Các
bài suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - C
1. Gây chia rẽ
Đức
Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào
bộ mặt của thế giới ngày nay, thì khách quan mà nói: Đức Kitô đúng là đã gây
chia rẽ. Ngài chia rẽ những kẻ tin và không tin. Rồi ngay giữa những kẻ tin thì
cũng còn có chuyện Công giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo. Rồi giữa người
công giáo với nhau, hiện nay cũng có phe nọ phe kia, và phe nào thì cũng lấy
Chúa ra để biện minh cho lập trường của mình. Người ta đã chẳng chia rẽ nhau vì
Chúa đó ư? Quả thật đúng như lời ông già Simêon đã nói: Trẻ nhỏ này sẽ nên cớ
cho nhiều người vấp ngã.
Thực
ra vấn đề không phải là Đức Kitô đã gây chia rẽ bằng cách xúi giục người ta
ghen ghét hận thù nhau, hay là khích bên này chống lại bên kia. Chúa đến thực
sự để đem lại sự bình an, để xây dựng một thế giới có công lý và tình thương,
nền tảng của hoà bình. Nhưng hoà bình đó, đúng như Ngài đã nói, không phải là
loại hoà bình kiểu thế gian, nghĩa là hoà bình của một sự thoả hiệp vì hèn nhát
hay vì áp lực. Bình an của Ngài là bình an nhờ giá máu thập giá, nghĩa là bình an
được xây dựng trên công lý, một công lý mà người ta phải đấu tranh, phải hy
sinh, phải liều mạng mới có thể đạt được.
Hoà
bình phải là thành quả của công lý, nhưng có được công lý, hay nói đúng hơn
thực hiện được công lý, không phải là chuyện dễ. Người ta có thể dễ dàng kết
bầu kết bạn với nhau để ăn nhậu, để chơi bời, nhưng tìm người hợp tác làm ăn
thì không phải bao giờ cũng dễ. Ăn cho đều, kêu cho sòng, là nguyên tắc không
phải bao giờ cũng thực hiện được, bởi vì khi làm thì ai cũng muốn phần ít,
nhưng khi hưởng lợi thì lại muốn phần nhiều. Như thế, ngồi nhà mát, mà được ăn
bát vàng, phải chăng đã là cái thói thường của người đời.
Thế
nhưng Chúa Giêsu đã lên án thứ công lý ăn gian ấy, Ngài đấu tranh cho người
nghèo, đem công lý đến cho những kẻ tội lỗi, bởi vì họ mới chính là những người
đáng thương. Công lý của Chúa là bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Là hạ bệ những ai
quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhu, là kẻ khó nghèo Chúa ban của đầy dư,
người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chính vì lý do ấy mà Ngài đã gây chia rẽ
bất đồng. Nói khác đi, những ai theo đúng đường lối của Chúa, thì sẽ không thể
nào đứng chung hàng ngũ với những người chà đạp và bóc lột những kẻ nghèo túng
và thấp cổ bé miệng.
Vì
thế, những ai đứng về phe Chúa thì cũng phải đứng về phía những người nghèo hèn
khốn khổ. Chính Ngài đã đến với họ, sống với họ, chết như họ và cho họ. Tuy
nhiên liệu chúng ta có can đảm đứng về phía Ngài và cùng bước đi với Ngài hay
không.
2. Lửa
Ta
đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Nhìn
vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi
nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh
sáng và sức nóng.
Ánh
sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức
nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và
đốt cháy những gì nhơ nhớp.
Chúa
Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của
Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong
bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ
mọi tội lỗi của nhân loại.
Tuy
nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ
mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là
một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Thực
vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở
trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây
ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy
phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi
nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm
hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem
Chúa đến cho những người chung quanh.
Để
kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị
sáng lập hội Bác ái Vinhsơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt
thành bênh vực cho Chúa.
Vào
năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo
bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh
niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm
và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học
thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam,
các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng
say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn
thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân
chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người
nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống
mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm
nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.
Hãy
trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên
một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.
3. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Một
đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và
ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày,
có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có
thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc
đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày
xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta
có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc
đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm
tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau,
người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật
kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh
vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là.
Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành
anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ
Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội
nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một
bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám.
Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác
ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa
và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm,
các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào
dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra
lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng
lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp
đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. –
Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”.
Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện
trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi
mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn
lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không
thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên
niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim
ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái
tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên
và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến
ông.
Thứ
ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp
các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết
thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau
và nhận ra nhau là anh em.
Chúa
Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu
thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất,
và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha
thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa
ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật
vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã
biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là
về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây
chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng
không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn
chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người
anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn
vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng
chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen
ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời
Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng
lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn
đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người
nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối
nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà
yêu thương.
Lạy
Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2)
Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3)
Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
4. Suy niệm của André Sève
(Trích
dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
DỆT
NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN CHIẾN TRANH
Chúng
ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành
những kẻ yếu hèn. Nhưng nếu chúng ta mơ ước có tâm lòng thanh thản, cuộc sống
hòa bình, môi trường sống an lành (gia đình, cộng đoàn, công việc, làng xóm hay
khu phố, cho đến đất nước và thậm chí thế giới), bài suy niệm hôm nay sẽ nói
với chúng ta rằng chúng ta không tìm thấy những điều đó nơi Chúa Giêsu: “Ta
không ban hòa bình cho các con như thế gian cho” (Ga 14,27)
-
Thầy đến mang lửa xuống, nhưng trước hết Thầy phải chịu phép rửa bằng lửa.
Các con đừng tưởng Thầy đến để thiết lập sự bình an trên trái đất, mà là đem sự
chia rẽ.
Nếu
lời này đụng chạm đến chúng ta và thậm chí làm chúng ta phẫn nộ, chúng ta phải
tự kiểm tra: nỗi lo sợ chia rẽ của chúng ta có lành mạnh, cao cả, hoặc chỉ là
một ước muốn an thân khá tầm thường? Mác đã nói: một dân tộc khốn khổ tạo ra,
cùng với tôn giáo, một loại thuốc phiện. Có bao giờ chúng ta rút ra từ Tin Mừng
đôi chút thuốc an thần nào chưa? Và đây là thuốc an thần hiệu quả nhất dưới mắt
chúng ta: “Các ngươi hãy thương yêu nhau”, các ngươi hãy làm dịu tất cả
các xung đột của các ngươi.
Dĩ
nhiên, điều đó không xuôi chảy. Vì lý do là việc muốn yêu thương như Chúa Giêsu
(chúng ta thường quên xác định) dẫn chúng ta đi đến chỗ làm chia rẽ, giống như
Ngài. Và dẫn đến việc chính chúng ta bị chia rẽ. Chúng ta thường kinh nghiệm
điều này. Chính ngày mà chúng ta chọn thực sự để yêu thì những xung đột gay gắt
nhất nổi lên. Tại văn phòng của chúng ta, để tỏ ra huynh đệ với đồng nghiệp, chúng
ta phải tố cáo bất công của cấp trên. Để yêu thương người Palestin chúng ta quay
lưng lại gia đình của chúng ta. Để giúp đỡ những người hàng xóm nghèo nàn,
chúng ta xung đột với vợ và mẹ vợ: “Ông bố làm thế là hy sinh các con của
mình!”. Để lãnh đạo một cuộc đấu tranh nghiệp đoàn, một trong những người bạn
của tôi đã thất bại trong việc tiến thân và các cô con gái của ông ta đối xử
với ông ta là… ông già thảm hại. Trong khi chia sẻ số phận với những người bị
áp bức tại một nước nọ ở Châu Mỹ La tinh, một linh mục xung khắc với Giám mục
bảo thủ của mình và linh mục đó tự hỏi ai là người có lý. Trong một cộng đoàn
người ta biết rằng trở lại một vấn đề công bằng, nghèo nàn hoặc ý nghĩa của Tin
Mừng là sẽ châm ngòi lại những xung đột. Người ta im lặng nhưng trong những con
tim bị xem là nhát đảm, sự an bình đã bị phá vỡ.
Do
lời này phải đi vào tận thâm tâm của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ luôn luôn là sự
chia rẽ bởi vì tâm lòng của chúng ta xấu xa. Khi chúng ta muốn yêu thương và
đấu tranh cho tình yêu, chúng ta chỉ làm điều đó do sự vụng về, sự hăng hái
hoặc sự sợ hãi của chúng ta. Trước mặt chúng ta những người Kitô hữu tốt nhất,
trong đó có các thánh, cũng yêu thương chúng ta theo khả năng của họ, cũng với
con người tội lỗi của họ.
Những
người như chúng ta, chúng ta không ngừng có nguy cơ tạo ra những hòa bình pha
tạp: hòa bình của người cai trị làm im lặng cả thế giới và thiết lập sự yên
tĩnh một cách gượng gạo; hòa bình của những người bị ám ảnh do tình thương yêu
huynh đệ tránh sự xung đột nhỏ nhặt nhất bằng cách để các hoàn cảnh trở nên tệ
hại; hòa bình của những người đấu tranh đơn thuần vì công bằng là người xếp
loại người ta và bình thản tiến bước giữa những người tốt và những người xấu.
Chúa Giêsu đâm lưỡi gươm chia rẽ vào trong các hòa bình sai lạc này.
Hòa
bình nào đây? Một nền hòa bình hay đặt vấn đề, nóng bỏng và yêu thương xen vào
giữa các xung đột và ở lại đó. Hòa bình đó không tìm kiếm những cái hồ yên
tĩnh, mà là muốn làm cho có thể sống được trong các phong ba bão táp.
Đối
với một người con của Tin Mừng, không có sự an bình nếu không nói là ở nghĩa
trang mới có một công việc kiến tạo hòa bình kiên trì và thông minh có thể có ở
khắp nơi; trong tâm lòng bị xuyên qua của chúng ta, trong nhóm của chúng ta nơi
đó nổ ra một cuộc đấu tranh cần thiết, trong Giáo Hội nơi đó luôn luôn sẽ có
những người duy trì trật tự và những người suy nghĩ ra cái mới.
Chính
ở giữa chúng ta là những người bất toàn và tội lỗi phải làm lại những hòa bình
tạm bợ của chúng ta, các hòa bình này sẽ bị phá hủy khi thì do những kiêu ngạo
của chúng ta, khi thì do lưỡi gươm Tin Mừng. Sẽ phải can đảm bắt đầu lại mà
không nghĩ đến những kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến đấu. Người ta chỉ có thể
trở thành một người thợ xây dựng hòa bình bằng cách dệt nên hòa bình bằng những
sợi len chiến tranh.
5. “Ta muốn lửa ấy cháy lên” – Veritas
(Trích
dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài
Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử
dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường
hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ
qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian
và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa
phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng
là đến đem sự chia rẽ”.
Thật
là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng
ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu
này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu,
Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của
Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?
Trong
vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải,
nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa
trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được
Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này
có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được
chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.
Sức
mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho
Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy
con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh
của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động
gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không
chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng
của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách,
chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào
tránh né được.
Chúng
ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa
hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần
gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ
làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình
Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa
được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá
thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.
Cái
chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói
đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta
nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai
môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả,
bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều
các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy
sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu
các con cũng sẽ chịu”.
Rõ
ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa
Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để
có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó
vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi
hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ
máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con
đường này.
Trong
một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác
lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta
thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh
tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.
Cuộc
đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu.
Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra
khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu
muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời
Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như
Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như
vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời
chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ
khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên
Chúa.
Người
đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và
sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa
xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa.
Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta
muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ
điều chúng ta xin hay không?
Xin
Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức
mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến
trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được
sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận
chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta
trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
6. Lửa trên mặt đất
(Trích
dẫn từ ‘Manna’)
Suy
Niệm
Tin
Mừng hôm nay là lời tâm sự của Đức Giêsu, Ngài khẳng định mục đích của đời mình
là ném lửa trên mặt đất và Ngài mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Lửa
Đức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải
chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định
sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải
chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị
quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa
này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong
cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Đức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc
là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng
người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ
Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu.
Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái
đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn
đệ Emmau. Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa
lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng
ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời
Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Đức
Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Đừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy
để nó lan ra.
Lửa
thiêu hủy những cằn cỗi. Lửa thanh lọc những ô nhơ. Lửa làm ấm lại cõi lòng
băng giá. Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng
ta cần làm cho mong muốn của Đức Giêsu thành tựu.
Nhưng
trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình
yêu.
Đức
Giêsu chia sẻ cho ta điều đang đè nặng trên Ngài. Ngài linh cảm về thử thách
lớn lao Ngài sắp chịu. Đúng là Ngài đang lên đường đi gặp nó. Ngài gọi đó là
Phép Rửa mà Ngài phải chịu.
Đức
Giêsu can đảm đón nhận Phép Rửa đáng sợ này. Ngài thấy mình sẽ bị nhận chìm
thật sâu trong đó.
Đức
Giêsu tiếp tục nói điều phải nói, làm điều phải làm. Ngài dám trả giá cho sự
trung tín của mình. Nỗi khổ đau và cả cái chết là điều không thể tránh khỏi,
nhưng điều đó chẳng làm Ngài chùn bước.
"Các
anh có thể chịu Phép Rửa mà Thầy sẽ phải chịu không?"
Ngài
đã hỏi các con ông Dêbêđê như thế (Mc 10,38), và Ngài cũng hỏi từng người chúng
ta như thế.
Chẳng
có Phép Rửa nào khác ngoài Phép Rửa Ngài đã chịu. Chẳng có con đường nào khác
ngoài con đường Ngài đã đi.
Tin
Mừng Đức Kitô dành cho người hiền hòa, chứ không nhu nhược.
Chúng
ta phải có cùng một mong muốn và khắc khoải như Giêsu.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thế
giới hôm nay đầy đau khổ do con người gây ra cho nhau chỉ vì trái tim đóng băng
lạnh giá. Theo ý bạn, làm sao để làm nóng lại trái tim con người?
Sống
là chấp nhận trăn trở, khắc khoải. Bạn thấy mình hay trăn trở về điều gì? Bạn
có trăn trở về Hội Thánh?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
Xin
cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân
loại.
Xin
làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và
được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin
soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết
định.
Xin
thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường
đời.
Ước
gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình
yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy
Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin
ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình
Yêu và gieo rắc Tình Yêu khắp nơi. Amen.
7. Phải chi lửa ấy đã bùng lên
(Trích
dẫn từ ‘Manna’)
Suy
Niệm
Nhiệt
độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều
đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con
người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân
loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng
vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức
Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài
ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn
lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt,
không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một
làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh
Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng
ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên
những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
"Phải
chi lửa ấy đã bùng lên!"
Chúng
ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó
là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho
nhau.
Gieo
rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm
những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ
phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm
nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh
của bóng tối.
Khi
Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng
như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó
là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để
đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và
tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc
hậu... Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng
tôi.
Có
lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu
một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Thế
giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng
được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong
Giáo Hội)?
Bạn
có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở
trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu thương mến,
Xin
ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin
Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin
Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận
được
Chúa
đang hiện diện nơi chúng con.
Xin
cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng
cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta)
8. ‘Ai ở gần Ta, là ở gần lửa’ – Achille Degeest
(Trích
dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Lửa
trong Cựu Ước tượng trưng cho quyền năng tối thượng, tác động thanh luyện và sự
hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Tiến xa hơn, Tân Ước nhìn thấy trong lửa biểu
tượng của tình yêu vô biên và làm biến đổi của Thiên Chúa đối với loài người.
Nói về lửa Người mang đến thế gian, Chúa nghĩ nhiều nhất đến sứ mạng của Người
giữa nhân loại. Chúa đem đến một sự hiện diện mới mẻ của Đấng Tối Cao. Thiên
Chúa không chỉ là Đấng tạo nên khởi nguyên đầu tiên, Người là Toàn thể Tình yêu
đến biến đổi con người bằng một sáng tạo mới. Origênê, một tác giả thời đầu
Giáo hội, gán cho Đức Giêsu dụ ngôn này: Ai ở gần Ta là ở gần lửa. Làm sao có
thể khác được? Trong các ngôn ngữ khắp địa cầu, tình yêu bao giờ cũng chọn lửa
làm phương cách diễn tả huống hồ là Tình yêu nóng cháy vô cùng của Thiên Chúa
so sánh với một lò lửa đỏ rực. Đức Kitô là sự mạc khải về Tình yêu ấy. Không
thể đến gần Đức Kitô mà không thấm được ánh sáng và sức nóng. Khi Chúa phán
thêm rằng Người phải nhận lãnh một sự thanh tẩy (Chúa ám chỉ sự thanh tẩy do
Thương khó và Phục sinh), Đức Giêsu vạch rõ sự thể Người đến tạo ra một khởi
nguyên mới. Thực tại trước kia nay biến đổi nhờ được ghép thêm một thực tại cao
quý hơn, con người được nâng lên hầu tham gia sự Tuyệt Đối. Theo hướng suy niệm
ấy, chúng ta chú ý đến hai việc:
1)
Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong
tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng.
Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy
trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng
thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực
nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người.
Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc
đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu
Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và
pahỉ đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức
Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc
giữa và lúc kết thúc.
2)
Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng
ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch.
Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, - do đó chúng
ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải
thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu,
vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng
phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ
nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện
trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng
để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham
vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ
giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào
những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương
hướng Chúa muốn.
9. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta
(Trích
dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Ngày
hôm nay “căng thẳng” là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều
người. Chúng ta nhận biết rằng, căng thẳng ở nơi công việc, căng thẳng trong
hôn nhân, căng thẳng trong lần gặp gỡ nhau cuối cùng. Sự căng thẳng xảy ra khi
sức mạnh chuyển đến những hướng đối nghịch. Một thí dụ đơn giản là một sợi dây
cao su. Khi kéo sợi dây theo hướng đối nghịch bạn cảm thấy căng thẳng. Nếu sự
căng thẳng tiếp tục tăng lên sợi dây sẽ đứt, Chúa Giêsu cảnh báo rằng giáo lý
của Ngài sẽ mang đến những sự căng thẳng và sẽ tận cùng bằng chia rẽ ngay cả những
người trong gia đình.
Trong
gia đình Giáo Hội có sự căng thẳng, đặc biệt là trong nhiều nơi đối với phụng
vụ. Chúng ta phải trở thành sống động giống như một gia đình hạnh phúc, luôn
hợp nhất và bình an, nhưng những lực kéo đang kéo tới hướng đối nghịch, một số
ước vọng hướng tới việc phục hồi Công đồng Vatican II, còn những người khác lại
muốn trở lại thần học và những thực hành thuở ban đầu.
Đây
là một cuộc nói chuyện thẳng thắn. Sự chuyển động trở lại phía sau thì không
đúng hướng. Nhiều người muốn tin rằng Đức Giáo Hoàng thì bảo thủ cực đoan và
hối hận vì Công đồng Vatican II đã dẫn Giáo Hội đến không phải chỉ những ước
muốn vô vọng; và là một sỉ nhục cho Chúa Thánh Thần. Đực Giáo Hoàng có vẻ như
đã bác bỏ những tiếng nói mạnh mẽ phàn nàn chống lại Công đồng, ngài không đồng
ý với ý hướng của họ.
Tại
một cuộc gặp gỡ quan trọng của các Hồng Y trên thế giới vào mùa hè năm 1994,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Phụng vụ không nghi ngờ gì là trung
tâm của đời sống Giáo Hội. Tiến trình canh tân phụng vụ trong tinh thần của
Công đồng Vatican II vẫn luôn tiếp tục dưới sự hướng dẫn và giám sát của thánh
bộ phượng tự và kỷ luật của các bí tích”.
Đức
Giáo Hoàng đã hành động theo lời tuyên bố trang trọng trong Hiến chế về phụng
vụ của Công đồng. Một tuyên bố sẽ linh hứng cho mọi người trong Giáo Hội và
phải hướng dẫn mỗi Giám mục, linh mục:
“Nhiệt
thành trong việc đề xướng và canh tân phụng vụ phải được xem như một dấu chỉ sự
xếp đặt quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta, như là một
chuyển động của Thánh Thần trong Giáo Hội của Người. Sự kiện này còn là một đặc
điểm nổi bật của đời sống Giáo Hội cũng như mọi cách thế suy tư và hoạt động
đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta” (số 43).
Các
bạn đã chia sẻ những đau buồn khi đọc những bài viết tấn công của những người
Công Giáo về Công đồng Vatican II: “Công đồng Vatican II đã mở cửa cho những sự
dữ bước vào Giáo Hội, bởi vì Công đồng đã làm một cuộc cách mạng tầm cỡ thế
giới chống lại trật tự của Thiên Chúa”. Nếu các bạn đã tham dự vào điều đó, cám
ơn Chúa vì sự nhiệt thành này. Nếu các bạn có buông thả bởi bất cứ sự thay đổi
nào, hãy loại bỏ chúng như là một sự dữ. Theo lời khuyên của thư Do Thái: “Hãy
để chúng ta luôn nhìn ngắm vào Chúa Giêsu, Đấng luôn luôn linh hứng và hoàn hảo
đức tin của chúng ta”.
Dĩ
nhiên có những lạm dụng chống lại phụng vụ nhưng không thể thứ lỗi cho việc tấn
công vào chính việc phục hồi phụng vụ. Chúng ta không thể loại bỏ hệ thống tòa
án của xứ sở chúng ta bởi vì những quan tòa và bồi thẩm đều thất bại khi hành
động theo sự công chính. Sự lạm dụng không phải là hệ thống mà là một sự đối
nghịch lại với hệ thống. Đừng chấm dứt nơi mặt sai chống lại Thiên Chúa như đã
làm bởi những hoàng tử làm với tiên tri Giêrêmia, vị tiên tri của Thiên Chúa là
đưa ông tới sự chết. Sự thúc đẩy và phục hồi phụng vụ thánh là công việc của
Thiên Chúa qua Thánh Thần. Đừng trở nên nguyên nhân gây ra sự căng thẳng trong
Giáo Hội. Hãy bảo đảm là các bạn đang cố gắng trong cùng một hướng với Chúa
Thánh Thần.
10. Người giữ ngọn lửa.
(Trích
dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cách
đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane
Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau
khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể
cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong
tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải
lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa
sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ
vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói:
“Đó
là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy
niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều
khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến
nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ,
anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie
kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery
cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền
quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ
ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành
công.
Charlie
vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trở cho 6 trẻ mồ
côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng,
Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa”.
Anh
chị em thân mến,
Chúa
Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy
trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con
người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với
tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có
mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải
để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi
Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào
lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng
hơn mãi.
Anh
Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh
đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn
cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà
ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta
hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy
sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng
ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy
nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan
rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình
yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã
thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ
phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy
hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của
cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả
khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng
trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ
dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài.
Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến
để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu,
nhưng đúng là để gây chia rẽ”.
Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay
đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải
chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều
khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt
lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của
mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để
sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo
trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa
hơn.
Nhiều
khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo
xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì
một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức,
một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để
phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị
áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi…
Những
ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích
thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó,
dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống
lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh
chị em thân mến,
Chúa
Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất
giả tạo che đậy những bogn1 tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây
chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng áng chiếu soi vào trong bóng tối.
Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt
thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải
đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người
Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay
ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.
11. Lửa trên mặt đất – McCarthy
(Trích
dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy
Niệm 1. NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”
Đức
Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong
rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến
nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi
vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là
một Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị
bách hại và một số bị giết chết.
Giêrêmia
là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông
sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại
của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước
ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và
quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một
kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.
Các
ngôn sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có
kẻ khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy
trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy
nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen,
ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông
ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính
quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn
áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.
Một
đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ
hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu.
Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh
sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không
phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiêp nhất giả
hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.
Khi
nhà văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù
nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời
bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của
chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân
sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con
người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự
theo đuổi nào của lợi ích bản thân.
Những
sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như
những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và
cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn
nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.
Đức
Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một
ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể
thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa
sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô
uế.
Sứ
điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức
Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.
Suy
Niệm 2. CHẠY ĐUA
Vào
thời đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động.
Đó là hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn
người tham gia vào các cuộc chạy Maratông trong thành phố và trên khắp thế
giới. Một vấn đề đặt ra: chạy Maratông một mình hay chạy với người khác, trường
hợp nào cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: “Người chạy đường dài cô độc” nói lên tất
cả.
Một
vận động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo
hò cổ vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng
thông thường của người ấy.
Chúng
ta lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác
đang chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp
vào số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc
chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ.
Chúng ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra
sức mạnh gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong
một dòng chảy mạnh mẽ.
Điều
gì trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu
đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn
thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực
v.v…
Chạy
Maratông không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Maratông tự
nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và
dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương
sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.
Không
phải chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác
giả sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất
chấp cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của “đám mây vô số nhân
chứng” đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những
người đã chạy đua trước họ.
Các
Kitô hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo
dài từ các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn
luôn tìm lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh
nhân. Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những “anh hùng của đức
tin”, các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn
thấy lời hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt
mỏi cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: “Chúng
tôi ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc”.
Như
một phi công tiền phong đã nói: “Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn.
Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước
các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: “Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể
được thực hiện lại”.
Nhưng
đặc biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã
dẫn đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương
sáng cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.
Sứ
điệp ấy thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn
sàng chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây
không phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta
cùng nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất
dành cho tất cả mọi người.
12. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc
(Trích
dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại
một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa
những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo.
Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường
xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc
lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một
chiếc đèn dầu.
Bình
thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín
hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ
cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong
nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng
đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
“Thầy
đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”.
Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu
chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào
đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn
lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng
cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn
người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí
khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu
con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu
con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu
lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao
chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời
yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương,
đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần
gian.
Như
Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi
chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho
trần thế.
Như
Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn
đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối
của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như
Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành
chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu,
thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma
Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này
như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu
vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.
Lạy
Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để
chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh
lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn
đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.
13. Lửa
Có
một cô gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn
cảnh, đã sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của
cô thì bị mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng
đêm, cô phải la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.
Sau
một thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường,
khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được
nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ
Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong
vòng tay của Ngài.
Bài
giảng được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho
người đàn bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô
và cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Bài
giảng này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn
khóc. Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại
cuộc đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn
dắt. Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương
chúng ta với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là
chúng ta phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết
của Chúa:
-
Ta mang lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.
Theo
các thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của
Chúa Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống… Chính ngọn lửa này đã
làm phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa
nhân loại.
Thế
nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài
đã thắp lên trong cõi lòng mỗi người.
Chính
ngọn lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục
sinh, để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm
hồn cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt
khoát với dĩ vãng tăm tối của mình.
Với
chúng ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình
yêu của Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế
nhưng ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn
đèn thiếu dầu?
Chính
vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của
Ngài được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và
cuộc đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.
14. Lửa tình yêu – Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức
Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu
không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng
cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải
chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng
tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở
đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần
gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí
cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật
tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát.
Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở
một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an
cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an
của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an
là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên
Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả
những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình
an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng
các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con
người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng
bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa
tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia
đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính
dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta
tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã
có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng
tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với
Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con
phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người,
để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa
tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa
tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi
người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn
vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm,
theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng
được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa
Thánh Thần tình yêu
Thánh
Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều
người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên
Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian
nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ
mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên
Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem
tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù
ghét mình.
Tình
yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái
và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim
mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Theo bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?
2.
Dựa vào đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?
3.
Đức Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?
15. Suy niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Nếu bạn triệt để sống tinh thần Tin Mừng vượt mức bình thường của mọi người,
hoặc hăng say dấn thân làm việc cho Thiên Chúa, nhân loại và Giáo Hội đến nỗi
phải hy sinh rất nhiều, thì thái độ của những người chung quanh bạn thế nào?
khen ngợi hay chê bai? ủng hộ hay chống đối?
2.
Đức Giêsu nói: Ngài đến không phải để đem lại hòa bình mà là sự chia rẽ, điều
đó có đúng trong thực tế không? Xin đan cử vài trường hợp cụ thể.
Suy
tư gợi ý:
1.
Tâm lý chung của con người
Những
ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức,
chắc chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn
bè…) chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người
đã từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống
theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân,
hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên
can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng,
«mát»… thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời
khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như
trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu
sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và
phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông
bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà
chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.
2.
Tâm lý ấy bất lợi cho các ngôn sứ
Tâm
lý của con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật
là tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên
Chúa đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được
tiếng Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương,
đồng thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ
phải đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những
đồng đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc,
và nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những
điều mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những
người thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là
người thân thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không
thể vì sự chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể
làm gì khác hơn điều họ nghĩ.
Như
thế, người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:
–
Những hy sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm:
Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ
hơn người khác;
–
Những hy sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà
người ngôn sứ cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;
–
Những hy sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất
yêu thương mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình
dấn thân ở mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá
mức ấy có thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi,
phải lo lắng và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc
phải lo sợ cho sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân
cho Chúa nhiều hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải
phần nào chấp nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh
mục hay một tu sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các
bề trên mình, tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình
có nhiệm vụ chăm sóc?
3.
Chúa và ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ
Người
ta thường nghĩ Đức Giêsu hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm
hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất
đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức
Giêsu và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là
nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.
–
Đem lại bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm
buộc họ phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo
tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ,
phải sống cao thượng, anh hùng… nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo
tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính
lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.
–
Gây chia rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giêsu, của tiếng lương tâm, con người
sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải
hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự
đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng,
họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là
gây hại, gây chia rẽ…
Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng thời đánh
giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành
này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này,
mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng lương tâm mà
trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội… có sự chia rẽ, xung đột, tranh đấu,
chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng về những người
làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.
4.
Sự chia rẽ đến từ những nhận thức khác nhau
Do
cách nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác
nhau, mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa,
phục vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại
ở mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và
người ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này
không thể có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.
Có
những người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được
những giá trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ
trước mắt để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn
người sau nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những
giá trị đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng
theo đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ
nhau. Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt:
cái tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi…
Chẳng
hạn, Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng
lại đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt
và đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy
xung đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo
cho đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy» (Mt 10,37).
Vậy,
nhận thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước
tiếng gọi của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong
cùng gia đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau.
Tình trạng có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà»
(Mt 10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn
sàng chấp nhận điều này.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức
ngôn sứ của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách
ngôn sứ của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám
can đảm chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc
lương tâm con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình
thương. Xin đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát
trước bạo lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Kitô hữu buộc
con phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình.
Xin ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Kitô hữu trong
con. Amen.
16. Phân rẽ
Đoạn
Tin mừng hôm nay có lẽ đã làm cho chúng ta thắc mắc và tự hỏi:
-
Giới luật của Chúa là giới luật yêu thương. Suốt cả cuộc đời, Ngài không ngừng
cổ võ cho tình yêu, vậy tại sau Ngài lại bảo: Ta đến để đem sự phân rẽ.Vậy sự
phân rẽ ở đây phải được hiểu như thế nào?
Theo
thiển ý của tôi, Chúa Giêsu đã thực sự phân rẽ. Phải, phân rẽ giữa sự thiện và
sự ác, giữa ánh sáng và bóng tồi, để rồi từ đó đòi buộc chúng ta phải có một
chọn lựa căn bản, một thái độ dứt khoát, một lập trường minh bạch. Thực vậy,
chúng ta hãy nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon:
-
Trẻ nhỏ này sẽ nên như bia cho người ta chống đối.
Lời
tiên tri này đã, đang và sẽ còn được thực hiện. Ngài đã phân rẽ thế giới này
thành hai phe rõ rệt. Đang khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã thờ lạy Chúa
nơi máng cỏ Bêlem, thì Hêrôđê đã ra lệnh truy lùng và tàn sát Chúa.
Trong
cuộc sống công khai cũng thế, đang khi dân chúng say mê bước theo Chúa, thì bọn
luật sĩ đã tìm mọi cách để ám hại Ngài và chắc chắn họ đã được thỏa mãn khi
đóng đinh Ngài vào thập giá.
Giáo
hội hôm nay chính là hiện thân của Đức Kitô, chính là Đức Kitô được kéo dài qua
dòng thời gian, nên cũng phải đi theo con đường của Ngài và chịu chung cùng một
số phận với Ngài.
Đúng
thế, sau bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Hiện xuống, hàng ngàn người đã
tin theo Chúa và đã lập nên cộng đoàn Giêrusalen, thế nhưng các đầu mục Do Thái
đã tức tối, bắt giam và xét xử các tông đồ. Những giọt máu đào của Stephanô đã
khơi nguồn cho dòng máu anh hùng của các vị tử đạo trên toàn thế giới.
Giữa
lúc Giáo hội đang phát triển mạnh mẽ, thì ba trăm năm cấm cách dưới thờ các bạo
vương La Mã tưởng chừng như muốn nhận chìm con thuyền Hội Thánh… Tất cả những
sự việc ấy, một lần nữa đã chứng thực cho lời tiên tri của ông già Simêon:
-
Trẻ nhỏ này sẽ nên bia cho người ta chống đối.
Và
chân lý ngàn đời của Đức Kitô đã trở thành sự thật:
-
Thầy đến để đem sự phân rẽ.
Ngài
đã phân rẽ nhân loại này thành hai giới tuyến rõ rệt. Thế nhưng, điều quan
trọng đó là mỗi người chúng ta sẽ đứng vào giới tuyến nào? Theo Thiên Chúa hay
theo Satan, theo Đức Kitô hay theo thế gian?
Sống
là bơi ngược dòng nước và nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Sống là chiến đấu và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là cuộc chiến đấu giữa sự
thiện và sự ác, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
-
Sư thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Sống
là chọn lựa và một khi đã chọn lựa Đức Kitô, thì chúng ta phải can đảm chiến
đấu dưới bóng cờ của Ngài.
Chiến
đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô không có nghĩa là trở lại thời ký lạc hậu và tăm
tối, chưa có ánh sáng văn minh và những phương tiện hiện đại như ngày hôm nay.
Chiến
đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là là trở lại thời kỳ người ta biết vâng
phục thánh ý Chúa, biết sống chan hòa yêu thương và biết ra sức khử trừ tội lỗi…
Chiến
đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là phải biết nói không với những cám dỗ
của ma quỉ, phải biết nói không với những quyến rũ của trần gian. Thà chết, chứ
chẳng thà phản bội Chúa.
Hay
như hoàng hậu Blanche de Castille đã nói với con mình là vua thánh Louis như
sau:
-
Thà rằng mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng
mất lòng Chúa.
Cuộc
chiến đấu chống lại tội lỗi là một cuộc chiến đấu dứt khoát và không khoan
nhượng, một cuộc chiến đấu liên tục từng giây và từng phút, chẳng lúc nào được
ngơi nghỉ, chẳng lúc nào được nới lỏng vì ma quỉ sẽ không bao giờ ngủ trưa và
tội lỗi sẽ không bao giờ giải lao hay xả hơi, đúng như thánh Phêrô đã diễn tả:
-
Ma quỉ như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé.
Hơn
thế nữa, càng bị thử thách, chúng ta lại càng phải tin tưởng vào Chúa. Càng bị
vùi dập, chúng ta lại càng phải vùng dậy mạnh mẽ hơn. Trong cuộc chiến đấu này,
chúng ta phải luôn luôn tiến tới, bởi vì không tiến tức là lùi.
Vậy
cuộc chiến đấu cam go này sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả nào?
Tôi
xin thưa, đó là phần rỗi của lình hồn và niềm hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời,
như lời Ngài đã phán hứa:
-
Ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu rổi.
Hay
như một câu danh ngôn cũng đã xác quyết:
-
Nếu muốn được hạnh phúc trong một ngày, thì hãy mặc một chiếc áo mới. Nếu muốn
được hạnh phúc trong một tuần, thì hãy giết một con heo. Nếu muốn được hạnh
phúc trong một tháng, thì hãy thắng một vụ kiện. Nếu muốn được hạnh phúc trong
một năm, thì hãy lấy vợ, lấy chồng. Nếu muốn được hạnh phúc suốt cả một đời,
thì hãy trở nên người tử tế. Còn nếu muốn được hạnh phúc đời đời, thì hãy sống
và chiến đấu cho Đức Kitô.
Để
kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhận tư tưởng sau đây:
Hãy
là một ngọn lửa cho tình yêu Chúa được bừng cháy.
Hãy
là một chiếc ly thủy tinh cho ơn Chúa được tràn đầy.
Hãy
là một tấm gương cho hình ảnh Chúa được phản chiếu.
Dù
khi tôi cười, thì nụ cười ấy cũng sẽ nói về Chúa.
Dù
khi tôi khóc, thì những giọt nước mắt ấy cũng sẽ rơi vào lòng bàn tay của Chúa.
Hãy
là người chiến sĩ của Đức Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như qua mọi
cảnh huống thăng trầm của đời mình.
17. Tình yêu
“Thầy
đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy cháy bùng lên”.
Đó là lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Ngọn lửa Chúa Giêsu ném vào thế
giới là gì? Chúa muốn ám chỉ điều gì?
Trước
hết chúng ta biết: lửa là một hình ảnh rất quen thuộc và có nhiều ý nghĩa khác
nhau đối với nhiều dân tộc. Người Việt Nam quan niệm rằng: trái đất chúng ta
đang sống được cấu tạo bởi năm chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức là sắt, gỗ,
nước, lửa và đất. Theo văn chương Ba Tư, người ta tìm ra lửa trong một cuộc
chiến với con rồng. Chuyện kể rằng: một dũng sĩ Ba Tư đã dùng một hòn đá lớn
để ném con rồng, nhưng vì ném không trúng đích, hòn đá rớt trên một phiến đá khác
và tẹt ra lửa. Hầu hết các chuyện thần thoại đều kết luận: lửa là một món quà
quí giá Tạo Hóa đã ban tặng cho con người. Một số người xưa lại tưởng rằng: lửa
là một vị thần, nên đã tôn thờ gọi là “ Bái Hỏa”.
Nói
đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi
ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi,
nhưng cũng rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ
khác, nhưng nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta.
Vì thế, đâu đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao
cảnh giác: phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Ngoài
lửa vật chất ra, trong lòng mỗi người còn có một thứ lửa khác, là lửa dục, lửa
tham. Lòng dục và lòng tham đó còn bén nhạy và mãnh liệt mạnh mẽ hơn lửa vật
chất. Chẳng hạn: có phải mỗi khi trong lòng chúng ta muốn gì thì như có một sức
mạnh như lửa không ngăn cản nổi không? Hoặc là khi chúng ta bực tức điều gì,
thì có phải lòng chúng ta sôi sục lên không? Vì thế người ta nói: “Người gì mà
nóng như lửa”, hay “nóng như lửa đốt”… Nhất là khi chúng ta để cho lòng dục
lòng tham bùng lên, có phải nó sẽ gây nhiều tai hại không?
Trong
Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần nói đến lửa với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Trong Cựu ước, lửa được dùng để chỉ Thiên Chúa hiện diện, chỉ sự tinh luyện xấu
xa tội lỗi, và cũng ám chỉ hình phạt của Thiên Chúa. Trong Tân ước, cũng nhiều
lần nói đến lửa, đặc biệt thánh Giacôbê đã mô tả cái lưỡi của con người là một
ngọn lửa, vì tác dụng của nó có thể hại hơn cả lửa. Cái lưỡi ở đây ám chỉ những
lời nói độc địa, ghê gớm, chẳng hạn: một lời nói vu oan có thể giết hại cả một
con người. Một lời hành tỏi, nói hành nói xấu làm cho người khác phải buồn
phiền, đau khổ, mất ăn mất ngủ…
Đặc
biệt hơn nữa, ngọn lửa còn được dùng để diễn tả tình yêu. Đây chính là ý nghĩa
của ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu đến trần
gian như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ đó là tình yêu của Ngài. Tình yêu của
Ngài đối với loài người là ngọn lửa không bao giờ tắt, như trong kinh cầu Trái
Tim Chúa Giêsu có câu: “Trái Tim Đức Chúa Giêsu là lò lửa yêu mến hằng cháy”.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài đem ngọn lửa tình yêu từ trời xuống
trần gian. Lửa đó đã thắp lên tại Bêlem, lửa đó không ngớt thiêu đốt Chúa ba mươi
năm ẩn dật ở Nagiaret, lửa đó đã bừng cháy trong hồi thương khó để lan tỏa cho
hết mọi người. Nói rõ hơn, vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đem lửa tình yêu
xuống thế gian. Ngài muốn mọi người tiếp nhận được ngọn lửa yêu thương của
Ngài. Vì thế, Chúa nói: Ngài mong muốn biết bao ngọn lửa tình yêu của Ngài được
bùng cháy lên.
Chúa
Giêsu đem ngọn lửa tình yêu đến, vậy tại sao cũng trong bài Tin Mừng này Chúa
lại nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo
cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Lời này có ý nghĩa thế nào? Có mâu
thuẫn không? Chúng ta cần hiểu cho đúng.
Thật
sự trong ba năm giảng dạy, chúng ta thấy Chúa chỉ luôn kêu gọi mọi người sống
hiền lành khiêm nhường, đừng đố kỵ, ganh ghét, hận thù nhau, nhưng hãy thông
cảm tha thứ và yêu thương nhau. Chẳng thấy Chúa đem gươm giáo đến, cũng chẳng
thấy Chúa thúc đẩy người ta gây chiến, bất hòa, chống đối, chém giết nhau. Vậy
lời Chúa tuyên bố trên đây chúng ta phải hiểu rằng: Chúa chỉ là nguyên nhân, là
cái cớ để người ta chống đối những người tin theo Chúa, tức là vì Chúa mà người
ta chống đối chém giết nhau.
Nói
rõ hơn, Tin Mừng của Chúa được rao giảng, có người hoan hỉ đón nhận và có người
ra sức chống đối, nghĩa là Tin Mừng của Chúa đem lại an bình và yêu thương,
nhưng nó vẫn phải va chạm với thái độ của một số người chống đối. Những người
chống đối lại va chạm với những người theo Chúa, thế là có sự chia rẽ nhau. Đó
là trong xã hội. Ngay cả trong gia đình cũng có thể xảy ra sự chia rẽ, vì có
người theo và có người không theo Chúa. Đây là sự chia rẽ vì niềm tin, vì lối sống
đạo. Tình trạng này đã xảy ra thời Giáo Hội sơ khai, và vẫn xảy ra luôn mãi.
Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền
và đồng bào mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người
trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng.
Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình. Như vậy, hai
lời Chúa tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay, không mâu thuẫn mà bổ túc cho
nhau. Chúng ta phải rao giảng, phải đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người, dù
gặp hoàn cảnh nào cũng không được lùi bước, dù phải rướm máu hay đổ máu.
Chúa
Giêsu đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy
lên. Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Nếu con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu
con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu
con người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng
được ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Nhưng
chúng ta hãy nhớ: “Không ai có thể cho người khác cái mình không có”, nghĩa là
chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong
gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng
ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.
18. Dấu chỉ
Tin
Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ nếu chưa muốn nói là chói tai. Thường
chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về con người Giêsu và
nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các thiên thần đã không hát khúc ca hòa
bình trong ngày Ngài giáng sinh đó sao? Và trọng tâm giáo lý của Ngài không
phải là tình thương đó sao? Ngài chẳng đến để hòa giải giữa Thiên Chúa và loài
người, và giữa dân ngoại và Do thái đó sao? Thế mà hôm nay, trong đoạn vắn tắt
của thánh Luca, chúng ta thấy Ngài nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối,
và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm. Giải thích điều đó thế nào đây?
Chúng
ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi
mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan
trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo
Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo
Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Lời
thứ nhất loan báo Đức Giêsu đến “để ném lửa vào mặt đất”.
Lửa đây là gì? Dĩ nhiên lửa đây không phải là thứ lửa vật chất mà chúng ta dùng
để nhóm bếp hay dùng để đốt thuốc lá. Lửa ở đây phải được hiểu theo nghĩa tượng
trưng. Trong Cựu ước lửa tượng trưng cho quyền năng tối thượng, sự hiện diện
đáng sợ của Thiên Chúa. Đó cũng có thể là lửa phán xét của Thiên Chúa để thiêu
hủy những kẻ xấu và thanh luyện một số ít những người trung tín còn lại. Nhưng
đối với thánh Luca, trước hết lửa là biểu tượng của thần khí đã ngự trên Đức
Giêsu, đã xức dầu cho Ngài, đã sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo
khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, cho người đui được thấy, cho kẻ áp
bức được giải oan, loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Nhưng cũng chính vì đó
mà Đức Giêsu trở thành dấu chỉ của sự chống đối trong suốt cuộc đời của Ngài. Cuối
cùng khi sự bất hòa lên đến tột đỉnh Ngài đã bị các đối thủ giết chết. Đồng
thời lửa đó cũng là thần khí đến thiêu đốt các tông đồ trong ngày lễ Hiện
xuống. Chính ngọn lửa đó đã làm cháy tan sự lo lắng, sợ hãi trong các tông đồ
và dẫn các ông ra đi làm chứng cho Đức Giêsu. Dẫu cho trong sứ vụ làm chứng đó,
các ông gặp chống đối và phải thiệt thân.
Là
Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận thần khí qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Thì
chắc chắn chúng ta cũng sẽ trở nên dấu chỉ sự chống đối như Đức Giêsu.
Lời
thứ hai của Đức Giêsu giới thiệu “cái chết” của Người như một phép rửa, mà
Người sẽ bị nhận chìm trong đó để cứu rỗi dân Người:
“Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi
việc này hoàn tất”.
Từ
“Phép rửa”, theo nguyên nghĩa là “sự nhận chìm trong nước”. Vào thời của thánh
Luca, phép rửa không phải là mấy giọt nước xối trên trán như phép rửa của chúng
ta ngày nay. Người nhận phép rửa phải nhận chìm toàn thân vào trong một hồ
nước. Vì thế phải dịch câu nói của Đức Giêsu thế này: “Thầy phải được nhận chìm
trong một hồ nước”. Khi nói như thế, cho thấy Đức Giêsu đang nghĩ đến cuộc khổ
nạn, đến cuộc tắm máu,… hay chính xác hơn, Ngài đang nghĩ đến những dòng nước cuồn
cuộn khổ đau và chết chóc, không bao lâu nữa sẽ dìm chết Ngài. Đức Giêsu xao
xuyến nghĩ đến việc đó. Nhưng việc đó đối với Ngài là điều cần thiết như lời
Ngài nói “Thầy còn một phép rửa phải chịu…”. Đây là một công thức thông thường
để nói về cuộc khổ nạn khắc khoải ấy qua đó một ý định nhiệm màu được thực hiện.
Khi
nêu lên chủ đề “ơn ban bởi thần khí” và “phép rửa trong cái chết”, thánh Luca
đã cho thấy Đức Giêsu đã phải trả giá đắt biết bao cho sự cứu chuộc thế gian.
Phép
rửa này là một cuộc vượt qua bắt buộc đối với Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Vì
vậy Ngài hỏi ông Giacôbê và Gioan, khi các ông muốn làm lớn trong Nước của
Ngài: “Các con có thể uống chén mà Thầy sắp uống, chịu phép rửa mà Thầy sắp
chịu không?”
Bởi
đó muốn được sống lại với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng phải chịu dìm mình vào
cái chết của Người, nghĩa là chết đi cho thói hư, tật xấu và tội lỗi của mình.
Lời
thứ ba của Đức Giêsu quả quyết rõ ràng, những ai theo Người cũng sẽ phải gặp
thử thách trên bước đường đi của họ, và ngay cả trong gia đình của chính mình.
Hòa
bình là một điều tốt lành nhất mà người ta chờ đợi từ Đấng Messia. Trái lại,
lời giảng dậy và hành động của Đức Giêsu gây ra những phản ứng chống đối mạnh
mẽ. Đức Giêsu là một con người bị truy đuổi. Ngài cảm thấy điều đó ở xung quanh
mình. Nhưng thay vì từ bỏ hành động và sợ hãi, Ngài tiến thẳng về cái chết với
một lòng can đảm đáng khâm phục. Và Ngài loan báo cho các bạn hữu của Ngài,
chính họ cũng bị chống đối như vậy.
Như
những người đồng thời với Đức Giêsu, chúng ta mơ ước hòa bình và chúng ta muốn
hưởng trọn vẹn sự hài hòa yên tĩnh ấy, vốn là sự nghỉ ngơi của tâm hồn, của vợ
chồng với nhau, của cha mẹ với con cái, của con cái với cha mẹ, của môi trường
xã hội này với môi trường khác… Shalom, hòa bình là ước mong mà người Do thái
nói với nhau mỗi ngày. Thực tế, đó là lý tưởng tóm tắt tất cả những gì người ta
mong ước.
Thế
thì tại sao Chúa lại có vẻ đề cao sự chia rẽ? Chúa không phải là hòa bình của
thế giới sao?
Vâng,
Đức Giêsu chính là người mang lại hòa bình. Nhưng không phải là thứ hòa bình dễ
dãi. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế
gian ban tặng”. Có những nền hòa bình lừa dối, những sự an ninh ru ngủ và nguy
hiểm. Chúng chỉ dựa trên những thỏa hiệp, nhượng bộ, không dám bùng nổ vì sợ
thiệt hại cho thân thể, của cải, danh tiếng của mình. Hòa bình kiểu đó chỉ che
đậy những chống đối trầm trọng, ẩn chứa đầy sóng ngầm, che dấu chiến tranh lạnh,
hay duy trì những phần tử đặt cạnh nhau mà không cảm thông lẫn nhau. Tất cả
những điều đó là sự trái ngược của hòa bình. Hòa bình đích thực chỉ có thể đạt
được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức Giêsu là
bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống chung, hoặc
huyết tộc, một gia đình, mà đáng lẽ sự đoàn kết được coi như điều hiển nhiên
như năm ngón tay trong một bàn tay. Đứng trước việc Đức Giêsu đến, không còn gì
không bị đảo lộn.
Trong
cuộc đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là
một sự hiện diện trung lập vô hại, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức
Giêsu là một loại thuốc nổ, một thứ diêm sinh, là thứ lửa cực nóng thiêu đốt,
thanh luyện, biến đổi cuộc sống con người và thay đổi bộ mặt thế giới. Lửa thần
linh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa tội cũng phải
bừng lên và hoạt động như vậy. Ánh lửa thiêng ấy phải thay đổi, biến chúng ta trở
thành các chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo
Chúa và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải có lòng can đảm và kiên
trì. Bởi vì, thường khi nó khiến chúng ta rơi vào tình trạng sống khác với
những người thân yêu và môi trường sống của chúng ta. Không phải vì giáo huấn
của Chúa xấu hay dở, nhưng bởi vì nó đi ngược dòng đời, nó chống lại mọi cách
suy tư và hành xử theo tính toán ích kỷ tự nhiên của con người. Do đó, tin Chúa
và bước theo Chúa là một cuộc kháng chiến trường kỳ và đầy gian khổ.
Nếu
đức tin nơi Chúa là một chọn lựa đầy yêu sách, thì xin Chúa làm cho đức tin ấy
có thể, bởi ơn của thần khí Chúa: “Lạy Chúa, giữa lòng thế giới, xin hãy
đốt lên ngọn lửa của thần khí Chúa”.
19. Ném lửa
“Thầy
đến để ném lửa trên mặt đất… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem
sự chia rẽ”.
Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa nghe đến từ Đức Giêsu! Chúng ta không muốn
chờ đợi Người dùng lửa và gươm (sự chia rẽ). Người cũng không muốn. Khi Giacôbê
và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh từ trời xuống trên một ngôi làng
người Samari, Người nói với hai ông ấy rằng họ không biết điều họ nói. Và khi
Phêrô rút thanh gươm ra trong vườn cây dầu, Đức Giêsu nói với ông hãy cất gươm
đi.
Đức
Giêsu không đến để gây ra xáo trộn hoặc làm cho các gia đình tan vỡ. Nhưng
thỉnh thoảng điều ấy đã xảy ra. Trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, hoán cải
theo Kitô giáo hầu như dẫn đến việc bị gia đình từ bỏ, do đó người trở lại đạo
phải chọn lựa giữa Đức Kitô và gia đình mình.
Rõ
ràng khi Đức Giêsu nói về việc ném lửa và gây chia rẽ từ ngữ của Người không
được dùng theo nghĩa đen. Tuy nhiên những lời ấy có ý nghĩa thực tế đối với
Người. Đức Giêsu hiền lành nhưng không có nghĩa Người yếu đuối. Khi hoàn cảnh
đòi hỏi, Người cũng rất quả quyết như khi Người đuổi những con buôn ra khỏi đền
thờ.
Những
lời ấy cũng thể hiện những điều rất mạnh mẽ trong giáo huấn của Người. Giáo
huấn của Người gây ra chia rẽ. Người dạy rằng Vương quốc của Thiên Chúa mở ra cho
mọi người, thánh nhân và người tội lỗi, người Do thái và dân ngoại. Điều này
đưa đến sự xung đột của Người với cơ chế tôn giáo của thời đó. Người gọi các
kinh sư và người Pharisêu là những kẻ giả hình và những người mù dẫn đường. Họ
gọi Người là một kẻ làm loạn và một người bị quỉ ám.
Nếu
Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những điều “dễ nghe”, hẳn
Người đã trở thành một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Người đã chọn cách
làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối. Lời
Người làm tổn thương một vài người và làm những người khác tức giận. Những lời
Người nói với người nghèo khác với những lời Người nói với người giàu. Những
lời Người nói với người tội lỗi khác với những lời Người nói với Pharisêu.
Chúng ta sẽ phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu
dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những khác nhau giữa người
giàu và người nghèo, giữa người có đặc quyền và người cùng khổ. Một Tin Mừng
nhạt nhẽo như thế không thể trở thành men làm dậy bột thế gian.
Có
một xu hướng “thuần hóa” Tin Mừng, giản lược nó vào những lời nói hay đẹp và
những kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất
hết sức mạnh, muối mất hết mùi vị, ánh sáng trở nên mù mờ.
Các
Kitô hữu không nên ngạc nhiên nếu Tin Mừng chia rẽ người ta. Ý thức về công lý
đã đưa Người đến chỗ xung đột với những người bất lương. Lòng khoan dung của
Người khiến Người phải xung đột với người có đầu óc hẹp hòi và tin tưởng mù
quáng. Ánh sáng càng sáng tỏ thì bóng tối mà nó đẩy lùi càng thêm tăm tối.
“Khi
tôi cho người nghèo lương thực, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi hỏi
tại sao người nghèo không có lương thực, họ gọi tôi là một người cộng sản”. Cố
Tổng giám mục Helder Camara, người chiến sĩ đấu tranh cho người nghèo ở Braxin
đã nói như thế.
Đức
Giêsu nói rằng Người đến để thắp lửa trên mặt đất. Đây chỉ là một hình ảnh, một
ẩn dụ nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Đó là một biểu tượng của sự phán xét và thanh
luyện. Lửa đốt cháy những gì vô ích, và thanh lọc những gì còn ô uế.
Sứ
điệp Tin Mừng là một ngọn lửa thanh luyện, nó là men cho xã hội và thế gian.
Ngọn lửa ấy không chỉ được đốt lên mà còn được giữ gìn. Chúng ta, những môn đệ
của Đức Giêsu là những người chăm sóc giữ gìn ngọn lửa ấy.
20. Sứ mạng của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
Nguyện
ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng
cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế,
chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng
đắn.
1.-
NGỮ CẢNH
Những
lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật
về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài
đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53).
Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông
chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã
gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.-
BỐ CỤC
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2)
Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.-
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
-
ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được
dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để
biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24;
Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa:
Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh
Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh
luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
-
Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây
có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn
Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên
Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
-
lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn
tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi
“khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao
mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
-
hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình /
bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48;
10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho
hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn
sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
-
cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của
câu này.
4.-
Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
*
Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong
Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném
lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức
Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa
đó bùng lên?
Có
những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã
đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi”
(Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng
còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn
tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in
terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng
Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt
đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch
theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut
accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB,
CGKPV…
Trong
Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện
(Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để
xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có
nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức
Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy
Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh
Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x.
3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự
chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù
có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của
Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn
tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho
anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng
trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”),
chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần
là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự
thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy
nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa
trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề
tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn
tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì?
Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang
bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi
với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người
và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép
rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không
mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ
mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói
đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu
gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con Người
đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng
Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa.
Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người
không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu,
làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh
và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là
ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy.
Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách
giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có
thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”.
Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người
loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng
thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn
đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người
ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng
góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự
dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi
sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành
động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh
đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống
động.
*
Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong
cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa
Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở
thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và
các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân
rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón
tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với
nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm
đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình,
nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một
phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như
Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa”
mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận
ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các
ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết
cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết
cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào
lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc
tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội
lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào
nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an
với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với
Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra
chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa
thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai,
con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách
ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên
chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6).
Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những
người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều:
“cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách
hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai
quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống
lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm
kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng
chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường
cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+
Kết luận
Những
lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu
xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng
cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà
Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài
hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao
độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy
sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi
tìm sự hài hòa.
5.-
GỢI Ý SUY NIỆM
1.
Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con
người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để
Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
2.
Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc
khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận
ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những
phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống
chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu
đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải
chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc
sống chúng ta.
3.
Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh
Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người
Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng
đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy
chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24).
Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ
mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
4.
Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại
Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa
(x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng
một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn
ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.
21. Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật
Ngọn
lửa của Đức
Giêsu ...
Chắc
có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế
Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ
mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động,
ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia - Hy-lạp - quê hương của Olympic.
Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao
cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn
đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước,
và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên
lễ đài.
Cũng
trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài
được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic.
Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu
khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ
được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh
thần yêu thương và thông cảm.
Xin
mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức
Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của
Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn
lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra
khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa
đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người
đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong
tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả
thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong
Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức
Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi
cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát
trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên:
"Mọi sự đã hoàn tất."
Đức
Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó,
Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn
lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức
Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy
đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết
về Tin Mừng cứu độ.
Và
rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp
mọi nơi. Đã có biết bao con
người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn
lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.
...
đến các Kitô hữu
Ngọn
lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ.
Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng,
với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa
ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động
trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn
và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp
sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.
Nhưng
ngọn lửa ấy là gì?
Mọi
người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức
Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu
độ.
Mỗi
người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà
Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi
ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng
thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức
Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi
xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho
nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính
cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem
ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan
những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu
đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho
ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.
Cũng
phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức
Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình
thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho
con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa
cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem
cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng
lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng
này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu
đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức
Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một
ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa
bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức
Kitô đã làm.
Trở
lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những
người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được
vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức
Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao
ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của
mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang
sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.
Liệu
chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức
Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Bình
an từ cuộc chiến đấu
Trong
suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức
Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con
chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế.
Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả
quyết: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy
bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ" (Lc
12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến
chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?
Để
trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá "tầm thường" về
Đức Giêsu. Bình an, tình yêu ... Đúng,
nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải
liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại,
nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi
vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng
có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức
Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu
của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã
có lần Đức Giêsu cho biết
rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua
cửa hẹp.
Bình
an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an
của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức
Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng.
Người đi theo Đức Giêsu là người
phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi
theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ
tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức
Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy
niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức
Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.
Do
đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn
không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích
cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.
Cuộc
đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa
những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi
bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được
bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức
Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Ôi
Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế
nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.
Khi
nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo
này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.
Thiên
Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.
Thiên
Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để
hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức
Kitô.
Họ
đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác
thịt với thần trí.
(theo
P. Claudel.)