ
không những giữ luật Môsê nhưng cả truyền thống của tiền nhân như được
nói trong Matcô 7,1-13 và Matthêô 15,1-20. Những nhà lãnh đạo nhóm được gọi là Rabbi
hay sư phụ như trong trường hợp Nicôđêmô trong Gioan 3,1-10; 7:50: 19:39 và
Gamalien trong Tông Đồ Công Vụ 5,34; 22.3
Họ hoàn toàn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Chúa có ảnh
hưởng lớn nơi dân chúng. Chúa vạch trần thói giả hình xấu xa của họ. Họ toa rập
với nhóm Hêrôđê để tìm cách ám hại Chúa như trong Marcô 3:6. Nhóm Pharisêu tin
sự sống lại sau khi chết như trong Tông Đồ Công Vụ 23,1-8. Bản thân Thánh Phaolô
cũng là Pharisêu như Ngài tự nhận trong thư gửi Giáo Đoàn Philipphê 3,5 và
trong Tông Đồ Công Vụ 23,6 và 26,5
Nhóm
Ký lục hay luật sĩ
Đó là
những người được học chuyên về luật và có ảnh hưởng trong việc giải thích luật
và những nguyên tắc phải giữ trong đời sống. Thật sự họ không có khả năng tự
lập mà phải lệ thuộc vào nhóm Pharisêu. Nên họ được coi như luật sĩ của nhóm
Pharisêu như trong Phúc Âm Matcô 2,.16 hay Tông Đồ Công Vụ 23,9.
Phúc Âm
Thánh Luca gọi nhóm người nầy là luật sĩ như trong Luca 7:30 và 10, 25 Còn
Matcô và Matthêu gọi họ là ký lục. Cách chung, không quá đáng như Pharisêu,
nhưng họ vẫn được xếp vào thành phần đố kỵ với Chúa Giêsu như trong Matcô 11,27
Nhóm thượng tế, tư tế và Lê vi.
Phát xuất
từ chi tộc Lêvi chuyên đặc trách chuyện tế tự, phượng tự và bảo quản đền thờ.
Phúc Âm diễn tả nhóm người nầy vào số những người ganh tỵ và tìm cách ám hại
Chúa Giêsu.
Nhóm Ái Quốc cực đoan:
Chống đối đế quốc Rôma thật
mạnh mẽ và họ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để tiêu diệt Rôma.
Simon, một trong những môn đệ của Chúa Giêsu được gọi là Simon nhiệt thành, là
người thuộc nhóm nầy.
Ngoài ra cũng có một vài nhóm
khác như nhóm Hêrôđê, được thành lập để bảo vệ Herôđê Antipa, toàn quyền Galilê
và Pêrê từ năm thứ 4 trước Công Nguyên cho đến năm 39 sau công nguyên.
Những nhóm vừa kể trên, nhất
là nhóm Pharisêu rất nặng thói háo danh, giả hình và phô trương. Đang khi họ cố
dò xét, lùng tìm những sai sót của Chúa để ám hại Chúa. Họ không thấy gì! Chúa
lại thấy rõ những sai sót và thói hư tật xấu nơi họ, nhất là thói háo danh “Ai
cũng muốn ngồi chỗ nhất!” Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn.
Chỗ ngồi là danh dự. Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ? Có câu chuyện
kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số
khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà
mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với
những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai
cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối
cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến.
Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị
trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng
đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp : thưa không, đây là bàn
danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi
vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người
ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Như vậy,
thực chất của con người không là chỗ nhất nơi bàn tiệc nhưng là con người đích
thực của mình: Khiêm tốn nhìn nhận sự thấp hèn nơi mình để Chúa sẽ cất nhấc
người đó lên chỗ nhất. Chỗ nhất được Chúa dành cho con người có giá trị đích
thực mới làm cho con người được vinh dự trước mặt Chúa và người khác. Nên chỗ
nhất không làm con người có giá trị. Tên ăn trộm hay người bất lương cũng có
thể ngồi chỗ nhất trong đám tiệc. Nhưng chỗ đó không làm họ hết bất lương. Trái
lại người công chính và đạo đức sẽ làm cho chỗ ngồi thấp hèn thành chỗ nhất
trong bàn tiệc thiên quốc.
Khiêm
Nhường trong Triết Lý Đông Phương và trong Kinh Thánh:
Kinh Dịch, quyển sách cơ bản của đạo học Đông
phương, rất chú trọng đến đức Khiêm Quẻ thứ 15 trong Kinh Dịch là Địa Sơn
Khiêm, nghĩa là núi tuy cao nhưng chịu nhún nhường nằm dưới đất, hoặc nói cách
khác đất tuy thấp nhưng trong lòng lại có chứa núi, có ý nói về người có bản
lãnh nhưng cư xử ôn nhu, khiêm tốn. Trong quẻ chứa những câu dạy dỗ rất hay về
đức Khiêm. Xin trích một đoạn trong tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch,
đạo của người quân tử: Khiêm là đạo của trời, đất và người. Trời có đức
khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở duới
mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm)
thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm: Đạo đất, đạo quỉ thần cũng
vậy. Còn đạo người, thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ
khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Trong Địa Sơn Khiêm, chúng ta
còn được nhắc dù gặp hoàn cảnh khó khăn cách mấy như vượt sông lớn, cứ cố giữ
đức khiêm nhường rồi kết quả vẫn tốt: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại
xuyên, cát.
Kinh
Thánh:
Khiêm nhường là nhìn nhận sự thấp bé, giới hạn và yếu hèn của mình. Khiêm nhường là coi trọng người khác, thấy
ở bất cứ người nào cũng có những điều chúng ta có thể học hỏi được; biết nhìn
nhận khuyết điểm hay lỗi lầm của mình. Khi nghe những lời phê bình về mình mà
nóng mặt, hay sôi máu là coi chừng mình thiếu sự khiêm nhường. Đức Chúa Giêsu dạy
môn đồ phải khiêm nhường như em bé trong Phúc Âm Matthêô 18:3-4
Khiêm
nhường là hy sinh phục vụ: Chúa Giêsu kêu các môn đệ mình đến và dạy: “ai muốn làm đầu, thì phải làm rốt hết và làm tôi tớ mọi
người” Matthêô 9:35 “Kẻ nào tôn mình lên
thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên” trong Matthêô 23:12. Chính Chúa đã đích thân rửa chân cho 12 môn đồ
để dạy bài học khiêm nhường trong phục vụ.
Khiêm nhường là làm vui lòng Chúa, khiêm
nhường sẽ nhận được sự dẫn dắt của Ngài. Người khiêm nhường sống trong hòa
bình. Họ không tranh thắng, không cãi cọ với anh em mình để dành phần phải. Họ
không tạo kẻ thù một cách vô ích. Khi biết làm mếch lòng ai, họ sẵn sàng hạ mình
xin lỗi. Khi ai làm mếch lòng họ, họ không bận tâm và tha thứ ngay khi người
đến xin lỗi. Vì “chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” Thư Thánh Giacôbê 3:2. Thánh Phaolô khuyên: Trong vòng anh em phải ở cho hiệp
ý nhau; đừng ao ước sự cao sang, nhưng phải ưa thích sự khiêm nhượng. Chớ cho
mình là khôn ngoan trong Thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma
12:16.
Hãy nhớ lời dạy của người cha trong
KinhThánh: “Hãy để cho kẻ khác khen ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho
người ngoài tán mỹ con, môi con đừng làm” Sách Châm Ngôn 27:2. Tục ngữ
Việt cũng nói “Mèo khen mèo dài đuôi” hay câu ngạn ngữ của Âu châu: Con
khỉ càng leo cao thì càng hở mông” ngụ ý chê người hay khoe mình, tự cao tự
đại. Càng khoe khang tự đại, càng bộc bạch sự
yếu kém và sai sót của bản thân.
Khoe khoang là kiêu ngạo. Thánh Kinh cho
rằng con người không có một cơ sở nào để hợm mình, khoe khoang về những gì mình
có, hay những gì mình thực hiện được; vì tất cả là quà Thiên
Chúa ban cho.
Trong một bức thư gửi cho Giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô
nhắc: “Ai bảo là anh chị em hơn người khác? Có gì anh chị em có mà không phải
là quà tặng đâu? Và nếu là quà tặng thì tại sao anh chị em tự hào như thể quà
đó do tay mình làm ra?” trong I Côrinh 4:7 Người kiêu ngạo chỉ thấy
mình là tất cả, mình hay hơn, khôn hơn người khác, ý của mình luôn đúng, văn
thơ mình luôn hay, họ không thấy trời cao đất rộng, như ếch ngồi đáy giếng coi
trời bằng vung. Thiên Chúa ghét người quyền
thế, kiêu căng và cho họ về tay không. Chúa thương yêu và nâng cao người phận
nhỏ yếu hèn trong Kinh Magnificat mà Đức Mẹ đã trả lời Bà Elisabeth khi được bà
tôn vinh Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa quở trách những người kiêu căng “Bọn
kiêu căng, Chúa tởm kinh, căm ghét” trong sách Châm Ngôn 16:5. Người kiêu
ngạo là tự dối mình: “Nếu người nào tưởng mình quan trọng lắm, mà thật ra chẳng
là gì cả, thì người ấy đã tự lừa dối lấy mình” như
trong thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galata 6:3. Thánh Kinh cũng phân biệt
rõ: “Sự kiêu ngạo của người sẽ làm hạ người xuống; nhưng ai có lòng khiêm
nhượng sẽ được tôn vinh” như trong sách Châm Ngôn 29:23.
III.
Thực hành Phúc Âm:
Khiêm
nhường (trích bài giảng của Đức Cha GB. Bùi Tuần)
“Sống đạo đòi
nhiều nhân đức. Bởi vì sống đạo thì phải sống đức. Một trong những nhân đức cần
để sống đạo là đức khiêm nhường. Khiêm nhường ví như một thứ muối thiêng. Nếu
các nhân dức ví được như những món ăn nuôi dưỡng tâm hồn, thì nhân đức nào cũng
cần có chút muối thiêng đó. Trái lại, kiêu ngạo là một thứ thuốc độc. Việc lành
nào bất cứ, nếu bị pha một chút thuốc độc kiêu ngạo vào, tất sẽ ra hư.
Có thứ khiêm
nhường thật. Có thứ khiêm nhường giả.
Khiêm nhường
giả. Khiêm nhường giả thường là một hình ảnh mơ tưởng tự tạo. Coi khiêm nhường
như một vinh quang, kết quả của những cố gắng tự sức. Để rồi có cớ nảy sinh tự
đắc, lợi dụng trên đường danh lợi. Thỉnh thoảng người ta soi mình vào hình ảnh
tự tạo đó, để tìm thích thú và thèm muốn được khen. Nếu không cảnh giác, thì
thứ khiêm nhường giả như thế sẽ rất nguy hiểm. Vì nó sẽ dễ trở thành thứ nọc
độc có thể pha trộn vào mọi ý hướng đạo đức. Để rồi, sau cùng họ dùng việc đạo
để tìm vinh quang ảo cho mình, từ những việc nhỏ đến cả những việc lớn bề ngoài
mặc vẻ đạo đức. Hành trình của nó thường mang nhiều giả dối và mưu lược.
Khiêm nhường
thật. Trái lại, khiêm nhường thật thường phải trải qua những hành trình có
nhiều phấn đấu. Phấn đấu với chính mình. Phấn đấu với lối sống cạnh tranh xấu
của thế gian. Nhất là phấn đấu với ma quỉ, loại kẻ thù có nhiều xảo quyệt.
Satan vốn bị Kinh Thánh coi là cha của kiêu ngạo, luôn tìm cách phá đức khiêm
nhường. Chính Chúa Thánh Thần tác động, làm nên sự khiêm nhường thật. Có thể
nhận ra bằng những dấu chỉ này: Con người cảm nhận sâu sắc mình yếu kém, hèn
hạ. Họ rất thành thực nhận mình tội lỗi. Họ xem mình như người thu thuế cúi đầu
cầu nguyện. Thực sự nghèo nàn. Thực sự khốn khó. Thực sự khiêm tốn: “Lạy Chúa,
xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Sự cầu nguyện
cậy trông Chúa phát xuất từ ơn Chúa cùng với sự cảm nhận sức mình yếu đuối. Ơn
cậy trông đến dần dần một cách lặng lẽ, và kéo linh hồn về với Chúa một cách
rất tế nhị. Nó làm cho linh hồn cảm thấy mình không ngừng cần phải đổi mới, để
đón nhận được ơn cậy trông lôi kéo đó thường xuyên. Từ sự cậy trông lôi kéo đó,
linh hồn khát khao tìm kiếm chính Chúa. Sự gặp gỡ Chúa sẽ đem lại cho họ sự sám
hối, tâm tình cảm tạ và thờ phượng. Đồng thời, khi gần gũi Chúa, họ cảm thấy
mình gần gũi mọi người. Có một tâm tình đồng cảm linh thiêng. Họ thấy mình
chẳng có gì đáng gọi là đạo đức. Họ thấy mọi người đều là những người yếu đuối,
nhưng được Chúa xót thương đỡ nâng tha thứ. Với cảm nghiệm đó, họ nhận ra mình
có bổn phận phục vụ mọi người, người công chính cũng như người tội lỗi yếu
đuối, theo gương Cha trên trời, là “Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi
sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như
kẻ bất chính” (Mt 5,45). Vài hoa trái của khiêm nhường.
Như vậy, sự
khiêm nhường thật sẽ đem lại cho người sám hối sự bình an và hoan lạc. Sự khiêm
nhường, khi đúng là hoa quả của ơn Chúa Thánh Thần, sẽ không gây nên những ray
rứt dằn vặt cho ta, dù ta có một quá khứ đầy lỗi lầm. Những dằn vặt bối rối này
nhiều khi do ma quỉ khuấy lên, để ta không nhận ra được dung mạo đầy tình yêu
thương xót của Cha nhân lành, Đấng vui mừng sung sướng, khi có dịp tha thứ cho
những đứa con biết trở về. Sự khiêm nhường thật cũng đem lại cho con người tâm
tình vâng phục Lời Chúa một cách đơn sơ tin tưởng, cho dù dư luận muốn kéo họ
về hướng khác. Thí dụ: về việc bố thí, làm việc từ thiện, cầu nguyện và ăn chay,
Chúa Giêsu dạy hãy làm kín đáo. Vì Cha trên trời, Đấng hiện diện nơi kín đáo
thấu suốt mọi sự kín đáo sẽ trả công cho họ (Mt 6,16-18). Họ vâng lời Chúa, cho
dù nhiều cám dỗ giục làm khác đi. Sự khiêm nhường thật cũng thường gây cho
chúng ta được ý thức tự trọng chính đáng, và nhận thức được bổn phận tìm cách
khéo léo giúp các người thuộc về mình sống trong sự thực một cách khiêm nhường.
Thú thực là riêng tôi cũng đang phải phấn đấu từng giờ với nhiều khó
khăn tinh thần và thể xác, để có thể nói như thánh vương David: “Chúng xô đẩy tôi,
mong tôi té ngã. Nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng
tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118,13-14). Tôi mong rằng: Những gì
tôi vừa chia sẻ sẽ được coi là những hạt giống nhỏ về Tin Mừng mùa chay. Tôi
xin phép được gieo rắc chúng trong một thời điểm đang có những chân trời chinh
chiến đau buồn, mang nhiều đe doạ khủng khiếp cho cả phần hồn phần xác. Ta hãy
nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Hãy xem Người khiêm nhường
thế nào và khiêm nhường đến mức nào. Người đang dạy chúng ta: “Hãy học với
Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúng ta cũng tin
vào Lời Chúa phán xưa: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào
giờ nào” (Mt 25,13). Sau cùng, chúng ta đừng quên lời thánh Phêrô: “Anh em hãy
lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Vì Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng
ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).”
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên