Lời Chúa cntn 18c _ các bài suy niệm

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Gv. 1,2; 2,21-23; Cl. 3, 1-5.9-11; Lc. 12, 13-21
MỤC LỤC 


1. Kính sợ Thiên Chúa

Như chúng ta đã biết vua Salomon được coi như là người khôn ngoan nhất ở đời, bởi vì ông đã chỉ xin Thiên Chúa sự khôn ngoan mà thôi. Và Ngài đã cho ông được toại nguyện. Theo ông thì tất cả những cái chúng ta có đều là hồng ân của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi chúng ta hưởng dùng những niềm hạnh phúc ấy chúng ta phải biết đem lòng kính sợ Thiên Chúa. Chỉ người nào kính sợ Thiên Chúa mới thực sự hạnh phúc. Và đầu mối của sự khôn ngoan cũng chính là lòng kính sợ Thiên Chúa.
Đây cũng là điều Đức Kitô muốn nói với chúng ta qua dụ ngôn người phú hộ. Ông ta không phải là kẻ hà hiếp bóc lột người khác, cũng không phải là kẻ gian lận hay có bất cứ hành vi xấu xa nào. Ông ta biết làm ăn và trở nên giàu có. Ông ta đáng được hưởng công lao do tay mình làm ra. Thế nhưng ông ta chỉ thiếu có một điều, đó là lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông ta không ý thức được rằng hạnh phúc mà ông đang được hưởng là một hồng ân của Chúa. Hồng ân này chỉ được ban cho ông đời này mà thôi, nghĩa là ông ta sẽ chẳng thể đem được những thứ ông đang có sng thế giới bên kia.
Trong dụ ngôn này, chúng ta không thấy Chúa Giêsu gợi ý nên dùng của cải dư thừa làm gì, nhưng trong toàn bộ Tin Mừng, nhất là Tin Mừng theo thánh Luca, chúng ta thấy rõ khuynh hướng của Ngài là luôn khuyên chúng ta chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người khác, thậm chí Ngài còn đòi hỏi những ai muốn theo làm môn đệ Ngài, phải bán tất cả tài sản mà phân phát cho người nghèo. Kết thúc dụ ngôn người quản gia bất lương, Ngài bảo các môn đệ: Hãy dùng tiền của bất chính mà mua bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư vĩnh cửu.
Chúa Giêsu không khinh ghét của cải bởi vì chính Ngài cũng đã lao động để làm ra của cải, nhưng Ngài không bao giờ để cho của cải chi phối, thống trị mình. Của cải vật chất là những phương tiện cần thiết cho cuộc sống của mỗi người, nó cũng là phương tiện để chúng ta thực hành lòng bác ái yêu thương. Nó chỉ trở nên xấu xa bất chính khi vì nó mà người ta chà đạp, bóc lột kẻ khác, hay là khi người ta sử dụng nó một cách ích kỷ, không đem chia sẻ cho những kẻ khó nghèo. Chúa Giêsu đã từ chối không làm phép lạ hoá đá thành bánh, nhưng Ngài lại không do dự làm cho bánh hoá nhiều để nuôi những kẻ đến nghe Ngài giảng dạy.
Trong thế giới chúng ta đang sống, không thiếu gì những ông phú hộ và những người ăn mày như Lagiarô. Những ông phú hộ là những kẻ làm giàu cho mình bằng đủ mọi mánh lới thủ đoạn, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Trong khi đó hơn ba phần tư nhân loại ngày càng nghèo đói thêm. Vấn đề không phải là bảo những người giàu đừng làm giàu nữa, vì đó là điều không thực tế, nhưng là đòi hỏi họ phải chia sẻ những của cải dư thừa mà họ đang tích luỹ nhờ xương máu của chính những người nghèo, để giúp người nghèo khỏi chết đói.
Vấn đề còn là làm sao cho người giàu hiểu rằng bao nhiêu của cải họ đang khư khư nắm giữ cho mình sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay họ, khi họ nhắm mắt ra đi. Bởi vì chúng ta vào đời với hai bàn tay trắng, thì chúng ta cũng sẽ ra đi với hai bàn tay trắn, không còn khả năng nắm giữ nổi dù chỉ một hạt lúa mà thôi.


 

2. Tiền bạc và giàu sang

Có người đã kết án: Kitô giáo là đạo của những người giàu và Giáo Hội thì chạy theo tư bản! Vậy đâu là thái độ của Chúa Giêsu và lập trường của Giáo Hội đứng trước vấn đề của cải và giàu sang? Như chúng ta đã biết Chúa Giêsu muốn sống thật nghèo hèn. Sinh ra không nơi ẩn trú, lớn lên không chốn tựa đầu và chết đi một cách trơ trụi trên thập giá, thế nhưng, Ngài cũng đã chấp nhận quyền tư hữu.
Thực vậy, trong 10 giới răn được công bố có giới răn thứ 7 và thứ 10 cấm chúng ta không được ước ao, lấy hay giữ của người khác một cách trái phép. Với chàng thanh niên giàu có, trước hết Ngài đã phán: Hãy tuân giữ những giới luật. Sau đó, Ngài thêm: Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán tất cả những gì con có, phân phát cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra thương xót những kẻ nghèo hèn và cùng khốn, tuy nhiên Ngài cũng có những người giàu ở bên cạnh, chẳng hạn như Giakêu, như Giuse Arimathia. Ngài cũng đã vào nhà ông Simon, một người biệt phái giàu có.
Tuy nhiên Ngài đã cảnh giác: Sự giàu sang là một nguy hiểm cho phần rỗi linh hồn và người giàu có khó mà vào được Nước Trời. Ngài nói rằng khó chứ không bảo rằng không có thể. Theo Ngài, sự giàu có, hay nói đúng hơn lòng đam mê tiền bạc là như một bụi gai, bót nghẹt hạt giống lời Chúa được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta.
Ngài không kết án sự giàu sang chính đáng, được tạo nên bởi mồ hôi nước mắt, bởi công lao vất vả của chúng ta. Điều Ngài kết án đó là lòng đam mê tiền bạc một cách mù quáng, đến nỗi quên mất cả Thiên Chúa và linh hồn của mình. Chính trong chiều hướng này mà Ngài đã nói: Khốn cho những kẻ giàu sang, vì không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa, lại vừa làm tôi tiền bạc được. Ngài cũng căn dặn chúng ta về việc sử dụng tiền của: Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu. Đồng thời Ngài đặc biệt nhắc bảo chúng ta hãy thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng, trộm cắp không thể lấy đi và mối mọt không thể gậm nhấm… bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi. Và như thế dưới mắt Chúa Giêsu thì phần rỗi linh hồn quý trọng hơn mọi của cải vật chất.
Tiếp đến là Giáo Hội, noi gương Thầy chí thánh, Giáo Hội không kết án của cải tiền bạc nhưng kết án thói xa xỉ phung phá, lòng đam mê tiền bạc quá đáng, cũng như sự keo kiệt và cõi lòng chai đá. Theo giáo huấn của Giáo Hội, thì Thiên Chúa là chủ mọi tạo vật. Vì thế, con người sẽ phạm tội nếu không sử dụng của cải trong tinh thần công bằng và bác ái. Giáo Hội không ngừng khơi dậy một tình thương: Hỡi người người giàu hãy than khóc vì những tại hoạ đổ xuống, của cải sẽ mục nát, vàng bạc sẽ bị han rỉ, tiền công của thợ gặt mà các ngươi đã gian lận đang kêu lên và tiếng kêu ấy đã thấu tới Chúa. Các thánh giáo phụ cũng đã dùng những lời lẽ gay gắt để chỉ trích những kẻ cho vay nặng lãi và những kẻ bóc lột người nghèo. Rồi các Đức Giáo Hoàng gần đây không ngừng cổ võ cho một sự công bằng xã hội. Đức Thánh Cha Léo XIII trong thông điệp “Tân sự đã bênh vực thợ thuyền và xác định những quyền lợi của giới công nhân. Tiếp đến, các Đức Thánh Cha Piô XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI cũng đi vào con đường đó, các ngài lên tiếng phải cải tạo xã hội dựa theo công bằng và tình thương Kitô giáo. Như thế chúng ta thấy cả Chúa Giêsu lẫn Giáo Hội đều không phải là những người chạy theo tư bản. Mặc dù bênh vực quyền tư hữu, nhưng luôn kết án lòng đam mê tiền bạc, hoang phí tiền của và cư xử bất công đối với những người nghèo. Vì thế, hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước đã. Tiền bạc chỉ là phương tiện, chứ không phải là mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta.

 

3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước mạnh dùng sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những nước giàu dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh tế trở thành một sức mạnh. Tiền bạc trở thành một vũ khí lợi hại. Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để trở nên giàu có. Thế mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược chiều với xã hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ thấy.
1) Chúa Giêsu xuống trần gian không nhằm giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người đã trả lời: “Ai đặt ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải để giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc giữa con người với nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất trong cuộc sống.
2) Chúa Giêsu muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống lại việc làm giàu, tích lũy của cải. Người chỉ muốn cho việc tích lũy của cải có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong vấn đề cơm, áo, gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và “être” (là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi chất lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì ở ngoài, không làm thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo thành bản thân tôi, gắn bó thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu muốn đời nghèo khổ, không của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của Người không có giá trị. Giuđa chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không phải vì thế mà ông có giá trị hơn người khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần quần áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị hoàng đế đến thăm hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ cần nhà vua đứng tránh ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong hai người ấy, ai cao quý hơn, ai đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quý hơn, sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt được chất lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến phương tiện thành mục đích.
3) Chúa Giêsu mở tầm nhìn vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích. Có được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm nhìn của ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời này. Lời Chúa phán: “Hỡi đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sửa đó sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà hưởng thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà chịu phán xét. Chúa không đánh con người theo khối lượng những gì họ có, nhưng đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá của Chúa, những gì ta thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một tầm nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hay nâng cao cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi Thiên Chúa, kho tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm. Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải có thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về Lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều thứ khác cao quý hơn?

 

4. Những kho lớn hơn

(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cái kho là quan trọng. Kho bạc quan trọng đối với một đất nước. Kho lẫm cần cho người làm nghề nông.
Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng. Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng.
Mọi lợi nhuận đều thu vào kho.
Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng.
Sau một vụ mùa bội thu, mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình, vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa. Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này: phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn, rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó, khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm.
Khi nhà kho đã an toàn thì tương lai của ông vững vàng ổn định. Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm. Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống. Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai. Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc. Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34). Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy.
Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở. Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác. Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho. Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho.
Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan, nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya, hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến. Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả. Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ. Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.
Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho. Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên, chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới. Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này.
Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu. “Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).
Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình, để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi, nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân. Đừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.
Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa là người biết mở kho để trao đi và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại. Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa, chúng ta thấy kho của mình trống trơn vì vừa mới cho đi tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đất nước chúng ta phải đối diện với nạn tham nhũng. Đất nước nghèo đi trong khi kho của một số người phình ra. Theo ý bạn, tôn giáo giúp gì để đẩy lui nạn tham nhũng?
Tiền bạc là điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng là điều nguy hiểm. Theo ý bạn, đâu là những nguy hiểm do tiền bạc của cải đem lại?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

5. Nghệ thuật làm giàu – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc. Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thỏa, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai họa gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giàu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giàu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12,33)
Quả thật, một kho lẫm dù có được khóa chặt đến đâu cũng không ngăn cản được kẻ trộm. Nhưng chỉ có những tài sản đích thực mà không ai có thể đánh cắp, chính là những tài sản thiêng liêng.
Thực ra, khi người giàu chia sẻ của cải cho kẻ nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, những ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm”“cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết: “Những người giàu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Có thể nói, chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta thu lợi quá mức trên sức lao động của kẻ khác.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta giữ lại đồ đạc tiện nghi mà chẳng bao giờ dùng đến.
Chúng ta đánh cắp của người nghèo khi chúng ta ăn chơi, mua sắm như ném tiền qua cửa sổ.
Thánh Basiliô không một chút ngần ngại nói với chúng ta rằng: “Tấm bánh mà bạn giữ lại là của người đói khổ, chiếc áo mà bạn cất trong vali là của kẻ trần trụi”.
Lạy Chúa, Chúa để 80% của cải trên thế gian này vào tay 20% những người giàu có, là để họ biết chia sẻ cho những người thiếu thốn, là để họ “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”, chứ không phải để biến họ thành những kẻ đánh cắp.
Xin dạy chúng con chỉ nên giữ lại những gì cần thiết, và biết san sẻ hồng ân của Chúa cho mọi người, để thế giới này không còn cảnh bất công, nghèo đói, nhưng sẽ là một thế giới công bằng và yêu thương. Amen.

 

6. Tích trữ kho tàng trên trời

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi ông đang ở có một người nông dân nghèo nhưng lòng đầy tham lam. Ngày nọ, vị lãnh chúa nói với người nông dân: "Tôi sẽ cho anh tất cả những phần đất nào mà anh có thể chạy bao quanh, tính từ khi mặt trời bắt đầu mọc cho đến khi mặt trời lặn. Nếu anh trở về đến điểm xuất phát trước khi mặt trời chìm khuất sau đồi, thì anh sẽ làm chủ tất cả những vùng đất anh đã chạy bao quanh. Nếu không, anh chẳng được gì."
Người nông dân nghe lời hứa đó mà tưởng như mơ! Đúng là một cơ hội ngàn vàng. Thế là đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi rặng núi, anh bắt đầu cắm đầu cắm cổ chạy trối chết. Trước hết, anh chạy bao quanh một khu rừng già đầy gỗ quý. Thế là chỉ trong buổi sáng, anh đã trở thành một chủ nhân của hàng trăm mẫu rừng.
Mặt trời lên cao, nắng như đổ lửa, mồ hôi đầm đìa, nhưng anh vẫn tiếp tục chạy phăng phăng bao quanh đồng lúa phì nhiêu bao la bát ngát. Thế là đến trưa, anh đã là người điền chủ giàu có nhất vùng.
Mặt trời sắp lặn, chỉ cách ngọn đồi chỉ chừng một con sào, anh lại thấy một con suối lớn nước chảy lênh láng tràn bờ. Anh tự nhủ lòng: Nếu ta không làm chủ được con suối nầy thì toàn bộ cánh đồng mà ta vừa thu tóm được phải đành bỏ khô. Thế là anh dồn hết hơi tàn lực kiệt, quyết chạy bao quanh con suối.
Cuối cùng, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, anh thở hồng hộc như con bò bị thọc tiết... Mặt trời bắt đầu lặn, chỉ còn là một vầng bán nguyệt đỏ ối sắp chìm xuống đỉnh đồi. Anh phải cố chạy nhanh cho tới nơi xuất phát, nếu không kịp thì chỉ còn là hư không.
Và rồi khi chỉ còn mươi bước nữa là tới đích, anh ngã gục xuống. Vỡ tim!
Thế là cuối cùng, anh chỉ còn được hưởng vài thước đất để chôn vùi thân xác!
(Phỏng theo câu chuyện nhan đề: "Chỉ cần ba tấc đất" của Văn Hào Leon Tolstoi)
* * *
Người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay cũng học theo sách đó.
Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông "mới nghĩ bụng rằng: 'Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!' Rồi ông ta tự bảo: 'Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!' Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: 'Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?' Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó."
Xét cho cùng, trong thế giới hôm nay, những hạng người ngốc nghếch như vậy không hề thiếu.
Trong tôi vẫn có lòng tham của người nông dân ngu dại trên đây, hằng thúc đẩy tôi thu tóm, ky cóp cho thật nhiều, không bao giờ thấy đủ.
Trong tôi cũng có một gã phú hộ dại khờ, tìm cách cơi nới thêm kho lẫm để chất cho đầy của cải chóng qua.
Nếu chỉ biết thu gom, ki cóp của cải vật chất đời nầy, chỉ biết lo cho nhu cầu vật chất mà lãng quên linh hồn thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe của người phú hộ đáng thương kia.
Tất nhiên là mỗi người cũng cần phải tạo thêm nhiều của cải để bảo đảm cho đời sống phần xác, cho mình và cho xã hội, nhưng nếu chưa tạo được kho báu thiêng liêng thì khác gì "dã tràng xe cát biển đông"!
Trái lại, nếu hôm nay chúng ta tích trữ thật nhiều của cải thiêng liêng, trở nên người giàu có trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta có thể an tâm tự nhủ lòng mình: Hồn ta ơi, hãy hoan lạc và mừng vui, vì ngươi đã có một kho báu trên trời. Mai đây tha hồ vui hưởng!

 

7. Cuộc đời là phù vân

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc đời là phù vân. Đó là một chân lý mà mỗi người chúng ta đều nhìn nhận. Không có gì trong cuộc đời là bền vững, là vĩnh cửu. Tất cả đều tàn phai theo thời gian. Tiền tài, danh vọng và sắc đẹp rồi cũng sẽ có một ngày vuột ra khỏi tầm tay của chúng ta. Thế nhưng, mỗi người lại sống cuộc đời gọi là phù vân này rất khác nhau. Có người nghĩ cuộc đời quá ngắn nên tranh thủ hưởng thụ bằng cuộc sống ăn chơi sa đoạ. Có người lại "tối mày tối mặt" để tích lũy cho mình thật giầu có. Có người tìm công danh. Có người trau truốt cho sắc đẹp. Có người đi tìm tình bạn. Có bao nhiêu người là có bấy nhiêu cách sống khác nhau.
Vua Salomon đã hiểu ý nghĩa cuộc đời là phù vân, nên ông đã thốt lên rằng: "Phù vân rất mực phù vân, khó nhọc vất vả thế rồi phải trao lại cho kẻ không vất vả hưởng".
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy hai nhân vật tiêu biểu cho hai hạng người: tham quyền và tham tiền. Kẻ tham quyền thì dùng quyền bính để ăn chận tài sản người khác. Kẻ tham tiền thì lo vun quén cho đầy kho. Mẫu số chung của cả hai loại người này là ích kỷ, chỉ lo cho bản thân và không màng tới tha nhân, cho dù đó là người thân của mình. Người anh đã dùng quyền bính để khước từ việc chia gia sản cho người em. Người phú hộ vì tham tiền nên chỉ lo nghĩ đến việc tích góp của cải đến nỗi không còn thời giờ dành cho tha nhân. Xem ra cuộc đời của họ không có hạnh phúc vì họ không có tình bạn. Họ coi tha nhân là kẻ thù, là kẻ đang tranh giành địa vị và tiền tài với mình. Họ không cần tình bạn, họ chỉ cần tiền. Họ không cần người thân, họ chỉ cần lợi dụng người khác cho tham vọng của mình. Sống không có tình bạn như cây xanh thiếu lá, chỉ trơ trụi và khô cần. Cuộc đời của họ sẽ không có niềm vui và hạnh phúc. Cuộc đời của họ càng không có hậu. Vì họ không có gia sản để dành cho đời sau là những việc lành phúc đức trong cuộc đời hôm nay.
Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay vẫn còn đó những con người như thế. Tiền và quyền luôn làm xa lìa tình người. Tiền và quyền luôn làm cho con người biến chất đến tha hoá không còn tính người. Xã hội vẫn đầy dẫy những bất công và bất nhân. Bất công vì kẻ đổ mồ hôi lao nhọc mà vẫn đói nghèo xác xơ trong khi đó lại có kẻ "ngồi nhà mát ăn bát vàng". Các quan tham từ nông thôn đến thành thị đều rủng rỉnh bạc vàng còn dân lành lại lầm than cơ cực. Bất nhân vì thiếu tôn trọng lẫn nhau, đến nỗi coi mạng người như phương tiện để khai thác trục lợi. Xã hội hôm nay cho rằng sống là để tranh đấu. Tranh đấu nên có kẻ được người thua. Tranh đấu nên phải giành giựt lẫn nhau, nhanh thì được chậm thì mất. Cuộc sống trở nên một bãi chiến trường. Kẻ thắng thì cười. Người thua thì khóc. Tất cả như những con thiêu thân đang lao vào cuộc chơi mà không hề biết nguy hiểm đang chờ trước mắt, cái chết gần kề mà lời Chúa hôm nay nhắc nhở: "Hỡi kẻ dại khờ, nội trong đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi thì những gì ngươi sắm sẽ thuộc về ai?".
Có ai đó đã ví von về cách tìm kiếm và sử dụng của cải đời này như sau:
"Người công nhân thì đổ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó đi vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giầu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó".
Về phần tôi thì dùng nó, có lẽ đó là sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: "Hãy làm giầu trước mặt Chúa". Hãy sử dụng tiền bạc và quyền bính để mang lại lợi ích cho xã hội và cho con người. Đừng dùng nó cho bản thân của mình. Cũng đừng xem nó như cứu cánh đời mình. Của cải và danh vọng không thể sánh với con người nên đừng vì nó mà bán rẻ lương tri, đừng vì nó mà đánh mất tình người, đừng vì nó mà lãng quên tình Chúa. Tất cả chỉ là phù vân. Sự sống đời sau mới là vĩnh cửu. Và sự sống vĩnh hằng không thể mua bằng tiền bạc, càng không thể tìm kiếm bằng vũ lực mà bằng lòng nhân nghĩa. Lòng nhân nghĩa đối với đồng loại bao hàm tinh thần yêu thương và phục vụ. Yêu thương nên sẵn lòng dấn thân và phục vụ vì lợi ích của tha nhân. Yêu thương nên sẵn lòng nhường nhịn và chia sẻ lẫn nhau. Yêu thương nên sẵn lòng hy sinh bản thân mình để tìm niềm vui trong phục vụ tha nhân.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết dùng gia sản là tài năng và khả năng của mình để mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Amen.

 

8. Đồ dại! – André Sève.

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Tôi lắng nghe người dại này đang suy tính như thể ông là người duy nhất trên thế giới và hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình: Tôi… tôi… Những kho lẫm của tôi, lúa gạo của tôi… Tích trữ, lợi dụng cuộc sống lâu dài, luôn mãi. Ông ta điên, ông ta làm tôi ghê tởm. Ông ta là người duy vật đến độ đó! Ăn uống phủ phê, từ chối nhìn xa hơn. Tôi vỗ tay khi Chúa la ông ta: “Đồ dại!” Thật là đúng. Nhưng thế giới đã trở nên một xã hội tiêu thụ trứ danh. Xã hội này có sản sinh loại người dốt đặc cán mai này hay không? Sự “Khắc Khổ Tây phương dù sao thì cũng là sự dồi dào và tôi không thoát được sự tìm kiếm an ninh và tiện nghi như tất cả mọi người. Những ý tưởng của tôi là gì? Sức khoẻ, lương bổng, căn nhà phải trả góp, cái máy truyền hình phải đổi, chiếc xe hơi, số tiền hưu…
Những ý tưởng xấu chăng? Đúng, nếu đó là những ý tưởng hoàn toàn cai trị tôi, xua đuổi dần những ý tưởng Kitô lớn lao của tôi: Yêu mến Chúa, thay đổi thế giới, hiến thân cho anh em, dùng thì giờ để cầu nguyện.
Chúng ta là một chiến trường thật sự đối với hai loại ý tưởng độ lượng và ích kỷ, tin tưởng và duy vật. Khi Chúa thấy chúng ta đang sa lầy trong những dự định trong đó chỉ có vấn đề tham vọng và tiện nghi, làm sao Ngài không la lên “Đồ dại!” được? May cho người vừa nghe tiếng la này đúng lúc! Bởi vì có câu tiếp theo: “Đêm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại”. Điều đó có lẽ không gây ấn tượng cho chúng ta. Toàn là thấy những người khác chết mà thôi. Tuy nhiên, rồi chúng ta cũng phải chết!
Nếu chúng ta để mình bị lây nhiễm; có ai mà hoàn toàn miễn nhiễm! - do thuyết định mệnh của người ngoại đạo, chúng ta hãy xem lời mắng của Chúa Giêsu là dành cho chúng ta: “Đồ dại!” Một người khôn, một Kitô hữu, không thể sống mà không nghĩ rằng cuộc sống của mình bao gồm hai giai đoạn: ở dưới thế này và vĩnh cửu. Cuộc sống trần thế của chúng ta chỉ huy cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Thực sự là dại dột khi chỉ nghĩ đến những gì sắp diệt vong mà không chú ý tới những gì sẽ tồn tại. Chúng ta có nguy cơ chết như người đặt cuộc đời mình trên những vựa lúa: “Đó là điều xảy đến với kẻ thu tích của cải cho mình thay vì làm giàu trước nhan Thiên Chúa.”
“Trước nhan Thiên Chúa” Điều này cho chúng ta biết ý nghĩa của từ dại trong Thánh Kinh: “Người dại dột chính là kẻ quên lãng Thiên Chúa.” Chính vì thế, người ấy mất dần điều mà người ấy có được khi lui tới với Chúa nhờ sự khôn ngoan. Người ấy dấn sâu vào chủ nghĩa duy vật và sự bế tắc của tất cả những gì người ấy không thể để vào quan tài của mình.
Vở kịch nhỏ về tâm lý: tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện, đang hấp hối. Tôi mang gì theo lên trời? Người ta chỉ mang theo tình yêu thực sự đã được sống, thứ tình yêu dần dần dệt nên ở dưới thế này hữu thể vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, xin hãy làm cho con từ bây giờ lại trở nên ham mê tình yêu chứ không phải của cải.

 

9. Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Một trong những nét bất biến của tâm lý nhân loại là bất cứ điều gì cũng quy về mình. Chúng ta để sang một bên những khảo sát công phu chẳng ràng buộc gì hết, có thể được chú ý như một trò chơi luyện trí. Chúng ta tạm đứng ở tầm mức người ta cảm thấy cuộc sống cuộc sống mình, quyền lợi mình bị liên quan. Một lời giảng dạy cao siêu sẽ bị hiểu theo chiều nào thuận cho quyền lợi riêng. Ở đây cũng vậy.
Đức Giêsu vừa dạy rằng con người sống ở thế gian phải quan tâm đến sự phán xét của Thiên Chúa sau này. Một thính giả thấy vậy ngỏ lời: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Nghe rõ lời Chúa, nhưng người ấy giải thích theo lòng tham, cho rằng: Rabbi này nói hay, hình như có uy quyền, ta xin Thầy can thiệp giải quyết dùm vấn đề tranh chấp gia tài. Lời dạy rất quan trọng của Đức Kitô lọt vào tai người ấy, biến thành một cách giải thích lợi cho mình, hợp với quyền lợi riêng tư.
Đức Giêsu trả lời như vẫn thường làm: Phải phân biệt chính yếu và phụ thuộc, vĩnh cửu và chóng qua, quan trọng và kém quan trọng. Gia tài, tư sản giúp được gì cho người ta khi đến trước tòa Thiên Chúa? Nguy cơ là muốn áp dụng lối giải thích vụ lợi, muốn thu hẹp lời dạy cao siêu của Phúc Âm. Chúng ta liệu có tránh được cám dỗ ấy không?
1) Điều quan trọng là không được biến Phúc Âm thành một bộ luật cách mạng xã hội, không được định nghĩa sứ mạng dưới thế của Đức Kitô như một cách mạng định kỳ với mục tiêu phân chia của cải. Phúc Âm chủ trương công bằng, nhưng đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trong quan hệ người với người, công bằng chưa đủ, vì nhược điểm nhỏ nhất của nó là tính chất bấp bênh. Phúc Âm đi vào vấn đề chính yếu, bắt buộc con người phải ý thức rõ về mình trước con mắt Thiên Chúa. Đức Giêsu nói: “Hà tất tranh giành nhau về những của cải chóng qua, chóng hết? Tại sao có thể tự tại trong tình trạng an toàn vật chất giả dối? Chốc nữa đây, khi phải trả lời câu hỏi tối hậu của Thiên Chúa về cuộc đời mình, các ngươi sẽ ăn nói làm sao? Những câu hỏi này của Đức Kitô đặc biệt gửi đến những Kitô hữu và cả đến những xã hội, những nền văn minh nữa. Những kẻ có trách nhiệm trực tiếp nhất phải trả lời là những Kitô hữu. Chúng ta nhận xét thêm, sở dĩ một số cách mạng phát sinh bởi trước kia hoặc hiện nay người Kitô hữu không trả lời đúng cách những câu hỏi của Đức Kitô.
2) Đức Giêsu nói về sự cần thiết tránh tích trữ của cải cho chính mình, trái lại phải làm giàu theo ý định của Thiên Chúa. Ở đây Chúa nói ra một ý tưởng Người thường nhắc tới, là sự chia sẻ trong tình huynh đệ. Công bằng chỉ đưa ra những đòi hỏi giới hạn, công bằng là một thái độ đối xử tối thiểu. Vấn đề chính yếu trong con mắt Thiên Chúa là sự công bằng sung mãn liên kết người với người như anh em ruột thịt, nó hậu thuẫn cho tình yêu, cho bác ái. Không thể có tình huynh đệ nếu thiếu điều kiện tiên quyết là sự công bằng. Tuy vậy, công bằng mà tuyệt nhiên không thương yêu nhau thì cách đối xử công bằng cũng chẳng bền vững.
Chính tình yêu mở rộng tấm lòng để sẵn sàng chia sẻ, tình yêu khiến chúng ta trở nên giàu có trước con mắt Thiên Chúa.

 

10. Suy niệm của Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
CẦU NGUYỆN NHƯ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI ĐỨC GIÁO HOÀNG.
Trong cuốn sách Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trả lời câu hỏi: “Giáo Hoàng đã cầu nguyện như thế nào, cho ai và cầu nguyện những gì?” Ngài đã trả lời bằng một câu mở đầu của Hiến chế vè Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II, điều này không có gì ngạc nhiên bởi vì ngài là Giám mục của Công đồng, ngài có mặt trong một ủy ban soạn thảo tài liệu này và được viết bằng tiếng Latin là Vui Mừng và Hy Vọng. Đây là đoạn Đức Giáo Hoàng thuộc nằm lòng: “Niềm vui và hy vọng, đau thường và những lo âu của dân chúng trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bị đau buồn bởi bất cứ cách nào là niềm vui và hy vọng, những đau thương và lo âu của những người đi theo Đức Kitô”. Đây là tâm tình và sự hoàn hảo theo phẩm giá của Chúa Giêsu: “Hãy tránh tham lam trong mọi hình thức”. Tham làm thúc đẩy chúng ta cầu nguyện cho những lý do ích kỷ hơn là cầu nguyện cho những người có nhu cầu như Đức Giáo Hoàng đã làm.
Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng như là mục tử của Giáo Hội phổ quát, dĩ nhiên ngài không được quên bất cứ ai hoặc bất cứ nhu cầu nào có liên quan đến ngài, đặc biệt trong lời cầu nguyện của ngài. Và những gì là đúng cho Đức Giáo Hoàng thì điều đó cũng đúng với mỗi người chúng ta theo những cách thế riêng của mình khi chúng ta mang danh”là người Công giáo”, một danh xưng chỉ định rằng chúng ta là một Giáo Hội phổ quát và không giới hạn trong một dân tộc nào, một quốc gia nào, một văn hóa nào.
Chủ nghĩa Công Giáo của chúng ta và những nỗ lực của chúng ta để lướt thắng những tham lam được tỏ hiện bằng việc chúng ta cầu nguyện trong khi cử hành phụng vụ Thánh Thể. Điều đặc biệt ý nghĩa là lời kinh của các tín hữu. Danh xưng này chỉ định rằng, sự cầu nguyện là phần thực hành của chức linh mục cộng đồng, điều đó được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội, chức linh mục cộng đồng đã được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội. Được biết như là”sự cầu bầu phổ quát”. Danh xưng này chỉ định rằng chúng ta có bổn phận phải cầu nguyện cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ đơn giản những nhu cầu riêng biệt của chúng ta. Chúng ta phải dâng lời cầu xin cho Giáo Hội tại địa phương cũng giống như trên khắp thế giới, cho các vị lãnh đạo đời, những người bị áp bức và những người có nhu cầu, cũng như cho tất cả mọi người được ơn cứu độ. (x.. lời giới thiệu chung của sách lễ Roma số 45).
Kinh nguyện Thánh Thể cũng liên hệ trong câu mở đầu của Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Lời kinh nguyện Thánh Thể thứ ba đã cầu nguyện một cách đặc biệt hầu như không bỏ sót hoặc quên bất cứ ai: “Lạy Chúa xin cho lễ hy sinh này tuôn đổ bình an và ơn cứu độ cho tất cả thế giới. Xin hãy cho tăng thêm sức mạnh cho đức tin và lòng mến… cho toàn thể mọi người mà con của Cha đã tụ họp lại. Trong tình yêu nhân từ và hợp nhất toàn thể con cái của Cha ở bất cứ nơi nào mà họ hiện diện… Xin hãy tiếp đón vào vương quốc của Cha… tất cả những ai rời bỏ thế gian này trong tình thân hữu với Cha”.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể và sẽ cầu nguyện trong chính những nhu cầu của chúng ta, cho những người mà chúng ta yêu mến, chúng ta cũng cần nhắc nhở về lời của Thánh Phaolô rằng: “Chúng ta phải đưa tâm trí của chúng ta đến với những lãnh vực cao hơn. Chúng ta sẽ hướng tới những lãnh vực cao hơn khi chúng ta quảng đại và không ích kỷ trong lời cầu nguyện. Phải thêm rằng chỉ có kinh nguyện cho những người có nhu cầu thôi thì không đủ. Chúng ta cũng cần hành động, hành động đó đã được linh hứng và thúc đẩy bởi kinh nguyện. Người khác có thể lâm vào sự nghèo khổ, coi thường những người lãnh lương hưu trí, khinh bỉ dân nhập cư, và chọn lựa cuộc sống tách biệt khỏi những khốn khổ của con người nhưng họ không phải là những người Công giáo. Chúng ta tin rằng”niềm vui và hy vọng”, đau thương và những lo âu của mọi người trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bất cứ những đau buồn cách nào, là những niềm vui và hy vọng, đau thương và lo âu của người môn đệ Đức Kitô”.

 

11. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Phúc âm hôm nay tựu trung có thể nhắc chúng ta nhớ lại một điểm quan trọng, đó là người đồ đệ của Chúa cần phải xây dựng đời sống của mình trên chính Chúa, chứ không phải trên những của cải lợi ích vật chất. Lời xin của một người vô danh, một người trong đám đông đến nghe Chúa Giêsu giảng: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Lời xin này xem ra là một yêu cầu hết sức hợp lý từ quan điểm của người đến xin Chúa Giêsu.
Theo thói quen trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những vị thông luật, những biệt phái lãnh đạo dân chúng thường có vai trò như những thẩm phán của xã hội của chúng ta ngày nay. Họ giúp dân chúng giải quyết những tranh tụng hàng ngày. Vả lại, Chúa Giêsu cũng rao giảng Tin Mừng của công bằng, tình thương, bác ái. Vì thế, người đến xin Chúa: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Để nhìn về Chúa Giêsu như là một người có uy tín, một vị trọng tài uy tín có thể giúp anh giải quyết vấn đề với người anh trong gia đình, anh có quyền nghĩ như thế và đòi như thế. Vì Chúa Giêsu giảng dạy sự khôn ngoan, giảng dạy lẽ phải và sự công bằng. Nhưng chúng ta hơi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu từ chối lời yêu cầu của anh: “Ai đặt tôi làm trọng tài xét xử những việc này” Nhưng thật ra đây không phải là lời từ chối, nhưng những gì Chúa Giêsu kể tiếp về dụ ngôn cho chúng ta thấy là Chúa Giêsu giúp anh hay giúp mỗi người chúng ta giải quyết những vấn đề vật chất của mình.
Chúa Giêsu kể tiếp dụ ngôn về người giàu có chỉ biết xây dựng đời mình trên của cải vật chất mà quên đi mối liên hệ sâu xa hơn với Chúa, mối liên hệ của cuộc sống đời này và hạnh phúc đời sau. Chúa Giêsu nhắc lại một sự thật căn bản là đời sống con người không phải chỉ giới hạn trên trần gian này mà thôi, và cũng không phải chỉ được xây dựng trên của cải vật chất.
Nếu quả thật đời sống con người chỉ có trần gian này mà thôi thì nếp sống của chúng ta có thể sẽ phải như là nếp sống mà một nhà hiền triết Hy Lạp đã nói: “Cà phê đi em, hãy hưởng thụ cho đã rồi thôi”. Nhưng không phải chỉ có thế, đời sống con người trên trần gian này là một giai đoạn của một cuộc sống mãi mãi trong Chúa. Đây là sự thật căn bản mà Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho tất cả mọi người cũng như cho người đến xin Chúa giải quyết một trường hợp cụ thể trong cuộc sống hàng ngày là chia gia tài cho tôi.
Đặt cuộc sống con người trong viễn tượng đời đời mà mỗi người chúng ta cần thực hiện điều này luôn luôn trong mọi giây phút. Chúng ta cần đặt cuộc sống của mình trong viễn tượng đời đời, để rồi từ đó chúng ta mới có thể nhận được sự soi sáng mà dễ dàng giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, ganh tị, thù hận làm mất sự bình an trong tâm hồn.
Chúng ta hãy xác tín rằng, Phúc âm Chúa đòi buộc ta sống công bằng, chia sẻ và yêu thương. Nhưng đòi buộc này không phải là chỉ đòi buộc những việc cụ thể bên ngoài mà thôi, mà đòi buộc ăn sâu vào trong lương tâm mỗi người chúng ta. Phúc âm Chúa không phải chỉ là trọng tài để giải quyết những xung đột của nhau, nhưng là giúp cho mọi người sống trọn giới luật yêu thương.
Áp dụng vào trường hợp của Giáo Hội hôm nay, chúng ta cũng có thể nói Giáo Hội trong thời đại chúng ta đang sống cũng bị thách thức như Chúa Giêsu ngày xưa. Có những người muốn Giáo Hội dấn thân thật cụ thể vào trong một đảng phái chính trị, bênh vực lập trường của đảng phái chính trị nào đó, trình bày những giải đáp kỹ thuật cụ thể cho những vấn đề được đặt ra trong xã hội.
Đôi khi đây cũng là những cám dỗ cho những người đồ đệ của Chúa, cho mỗi người chúng ta. Nhưng ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội là một cái gì sâu xa hơn, ăn sâu vào trong lương tâm của mỗi người. Giáo Hội được mời gọi rao giảng, nhắc nhở cho mỗi người sống về sự thật căn bản mà Chúa đã mạc khải. Đời sống con người không hạn hẹp trên trần gian này, nhưng là một mở rộng hướng về cõi đời đời và được tiếp tục trong cõi đời đời.
Giáo Hội được mời gọi đề nghị và bảo vệ một tinh thần, tinh thần Phúc âm và tinh thần này tác động sâu xa nơi từng lương tâm con người. Giáo Hội mà mỗi người chúng ta không nên để mình bị ràng buộc bởi những chế độ, bởi những lợi ích của phe nhóm. Chúng ta không đến với Chúa để xin Chúa bảo anh tôi chia gia tài cho tôi. Mặc dù đây là một yêu cầu hết sức hợp lý, nhưng chúng ta hãy đến với Chúa để Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta được nhận thức rằng, đời sống con người của chúng ta trên trần gian này là một chuẩn bị để đi về trời, để bước vào cõi đời với Chúa.
Trong viễn tượng, mỗi người chúng ta được mời gọi sử dụng những của cải, những tài năng Chúa ban cho để phục vụ cho anh chị em và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và cũng trong viễn tượng này mà mỗi người chúng ta được mời gọi giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, những ganh tị, những thù hận làm mất đi sự bình an trong tâm hồn.
Một khi đã đặt cuộc đời mình trong cuộc sống đời đời, trong viễn tượng cuộc sống đời đời; một khi đã đặt cuộc sống mình trên nền tảng là Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ biết giải quyết dễ dàng những xung đột hằng ngày xảy ra trong cuộc sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

 

12. Gia tài – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.
Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng. Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này. Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay. Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2, 21).
Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.
Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài. Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu" (Lc 12, 15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.
Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu cảnh báo: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự. Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy" (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.
Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường. Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất. Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải. Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất. Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày. Lòng tham vô đáy. Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu. Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất. Thế là cuộc sống kéo lôi vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ. Biết rằng lao động kiếm sống là tốt. Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.
Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.
Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất. Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2).
Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn. Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ. Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3, 9-10). Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành. Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.
Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.

 

13. Bao nhiêu mới đủ - McCarthy

Suy Niệm 1. CĂN BỆNH THÍCH TÍCH TRỮ
Tolstoy kể lại câu chuyện về một người nông dân tên là Pakhom rất muốn có một ít đất đai. Ông ta dành dụm từng đồng và mua được bốn sào. Ông ta hết sức vui mừng. Tuy nhiên, ít lâu sau, ông ta cảm thấy còn chật chội, ông bèn bán bốn sào đất đó đi và mua tám sào ở một vùng khác. Nhưng điều đó không làm ông thoả mãn lâu, nên ông bắt đầu tìm kiếm ở chỗ khác.
Một buổi tối nọ, một người khách lạ đến. Pakhom đã nói về ước muốn của ông có thêm nhiều đất đai. Người khách lạ nói với ông rằng bên kia dãy núi nơi sinh sống của một bộ tộc. Những con người đơn sơ ở đây có rất nhiều đất đai muốn bán.
Ngày hôm sau, ông ra đi. Người tộc trưởng tiếp đón ông và nói: “Chỉ cần bỏ ra một ngàn rúp, ông sẽ có được một số đất đai mà ông rảo bước trong một ngày. Nhưng ông phải quay về điểm xuất phát cũng trong ngày hôm đó, nếu không kịp, ông phải chịu mất số tiền”.
Pakhom sung sướng rộn ràng. Suốt đêm đó ông không ngủ được mải nghĩ đến những đất đai sẽ thuộc về ông. Ngay khi mặt trời vừa ló dạng ở chân trời, người ta cắm một cái mốc trên đỉnh gò, và ông xuất phát. Có những người cỡi ngựa theo sau và đóng xuống đất những cọc để đánh dấu lộ trình mà ông đã đi qua.
Ông bước đi nhanh và mỗi lúc một nhanh hơn. Càng đi xa đất càng màu mỡ hơn. Trong lúc tham lam, ông đi một vòng thật lớn mà quên mất thời gian. Và rồi ông hoảng hốt khi thấy mặt trời bắt đầu xuống thấp. Ông quay đầu chạy về cái gò, nơi ông xuất phát thật nhanh. Khi ông vừa lên đến đỉnh gò thì mặt trời đã lặn. Tuy nhiên, ngay lúc đó ông đã ngã quỵ xuống, úp mặt trên đất.
“Tôi khen ngợi ông” người tộc trưởng nói “Ông đã có nhiều hơn bất cứ người nào mà tôi còn nhớ. Nhưng Pakhom không đáp lại. Người ta lật ngửa ông lên. Ông đã chết.
Một số lượng nào đó về tiền bạc và của cải vật chất là cần thiết. Dụ ngôn của Đức Giêsu không nói về nhu cầu mà nói về lòng tham. Người phú hộ đã bắt đầu với sự giàu có, nhưng ông vẫn không thoả mãn. Lòng tham giống như một ngọn lửa, lửa càng lớn khi người ta càng chất củi vào, người tham có nhiều của càng tham. Một trong những vấn đề chính của thời đại chúng ta là người ta không biết khi nào mới sung túc, phong lưu.
Elvis Presley chết ở tuổi bốn mươi hai vì lạm dụng thuốc. Ông có tám ô tô, sáu mô tô, hai máy bay, mười sáu cái tivi, một lâu đài và một số tài khoản lớn ở ngân hàng.
Khi một con quạ làm tổ trong rừng, nó chỉ chiếm một cành cây mà thôi. Khi con hươu ra bờ sông để làm nguôi cơn khát, nó không uống quá nhu cầu của nó trong lúc đó. Vậy tại sao con người lại lo tích trữ?
Con người khao khát được an toàn. Trong thời đại của Kinh Thánh, khi nạn đói là một đe doạ thường tái diễn, người ta tìm kiếm sự an toàn bằng việc tích trữ ngũ cốc. Trong thời đại của chúng ta, người ta tìm sự an toàn trong việc tích trữ của cải và tài sản. Người ta tích trữ đồ vật và bám chặt vào chúng, bởi vì chúng cho họ ảo tưởng về sự an toàn. Nhưng sự an toàn không thể tìm thấy được trong của cải. Nó chỉ có thể được tìm thấy trong Thiên Chúa.
Cùng với sự an toàn, người ta cũng tìm thấy giá trị của bản thân trong của cải. Trong xã hội chúng ta, người ta đánh giá con người qua những gì họ có. Có nhiều của cải làm người ta trở thành một cái gì đó. Không có của cải trở thành không có gì cả.
Mahatma Gadhi là một trong những người vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi. Tuy nhiên, ông sống trong một căn nhà đơn sơ làm bằng gỗ và bùn. Về của cải ông chỉ có những vật dụng thiết yếu. Của cải sẽ không bao giờ cho chúng ta sức mạnh nội tâm. Chúng là những cái nạng cho một người què quặt tâm linh.
Đức Giêsu nói thay vì tích trữ của cải trong kho tàng, chúng ta phải tìm cách làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho chúng ta giàu có trước mặt Thiên Chúa không phải là điều chúng ta có, cũng không phải là điều chúng ta đã làm.
Không phải có của cải là có tội nhưng chính là óc chiếm hữu. Từ bỏ không có nghĩa là dửng dưng hoặc không quan tâm. Từ bỏ là không chiếm hữu. Đời sống là một quà tặng mà chúng ta phải biết ơn chứ không phải một sở hữu để chúng ta bám víu. Một đời sống không chiếm hữu là một đời sống tự do.
Của cải duy nhất đáng cho chúng ta tích luỹ là của cải của tâm hồn. Một tâm hồn quảng đại là một kho tàng. Có tâm hồn quảng đại là giàu có trước mặt Thiên Chúa. Sợ hãi và tham lam là những kẻ thù thật sự. Nỗi khiếp sợ đói khát khi kho lẫm đầy tràn là cơn đói khát không bao giờ có thể thoả mãn.
Suy Niệm 2. GIA TÀI TỐT NHẤT
Dù người ta là người khôn ngoan, thành công và khéo léo đến đâu, người ấy không thể đem theo tài sản của mình lúc chết. Những người khác sẽ thừa hưởng thành quả sự lao nhọc của người ấy. (Bài đọc 1). Điều làm cho sự việc tệ hại hơn là của cải mà người ấy để lại sau lưng có thể làm cho gia đình người ấy chia rẽ, xâu xé. Gia tài có thể là một lời chúc lành hoặc một lời chúc dữ. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy hai anh em tranh giành gia tài. Quả là đáng buồn khi nhìn thấy người ta bị lòng tham và ganh tỵ thúc đẩy đã cãi vã; gây gỗ nhau không tiếc lời.
Ngày trước, có một người làm việc trong ban quản trị một công ty thịnh vượng. Ông ta sống với vợ và gia đình trẻ ấy cư ngụ trong một căn nhà đẹp ở vùng ngoại ô thuận tiện. Tuy nhiên, ông không bằng lòng. Ông còn trẻ, đầy năng lực và tham vọng. Ông dường như có thể làm được mọi việc. Vì thế ông tự nhủ: “Tôi có thể làm tốt hơn thế này. Tôi chỉ cần làm việc nhiều hơn”.
Ông làm thêm nhiều giờ phụ trội và có được thu nhập gấp đôi. Ông dọn nhà đến một căn nhà lớn hơn trong khu sang trọng của thành phố. Dù ông đã làm việc xuất sắc, ông vẫn không hài lòng. Ông đã mơ tưởng đến một căn nhà mà ông chưa đủ tiền để mua. Nhưng ít năm nữa, ông sẽ có.
Ông đã không bao giờ có được căn nhà mơ ước ấy, bởi lẽ ông đã ngã bệnh là căn bệnh cuối cùng. Ông thình lình thấy mình ở ngưỡng cửa sự chết. Rồi ông kinh hoàng thấy rằng ông hầu như không hiểu gì cả về vợ con ông. Tệ hơn nữa là ông đã nhận ra mình không thật sự sống. Ông đã trì hoãn đời sống cho đến ngày mọi mục tiêu của ông sẽ đạt được.
Trong con mắt của công ty và của những người láng giềng ông đã trở thành lớn. Nhưng trong con mắt của riêng ông, ông biết rằng ông đã thất bại. Ông đã để vuột mất những điều quan trọng nhất trong đời sống, ông cảm thấy trống rỗng trong tinh thần và trong cảm xúc. Giờ đây khi cuộc hành trình trần thế sắp chấm dứt, ông cảm thấy tình trạng của ông thật bất hạnh. Ông ao ước bắt đầu lại lần nữa. Chắc ông sẽ làm những việc khác hẳn.
Và ông để lại cho con cái ông cái gì? Đúng là nhiều tiền bạc. Nhưng những cái khác? Không hoàn toàn không có. Thực tế là các con ông đã lớn lên không có ông, và giờ đây chúng sẽ tiếp tục sống mà không có ông.
Ngày nay, nhiều cha mẹ nhận thức rằng họ cần dành nhiều thời gian cho con cái hơn thay vì chỉ nghĩ đến của cải. Qua sự tiếp xúc thân mật để dạy dỗ con cái họ, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng họ thật sự yêu thương săn sóc chúng. Những đứa con này thừa kế một loại gia tài quan trọng nhất, và là chủ sở hữu một tài sản mà tiền bạc không thể mua được.
Người điên dại giàu có đã khám phá quá muôn rằng tài sản vật chất không phải là còn mãi. Bởi vì ông ta đem hết mọi năng lực để tích trữ của cải, và không có gì có thể nhắc ông nhìn lại chính ông, và cái chết bày tỏ bản chất nghèo nàn của ông.
Những gia tài đáng phải tranh giành là những gia tài mà cái chết không thể lấy mất, nhưng trường tồn trong sự sống đời đời.
“Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành” (Antoine de Saint Exupery).
Có một người tốt lành đã từ chối làm chúc thư, nhưng ông nói rằng ông muốn để lại cho con cái điều tốt nhất mà ông có: gương mẫu của đời ông. Bạn hãy cho đi những tài sản, bổng lộc và tình yêu thương của bạn ngay từ bây giờ. Đừng chờ cho đến lúc một người nào khác làm chính việc đó khi bạn đã chết.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ông chủ ngân hàng người Mỹ giàu có nọ đứng trên cầu tàu của một ngôi làng duyên hải ở Mêhicô thì một chiếc tàu nhỏ với một người ngư phủ cặp vào bờ. Bên trong tàu là một con cá ngừ to. Ông chủ ngân hàng ngợi khen người đánh cá về mẻ lưới của ông ta, rồi hỏi tiếp: “Ông ra khơi trong bao lâu?”.
“Ồ, một hoặc hai giờ người ngư phủ đáp.
“Tại sao ông không ở ngoài khơi lâu hơn để bắt được nhiều cá hơn?”
“Tôi chỉ ở ngoài khơi để kiếm đủ cho nhu cầu trực tiếp của gia đình tôi”
“Nhưng ông làm gì với thời gian còn lại?”
“Tôi ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với các con tôi, ngủ trưa vào buổi trưa và buổi tối tôi đi dạo trong làng, nhắm nháp tí rượu, chơi đàn ghi-ta và nói chuyện phiếm với bạn bè. Tôi dám chắc, tôi có một đời sống đầy đủ. Người đánh cá nói.
Ông chủ ngân hàng không thấy có gì ấn tượng: “Ông nên dành thêm thời gian để đánh cá”, ông nói: “Rồi khi công việc tiến triển, ông có thể mua một chiếc tàu lớn hơn. Với cái đà đó, ông có thể mua được mấy chiếc tàu. Sau cùng ông sẽ có một đoàn tàu đánh cá. Kế đó, ông có thể mở mang thêm nhà xưởng và nhà máy đóng đồ hộp. Lúc đó, ông cần phải rời bỏ ngôi làng này và chuyển đến ở thành phố Mêhicô, rồi đến Angeles, và sau cùng đến New York, từ nơi này ông có thể mở rộng việc kinh doanh”.
“Mọi việc ấy cần bao nhiêu thời gian?”. Người đánh cá nói.
“Khoảng hai mươi năm”, ông chủ ngân hàng đáp.
“Và rồi sau đó?” Người đánh cá hỏi.
“Khi gặp thời cơ, ông có thể bắt đầu đăng ký công ty ông vào thị trường chứng khoán và bán cổ phiếu cho công chúng và trở thành triệu phú”.
“Rồi sau đó?” người đánh cá hỏi
“Sau đó ông có thê rút lui và chuyển về sống trong một ngôi làng nhỏ miền biển, ở đó ông có thể ngủ dậy trễ, đánh cá chút đỉnh, chơi đùa với con cái ông, ngủ trưa vào buổi trưa, đi dạo trong làng vào buổi chiều tối và có một vài cuộc vui với bạn bè”.
“Ông nghĩ coi, hiện bây giờ tôi làm gì nào?” người đánh cá hỏi.

 

14. Hạnh phúc không nơi tiền của

(Suy niệm của Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
“Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai!”
Chúng ta thường nói: “Đồng tiền nối liền khúc ruột”. Tiền của cần cho sự sống, cho việc sống đạo nữa. Có thực mới vực được đạo.
Thái độ của Chúa Giêsu đối với tiền bạc như thế nào? Chúa không ngại nói đến tiền bạc. Ngài nói đến như một thứ cần dùng, có giá trị nữa. Ngài nói đến người đàn bà đánh mất một đồng bạc, thắp đèn quét nhà tìm kiếm, kiếm được vội chạy đi khoe đầu làng cuối xóm. Ngài nói đến người đầy tớ nhận năm nén bạc làm lợi thành mười và Ngài khen là đầy tớ tốt và trung tín.
Đành rằng Phúc Âm không cho biết Chúa Giêsu có cầm tiền không? Nhưng không lạ, nếu Ngài cũng dùng tiền như mọi người. Các tông đồ có một túi tiền chung do Giuđa giữ và Chúa dạy đi mua sắm (Ga 12,6; 13,29). Chúa sống trong thế giới Do thái tiền bạc và Ngài là nạn nhân tiền bạc, Ngài bị bán với giá 30 đồng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy dùng tiền nhưng đừng ham tiền. Hạnh phúc con người không lệ thuộc vào tiền của. Và Chúa kể câu chuyện người giàu có thiếu khôn ngoan, xây mộng vàng hạnh phúc trên tiền của rồi chết bất ưng. Chúa kết luận: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai?”. Và thánh Luca kết luận bằng một câu, có lẽ lấy ở nơi khác: “Như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa”.
Năm 1923, tại Chicago, có hội nghị các thương gia Mỹ. Chín người được coi là thành công nhất, trong số có ông chủ hãng thép, điện, xăng, hỏa xa, ngân hàng International Settlement. Nhưng mà, gần hết các ông vua tiền ấy đã kết thúc cuộc đời trong cảnh nghèo túng, thất vọng hay đã tự tử.
Thánh Phaolô nói: “Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10).
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê (Tv 144).

 

15. “Lấy gì mà đổi được linh hồn mình”

Tại Palestine người ta thường đem đến những vấn đề tranh cãi đến xin các rabbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”
Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội óc những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.
Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham lam thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lão phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.
Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:
- Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình.” Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắng!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt của cải. Luật sống của John Wesley Oxford ông có số lương là ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiêu thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân Đôn và hai cái tại Bristol, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiêu người chung quanh tôi không có bánh ăn.” Châm ngôn La-mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống thì càng khát thêm.” Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi – và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.
- Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham số và một ông lão hiểu đời:
Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán.” Ông lão hỏi: Rồi sao nữa?
Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn.” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” “Rồi sao nữa? – Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?
Câu hỏi sau này cũng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị.”
Ngu dại của người giàu này là coi tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá huỷ con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cải hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người hơn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc dễ làm cho con người chống đối nhau và chia rẽ nhau.Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh cảu con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém.” (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)
Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao.” Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khoá, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa.” Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trái đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng. A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bàn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi chưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la to: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tuỳ tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ kỳ đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng bạc, bảo ngọc… lạ thay, xương vẫn nặng hơn. Người ta chất thêm vàng, bạc, bửu thạch nữa… Xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiêu vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cải trần gian không làm cho nó thoả sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.
Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồn mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh Vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9). Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của Thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không xuất phát từ Chúa Cha, nhưng xuất phát từ thế gian; mà thế gian đang đi qua cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” (1Ga 2, 15-17).

 

16. Nghèo

Vào thời Chúa Giêsu, cũng như vào thời nay, những người nghèo khó bao giờ cũng bị khinh chê. Sénèque đã viết như sau: - Lòng thương xót là một thói xấu của những kẻ yếu đuối. Còn người khôn ngoan sẽ không bao giờ thương xót.
Có kẻ đã đặt câu hỏi: - Đâu là sự khác biệt giữa một chiếc cày, một con bò và một tên nô lệ?
Và rồi người ta đã trả lời: - Chiếc cày thì không biết nói, con bò thì biết rống, còn tên nô lệ thì biết nói. Nhưng cả ba đều là những đồ dùng không đáng giá.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã nghĩ gì về sự nghèo khó?
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Ngài đã mặc lấy thân phận nghèo khó.
Thực vậy, khi xuống thế làm người, Ngài đã chọn Mẹ Maria và thánh Giuse, là những người nghèo khó để giúp đỡ mình. Khi mở mắt chào đời, Ngài đã được sinh ra trong cảnh nghèo khó của hang đá máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem.
Ngài không phải chỉ sinh ra trong nghèo khó, mà còn lớn lên trong túng thiếu, phải lao động cực nhọc với đôi bàn tay của mình để kiếm tìm chén cơm manh áo. Thiên hạ đã chẳng bàn tán với nhau rằng: - Há Ngài chẳng phải là một bác phó mộc, con bà Maria sao?
Trong suốt quãng đời công khai, Ngài cũng đã sống vất vưởng, nay đây mai đó, như Ngài đã diễn tả: - Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chốn tựa đầu.
Sau cùng Ngài cũng đã chết trong cảnh nghèo khó với cây thập giá được dựng lên giữa trời và đất. Ngay cả ngôi mộ, nơi yên nghỉ cuối cùng cũng chẳng có nữa. Chúng ta có thể đúc kết về cuộc đời của Ngài như sau: - Sinh ra trong nghèo khó, lớn lên trong túng cực và chết đi trong thiếu thốn.
Ngài đã sống và sau đó đã giảng dạy về sự nghèo khó. Mở đầu bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, Ngài nói: - Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Qua lời xác minh trên, Ngài đã thực hiện một cuộc cách mạng, làm đảo lộn bậc thang giá trị. Kể từ nay, những kẻ giàu sang sẽ trở thành nghèo túng và những người nghèo túng sẽ trở thành giàu sang. Ngài đã truyền dạy: - Không ai có thể làm tôi hay chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được… Con lạc đà chui qua lỗi kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời.
Nơi khác, Ngài cũng xác quyết mình thực hiện những gì tiên tri Isaia đã loan báo: - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó…
Ngài đồng hóa mình với nhưng kẻ khó nghèo, bởi vì trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã nói: - Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống. Khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Vì mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Giáo hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn quan tâm bênh vực quyền lợi và giúp đỡ những người nghèo khó, bởi vì họ cũng có một linh hồn bất tử, họ cũng là con cái Thiên Chúa và họ cũng được cứu chuộc bằng giá máu châu báu của Đức Kitô.
Chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói trong lòng Giáo hội. Một Đamiêng đã phục vụ những người phong cùi tại hải đảo xa xôi. Một Phêrô Claver đã chăm sóc những người nô lệ. Một Vincentê đã lo lắng cho những người túng thiếu. Một Têrêsa Calcutta đã giúp đỡ những người bát hạnh, những người hấp hối bị bỏ rơi tại Ấn độ Và con biết bao nhiêu dòng tu khác chuyên lo cho những người già cả, đau yếu và mồ côi.
Giáo hội không phải chỉ giảng dạy mà còn thực thi đức bác ái.
Noi gương Chúa Giêsu và Giáo hội, chúng ta hãy có một tinh thần siêu thoát đối với của cải đã đành, mà còn phải có một tình yêu thương đối với những người nghèo khó.
Những hành động bác ái của chúng ta sẽ là một cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất vì ngay từ đầu những người ngoại đã phải ngạc nhiên về các tín hữu sơ khai: - Kìa xem họ yêu thương nhau biết chừng nào.
Thương giúp kẻ khó nghèo là thương giúp cho chính Chúa, là thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng trên trời.


 

17. Kho tàng

Năm 1987, Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn đại học, về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai: Họ muốn gì? Họ nhằm điều gì trước hết? Anh chị em có biết kết quả như thế nào không? 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết: “Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết: “Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
Không phải chỉ có những người trẻ này mới có ý nghĩ về cuộc sống hưởng thụ những của cải vật chất như vậy. Trong một xã hội thấm nhiễm tinh thần hưởng thụ và vật chất như ngày nay, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc, và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng tốt. Nhiều người có thái độ giống như ông phú hộ giàu có được Chúa Giêsu mô tả trong Tin Mừng.
Đây là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, thường được gọi là dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc hay dại dột. Bởi vì ông ta chỉ nghĩ đến đời sống trần gian mà quên mất số phận vĩnh cửu của mình. Ông ta chỉ lo làm giàu mà không biết rằng: tất cả sự giàu sang của ông chỉ là hư vô mà thôi, vì tất cả những gì ông đang có ông không thể đem chúng theo ông vào cuộc sống vĩnh cửu, ông phải để lại cho những người khác. Hơn nữa, ông lại chỉ tìm sự an nhàn, hưởng thụ vinh thân phì da mà không nghĩ tới Thiên Chúa, không nghĩ tới người khác, và cũng không nghĩ tới đời sau. Đó là lý do tại sao ông phú hộ này bị Chúa bảo là ngu ngốc, dại dột, vì ông tham lam, thích sống hưởng thụ mà quên mất đời sống vĩnh cửu của mình.
Câu chuyện sau đây cũng tương tự như vậy, minh họa cho chúng ta hiểu rõ hơn chủ trương sai lầm của ông phú hộ ấy: Có một người kia rất giàu có, ruộng đất mênh mông thẳng cánh cò bay. Ông có một tên đầy tớ vốn có lòng tham của và ham danh vọng. Một hôm, ông gọi đầy tớ đến và bảo: “Ta sẽ cho ngươi ruộng đất của ta như lòng ngươi ước nguyện. Ngươi có thể chạy bao nhiêu tùy ý, chạy đủ một vòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Ta sẽ cho ngươi hết số ruộng đất mà ngươi đã chạy được, nhưng phải nhớ điều này: nếu ngươi trở về đây chỉ sau một phút khi mặt trời đã lặn rồi, ngươi sẽ không được gì hết, cho dù chỉ một tấc đất thôi”.
Người đầy tớ rất sung sướng làm theo lời ông chủ. Mặt trời vừa lóe lên những tia nắng đầu tiên, hắn đã sẵn sàng khởi hành, trong lòng nghĩ rằng: “Thật là sung sướng biết bao, chỉ trong vòng một ngày thôi mình sẽ trở thành một người điền chủ giàu có”. Với niềm vui sướng đó, hắn bắt đầu cắm cổ chạy, chạy không kịp thở, chạy không biết mệt. Mặt trời đã đứng ngọ, lẽ ra đến lúc phải quay đầu chạy vòng trở về cho kịp trước khi mặt trời lặn mới phải, nhưng trước mặt hắn, đồng cỏ vẫn còn xanh tươi, ruộng lúa chín vàng. Lòng tham đã khiến hắn chóa mắt. Thế là hắn cứ cắm đầu chạy mãi, chạy tiếp nữa. Đến khi hắn quay đầu chạy về thì trời đã xế chiều, nhưng đường vẫn còn xa, hắn ước ao mặt trời đứng lại để chạy về cho kịp. Hắn lo sợ, gắng sức chạy nhanh hơn. Khi hắn tới cửa nhà ông chủ, cũng vừa lúc mặt trời lặn. Nhưng tiếc thay cũng là lúc hắn hết hơi, ngã gục tắt thở dưới chân ông chủ. Thật đúng “Nhân tham tài tắc tử cũng như điểu tham thực đắc vong”. Và ông chủ cho anh như là phần số một chỗ nghỉ vừa dài vừa rộng không quá ba tấc đất.
Chúng ta thường nghe nói; “Tham thì thâm” quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù qaung, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả chính đời sống nữa.
Của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là phương tiện cần thiết để sống, nhưng không bao giờ là tất cả. Không thể vì chúng mà người ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả làm gian bán lận, xâm phạm mạng sống cũng như tiết hạnh của kẻ khác, tham ô, tham nhũng hoặc khai thác “con người” và “thiên nhiên” cách bất chính. Tiền bạc, của cải tự nó không phải là xấu. Ai cũng cần có tiền bạc, của cải để sống xứng đáng với nhân phẩm. Tuy nhiên, tiền bạc, của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho con người sống tốt đẹp, hạnh phúc. Trái lại, nếu chạy theo tiền bạc mà quên mất những giá trị khác trong cuộc sống, thì thật là nguy hiểm và tai hại. Nó có thể đem lại ấm no hạnh phúc đời này, nhưng thiệt mất linh hồn thì ích gì? Bởi vì cái chết sẽ đóng dấu chấm hết cho mọi cuộc sống giàu nghèo, sang hèn. Quan trọng là khi nhắm mắt, số phận đời đời của chúng ta sẽ ra sao? Của cải trần gian có giúp chúng ta tìm được hạnh phúc bất diệt hay lôi kéo chúng ta vào chỗ trầm luân?
Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình. Chúng ta phải nhận định cho đúng bậc thang giá trị của cuộc sống. Trong khi bôn ba vất vả kiếm sống hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm nước Chúa và những giá trị của nước Chúa trước hết. Trong khi tìm kiếm nhu cầu vật chất, chúng ta phải dứt khoát khước từ mọi hành động bất chính, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian dối. Chúng ta phải biết hài lòng với những gì mình đang có, đồng thời không sống ích kỷ, đóng kín, chỉ biết có mình, bất cần người khác. Trái lại, hãy sống quảng đại, mở rộng quả tim, mở rộng bàn tay để chia sẻ và cảm thông với mọi người, như thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hãy hào phóng, rộng rãi chia sẻ để tích trữ vốn liếng cho cuộc đời mai sau”.


 

18. Khờ dại

Bài Phúc âm hôm nay có nói tới một người giàu có đã lo tích trữ rất nhiều của cải, và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được hạnh phúc, bảo đảm. Ông nghĩ rằng: “Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi hưởng thụ cho đã!”. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “kẻ khờ dại”. (nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?).
Nếu ông ta sống vào thời đại này, mọi người sẽ xem ông là một nhân vật vị vọng, một con người có địa vị cao trong xã hội, có thể sai khiến người khác, được mọi người nể trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại gọi ông là kẻ dại khờ. Chúa Giêsu không lên án ông là kẻ dại khờ, vì có thể ông đã làm giàu một cách bất chính. Câu chuyện cho thấy ông đã lao động cật lực, đã biết tận dụng thiên thời địa lợi và hoạch địch một chương trình dài hạn như một nhà doanh nghiệp tài ba. Vậy tại sao ông lại được xem là một kẻ dại khờ?
Đời sống của ông bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của ông bị bởi các hành trang vật chất chỉ giúp ông duy trì và phát huy cuộc sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Ông ta quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích, và cùng đích của con người là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho. Và thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Người đàn ông này nếu càng giàu có về của cải vật chất thì đời sống tinh thần và thiêng liêng càng trở nên nghèo nàn. Có thể ông có rất nhiều sách quí, nhiều đĩa nhạc hay, nhưng chắc rằng ông chẳng bao giờ nghe, và chẳng bao giờ đọc. Vì ông còn đang mải mê kiếm tiền và giữ tiền. Cho nên đời sống tinh thần và thiêng liêng của ông trở nên nghèo nàn. Vậy, ông đúng là kẻ khờ dại.
Ông chỉ sống cho cá nhân của ông chứ không biết quan tâm đến người khác. Có một người nọ thật giàu muốn gì cũng có, tuy vậy ông không thấy hạnh phúc vì ông chỉ nhận được những cái nhìn soi mói, coi thường và khinh miệt của người khác. Ông tìm đến hỏi một người nổi tiếng là khôn ngoan: “Tại sao người ta lại coi thường và khinh miệt tôi cho tôi là kẻ keo kiệt bủn xỉn? Người ta đâu biết rằng sau khi chết, tôi sẽ hiến tất cả gia tài của tôi cho người nghèo và cho những công việc từ thiện”. Để trả lời, nhà khôn ngoan kể cho ông một câu chuyện như sau: Một chú heo than thở cùng chị bò cái: “Tôi cũng như chị, chúng ta cống hiến thịt mình cho loài người. Thế thì tại sao họ thân thiện với chị mà xa lánh tôi?” Ngẫm nghĩ giây lát, chị bò cái trả lời: “Thịt chúng ta chỉ cống hiến cho loài người khi chúng ta chết. Còn bây giờ có lẽ tại tôi hiến cho họ sữa lúc tôi còn sống nên họ quí mến tôi chăng”.
Thật vậy, nhìn vào cuộc sống hằng ngày thì chúng ta sẽ nhận ra ngay, những người có điều kiện về vật chất biết quan tâm giúp đỡ chia sẻ với anh em thì sẽ được nhiều người yêu mến và kính nể.
Ông nhà giàu này mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không thấy rằng của cải của ông là do của cải tập thể mang lại, ông cũng không nhận ra rằng ông đã thừa hưởng một kho tàng ý tưởng và các tiến bộ mà những người đang sống cũng như đã chết góp phần tạo nên. Ông nghĩ rằng mình có thể sống huy hoàng trong thế giới nhỏ bé chật hẹp. Ông là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân và suốt đời ông chỉ có một mình không có ai làm bạn. Ông thật là kẻ khờ dại.
Ông đã không biết rằng ông có được của cải như ngày nay chính là do Thiên Chúa đã ban cho ông. Và bây giờ ông nói với chính mình: bây giờ tôi có nhiều của cải rồi, ta cho xây kho để cất của cải vào đó, giờ ta chỉ có hưởng thụ, đi du lịch, an dưỡng tuổi già. Nhưng đêm hôm đó Thiên Chúa gọi ông. Vậy ông quả là một kẻ khờ dại vì khi chết ông đâu mang theo được vật chất gì.
Có lẽ ông nhà giàu này nghĩ rằng của cải, quyền thế ở trần gian này là một thứ bảo hiểm chắc chắn cho hạnh phúc và sự sống đến nỗi ông quên cả cái chết rình rập, bất xét đến phần rỗi đời đời. Ông là kẻ khờ dại vì cứ bo bo giữ lấy của cải cho thật nhiều để tiêu xài, ăn chơi thỏa thích, cung phụng cho bản thân để rồi không biết khôn ngoan dùng của cải mua lấy bằng hữu trong Nước Trời.
Ngày nay có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê rong ruổi chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Chúa Giêsu coi người giàu có này là kẻ khờ dại vì ông không phân biệt được phương tiện và cùng đích cuộc đời; ông không ý thức được mình lệ thuộc vào người khác; ông không ý thức được mình phải lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Thế thì, qua bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Chúa Giêsu không hề lên án người giàu có chỉ vì họ có nhiều của cải, nhưng chỉ cảnh báo những người quá coi trọng tiền bạc, của cải và không biết sử dụng tiền bạc cho đúng. Tiền bạc tự thân không có giá trị đạo đức. Nó có thể sử dụng cho việc tốt cũng như việc xấu. Nó chỉ là phương tiện, một khí cụ, một đồ dùng. Như con dao chẳng hạn, cái làm cho nó tốt hay xấu chính là cách sử dụng. Con dao có thể giúp người mẹ dùng để sửa soạn bữa ăn, hay giúp cho bác sĩ phẫu thuật để cứu sống bệnh nhận, nhưng nó cũng có thể được dùng để sát nhân. Và việc sử dụng tiền bạc cũng thế. Nếu chúng ta sử dụng đúng và tốt, như giúp đỡ anh em khi họ thiếu thốn, hay làm một công việc từ thiện nào đó là chúng ta cứu sống họ, nhưng nếu dùng đồng tiền mà mua chuộc, đút lót với ý đồ xấu là chúng ta đã hại người khác.
Dưới cái nhìn của Chúa, làm giàu một cách lương thiện không phải là xấu, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh em lại là một tội ác, dù có ý thức hay không ý thức, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người khác (người quen biết hay không quen biết). Vậy chúng ta phải trả món nợ thế nào? Câu trả lời thật giản đơn: cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau ốm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống một cách sống khôn ngoan. Người khôn ngoan phải biết đâu là giá trị thật và giả, cái gì trường tồn và nhất thời. Người khôn ngoan biết nhìn sự vật theo bậc thang giá trị: sẵn sàng hy sinh cái tạm bợ để theo đuổi cái vĩnh hằng. Cuộc đời Kitô hữu chúng ta là phải sống siêu thoát, nghĩa là của cải, danh vọng, địa vị, quyền lực, quyền lợi được sử dụng như phương tiện để đạt đến mục đích tối hậu. Kitô hữu chúng ta không miệt thị những thực tại trần thế nhưng hướng tất cả các thực tại trần thế vào việc xây dựng Nước Trời. Thực tại trần thế giúp thăng tiến con người trong xã hội và Giáo Hội. Như thánh Phaolô đưa ra một xác tín cho chúng ta: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta sẽ cùng sống lại với Người. Đức Kitô trở thành Người mẫu, dạy chúng ta sống tốt đạo đẹp đời.

 

19. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm

ĐIỀU LÀM CON NGƯỜI THÀNH VĨNH CỬU
Thu tích kiến thức và học tập những kỹ xảo, tìm cách sở hữu gia tài một cách công bằng, lo lắng để mình hưởng nhàn sau những cố gắng lao nhọc, cũng chỉ là phù vân. Vậy cái gì trường tồn?
Cái chết giúp con người nhận ra chân lý
Trong cuộc đời rao giảng, Đức Giêsu đã gặp nhiều loại người. Có những người tìm đến với Đức Giêsu để nghe Ngài dạy điều hay lẽ phải, nhưng cũng có người muốn nhờ Ngài giải quyết những tranh chấp, cụ thể là vấn đề chia gia tài. Đức Giêsu đã từ chối can thiệp vào những việc này. Tại sao Đức Giêsu lại không giúp anh ta, khi anh ta bị người anh đối xử không công bằng? Phải chăng Đức Giêsu biết rằng Ngài cũng không thành công nếu Ngài can thiệp vào, hay Ngài cho rằng điều đó không quan trọng, và không là sứ mạng của Ngài: “Ai đã đặt tôi làm quan toà hay người trọng tài để phân xử?”? Hơn nữa, Đức Giêsu còn dùng cơ hội này để giúp con người ý thức về “lòng tham” của mình dưới mọi hình thức.
Người giầu có trong đoạn Tin Mừng sở hữu nhiều của cải, tính toán để tích chứa những gì ông ta có do lao động một cách hợp lý hợp pháp, đâu có gì xấu. Thế nhưng Thiên Chúa nói với ông ta: “Đồ khùng, nếu đêm nay anh phải chết, thì kho tàng đó để cho ai?” Điều khùng ở đây là người nhà giầu không biết dùng của cải để giúp người nghèo, để thu tích kho tàng không mục nát và không bị mối mọt đục khoét.
Cái chết, giúp người ta nhận ra chân lý, giúp người ta biết điều mình toan tính thu tích có giá trị thực sự không? Nếu thu tích, bỏ công sức để được cái gì đó, mà cái chết sẽ đến đêm nay huỷ diệt tất cả, thì ích lợi gì?
Tất cả chỉ là phù vân
Sách Giảng Viên cho thấy những suy tư của ông về sự đời. “Lợi lộc gì khi con người phải chịu đựng bao nhiêu gian lao vất vả?” Với Giảng Viên, việc thu góp được bao nhiêu điều khôn ngoan hơn tất cả những người trước, việc phân biệt được đâu là khôn ngoan, đâu là tri thức, điên rồ hay khờ dại, cũng chỉ là phù vân (Gv.1, 16-17).
Khôn lắm cũng khổ, hiểu lắm cũng khổ. Tận hưởng thú vui, nếm mùi hạnh phúc, cũng chỉ là phù vân. “Tất cả đều chết, người khôn cũng như kẻ dại” (Gv.2, 16). Cái chết giúp người ta biết con người là ai, những lao nhọc vất vả của mình có giá trị gì, đâu là điều trường tồn và có gía trị thực sự? Cái chết, là nỗi sợ của nhiều người, nhưng cũng là một quà tặng cho nhiều người, và nó cũng có tính giải phóng con người khỏi u muội mê lầm. Cái chết, là khởi đầu của hạnh phúc.
Đức Kitô là tất cả trong mọi sự
Chỉ một điều quan trọng, điều ảnh hưởng dứt khoát trên cuộc sống con người, là Thiên Chúa và tình yêu của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thương con người, làm những vất vả của con người trở nên có ý nghĩa và trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Đức Giêsu Kitô. Tất cả những gì được thực hiện trong Thiên Chúa và trong Đức Giêsu Kitô, sẽ có giá trị vĩnh viễn.
Hành vi bác ái yêu thương, là hành vi “vĩnh cửu” nhờ Đức Giêsu. “Nếu tôi làm được điều này điều kia, nếu tôi được ơn này ơn kia, mà không có bác ái, thì cũng như tiếng phèng la vang dội, não bạt vang vang”. Yêu thương, là hành vi làm con người trở nên vĩnh cửu, là hành vi làm con người trở nên con Thiên Chúa và nên giống Thiên Chúa.
Đức Giêsu là mẫu gương và thầy dạy con người về yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, điều nào quan trọng nhất đối với người đời? Tại sao?
2. Theo cái nhìn của bạn, điều nào làm hành vi của bạn trở thành vĩnh cửu? Tại sao?
3. Bạn có sợ chết không? Cái chết của những người khác, thường gợi gì nơi bạn?

 

20. Bảo hiểm linh hồn - Lm. Bùi Quang Tuấn

“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12:20)
Nasruddin đang bò gối trên thảm cỏ trước nhà, hình như đang tìm kiếm vật gì. Người hàng xóm của anhta thấy thế bèn cất tiếng: - Này Nasruddin, anh đang tìm gì vậy?
- Tôi tìm chiếc chìa khoá. Nasruddin trả lời.
Thế là người hàng xóm liền tỏ lòng hào hiệp. Anh cùng bò gối trên sân để tìm chiếc chìa khoá cho Nasruddin. Sau một hồi lâu tìm kiếm mà không được, anh hàng xóm ngước mắt lên hỏi: - Mà Nasruddin nè, anh làm rơi chiếc chìa khóa ở chỗ nào vậy?
- À, tôi làm rớt ở trong nhà.
Nghe câu trả lời, người hàng xóm ngẩn ra vì tức: - Rơi ở trong nhà... nhưng tại sao anh lại tìm ở đây?
Nasruddin tỉnh bơ đáp lại: “Bởi vì ở ngoài này sáng hơn, còn trong kia tối quá.”
Thế đấy! Ở trên đời có không ít người đi tìm hạnh phúc, nhưng lại chẳng tìm đúng nơi. Cũng có lắm kẻ đã đến đúng nơi rồi nhưng lại không biết minh nên tìm thứ gì.
Có nhiều người tầm sư học đạo mà tìm mãi không ra, nhưng cũng có lắm kẻ đang ở trong chính đạo, nhưng lại cứ kiếm những thứ gì đâu! Có bao giờ bạn đặt câu hỏi với chính mình: “Tôi đã thuộc về chính đạo chưa? Nếu rồi, thì nơi đó tôi đang muốn điều chi?” Đặt câu hỏi như vậy là để xác định cho mình một mục tiêu, nếu chưa có. Hỏi như thế cũng là để chỉnh đốn hướng đi, nếu như mình đang bước không đúng với tinh thần của đạo.
Khi yêu quí thứ gì thì người ta đâu muốn bị mất mát hư hao. Cho nên nếu có phương cách để bảo vệ, tất họ sẽ không ngần ngại thi hành. Đây là tâm lý chung mà nhiều kẻ nhờ biết khai thác và kinh doanh đã trở nên giàu to. Bao dịch vụ hay công ty mang danh bảo hiểm – insurance – đã xuất hiện để bồi hoàn cho những mất mát hay hư hao đó.
Kết quả là nhiều thứ bảo hiểm xuất hiện: nhà cửa, xe cộ, vật dụng, công việc, sức khoẻ, nhân thọ. Thậm chí còn có bảo hiểm cho cả chó mèo chim chóc trong nhà.
Không có thứ bảo hiểm nào lại không liên quan đến sự sống người ta. Tôi mua bảo hiểm cho chiếc xe, cài nhà, cửa tiệm, bức tranh, chiếc nhẫn kim cương... là vì những thứ đó có dính dáng đến cuộc sống của tôi phần nào.
Nhưng thử hỏi có mấy thứ bảo hiểm người ta đang có mà lại không đụng đến đồng tiền? Phải nói rằng trong thực tế, thứ nào cũng cần có tiền mới mua được. Thành ra để bảo hiểm cho thứ này vật kia, tôi phải nai lưng ra kiếm tiền; để bảo vệ sự sống, tôi phải lo lắng vất vả thức khuya dậy sớm cày thêm tí “job” để có tiền đóng bảo hiểm. Rốt cuộc, tôi đã tiêu hao sự sống để bảo vệ sự sống. Trực tiếp giữ gìn sự sống thân xác trong khi đã gián tiếp đánh mất nó. Mà nhiều khi lại đánh mất trong hãnh diện và tự hào mới khốn chứ!
Quả là phù vân tiếp nối phù vân, hư không trên các sự hư không.
Nếu không thoát được bao sự hư không phù phiếm đó thì tôi sẽ chẳng khác chi gì “người phú hộ giàu có” trong Tin mừng của thánh Luca: gặp năm được mùa, lúc thóc dư tràn, người phú hộ không biết để đâu cho hết. Sau nhiều hôm trằn trọc băn khoăn, cuối cùng ông tìm được một kế: phá quách các kho nhỏ, đóng một kho thật lớn để chất tất cả tài sản thóc gạo vào đó. Thế rồi, khi mọi sự hoàn tất, được bảo đảm bởi một kho lẫm chắc chắn, ông phú hộ mới nói với linh hồn: “Hãy ăn đi, uống đi, hãy nếm cho thoả thích mùi đời đi, hỡi linh hồn của ta.”
Nhưng bất thần có tiếng Chúa phán: “Đồ ngốc,ngay đêm nay người ta sẽ đòi lại hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ kia sẽ để lại cho ai đây?” (Lc 12:16-21)
Mới đọc qua dụ ngôn, không ít người thắc mắc: một kẻ làm ăn cần cù, có lẽ không gian dối lừa gạt bóc lột ai, nhưng sao lại bì kết án “đồ ngốc” nặng nề như vậy? Thế nhưng, suy nghĩ một chút người ta sẽ phải công nhận người giàu có kia đã phạm phải ba lỗi lầm chứng tỏ ông ta ngốc thật.
Lỗi lầm thứ nhất: ông tưởng của cải vật chất là yếu tố căn bản có thể mang lại sự sống cho linh hồn, một hữu thể vô vật chất. Ông ngây ngô khi nói với linh hồn mình hãy cứ ăn uống những thứ mà ông thu tích được kia.
Lỗi lầm thứ hai: ông phá được các kho lẫm ích kỷ nhỏ nhoi của mình để rồi xây lại một cái khác to lớn hơn.
Phải chăng trong thực tế cũng có không ít người phá được hầu bao của mình để dâng cho Chúa một chút tiền công đức thì lại cứ muốn tên tuổi được khắc ghi trên bia đồng hay bia đá, hoặc có những người vừa thoát được cái thế giới thầm lặng khép kín của mình để ra đóng góp cho cộng đoàn tha nhân thì lại xây ngay một cái kho khác lớn hơn: cái kho của tự cao tự phụ – “mọi người phải biết đến phần đóng góp của tôi, nếu không thì tôi rút lui.”
Đó không phải là nẻo đường chân chính của Phúc âm. Trái lại, theo tinh thần Kitô giáo, phá kho là để trao ban cho người chứ không phải xây lên kho khác để rồi lại tích lũy cho mình.
Điều lầm lẫn thứ ba của người phú hộ là chỉ biết hướng về những sự dưới đất, những chuyện thế gian, những phạm vi thân xác, và thiếu quan tâm đến những thiêng liêng hay cuộc sống mai sau.
“Người ta sẽ đòi linh hồn ngươi.” Câu nói này đã bộc lộ một chân lý: Đến giờ chết thân xác sẽ tiêu tan, trở về với cát bụi, chẳng ai còn tha thiết với nó. Những gì sẽ được đem đi chính là linh hồn. Cho nên thật là khờ dại khi chỉ tích trữ, trang điểm, vỗ béo cho thân xác mà quên mất hay coi nhẹ việc tô điểm hoặc bảo hiểm cho linh hồn.
“Người ngốc” được nói đến trong Phúc âm là kẻ chỉ biết có hiện tại, tìm kiếm và hưởng thụ những giá trị hữu hình.
Người khôn ngoan chính là người sống trong hiện tại nhưng biết hướng về tương lai, ở trong thế giới hữu hình nhưng luôn chuẩn bị cho mình những giá trị và tài sản vô hình thiêng liêng.
Người khôn ngoan “khi còn sống trên địa cầu biết kiềm chế các chi thể là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là những sự thờ quấy... (cùng với) nóng giận, gắt gỏng, thâm độc, chửi rửa, thô tục” (Col 3:5,8)
Người khôn ngoan là người biết rằng không có gì quí bằng linh hồn, không có gì quan trọng cho bằng sự sống mai sau với Đức Kitô. Từ chỗ nhận biết này người khôn ngoan sẽ lo việc bảo hiểm linh hồn của mình nhiệt thành hơn.
Có rất nhiều phương cách để giúp bảo hiểm linh hồn, nhưng có một phương cách mà ai chịu khó đầu tư cũng đều nắm chắc phần thắng. Đó là cầu nguyện. Thánh Anphongsô từng khẳng định: “Ai cầu nguyện nhất định được rỗi linh hồn.” Bởi vì qua cầu nguyện, người ta sẽ vững bước trên con đường tiến về Thiên Chúa


 

21. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:
1. Sự sống của con người phải chăng chỉ là những sinh hoạt của thân xác với những nhu cầu vật chất và tinh thần thông thường? Còn có gì khác nữa?
2. Muốn sống cho phong phú, tràn đầy, hạnh phúc, phải sống thế nào?
3. So sánh hạnh phúc trong đời sống của thân xác và trong đời sống tâm linh, ta thấy có những điểm khác biệt căn bản nào? (đặc biệt về tính lâu bền)
Suy niệm
1. Sự sống duy nhất nhưng có nhiều mặt nơi con người
Điều quan trọng nhất đối với con người là sự sống. Sự sống là một thực tại duy nhất nhưng có nhiều mặt, có thể phân loại và sắp xếp theo thứ tự từ cụ thể đến trừu tượng như sau:
* Sự sống tự nhiên hay trần thế, là sự sống có thể bị hủy hoại (nay còn mai mất), lệ thuộc vào những cái chóng qua, những cái dễ bị thay đổi, vào những điều kiện của thời và không gian của trần thế, gồm:
a) Đời sống thể chất: liên quan nhiều đến thể xác, cần được nuôi dưỡng bằng vật chất, đồ ăn thức uống, tiền bạc, tiện nghi, sắc dục, v.v…
b) Đời sống tinh thần: liên quan đến những khía cạnh tinh thần của thể xác, như tri thức, tình cảm, ý chí, sở thích, tự do, danh vọng, quyền bính, cần được nuôi dưỡng bằng học hỏi, hiểu biết, tình yêu, lời khen, địa vị, quyền lực, điều kiện và khả năng làm theo sở thích, v.v…
* Sự sống siêu nhiên hay tâm linh: là sự sống khó bị hủy hoại nơi bản thân, liên quan nhiều đến linh hồn, đến những thực tại bất tử, siêu việt, siêu thời gian và không gian; được thể hiện thành khát vọng đạt tới Chân Thiện Mỹ, vươn tới Tuyệt Đối; được nuôi dưỡng bằng sự tiếp xúc, tương giao với Tuyệt Đối, với những thực tại siêu việt, bằng những tâm tình hay ý tưởng cao thượng, bằng tình yêu phổ quát mang tính dâng hiến (tức lòng bác ái đích thực). Đây là sự sống của chính Thiên Chúa mà Ngài đã thông ban cho con người khi nâng con người lên hàng con cái Ngài.
Đó không phải là những sự sống khác nhau, biệt lập nhau, mà là những phương diện hay hình thức sống khác nhau của một sự sống duy nhất. Những phương diện ấy quyện lấy nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, và có thể phát triển với mức độ khác nhau tùy từng người.
2. Hiện nay, người ta quá quan tâm đến đời sống trần thế mà quên đi đời sống tâm linh
Phương diện của sự sống mà con người cảm nghiệm được dễ dàng nhất là đời sống thể chất, vì đó là những gì cụ thể, thấy được, sờ được, cảm nhận được. Vì thế, với những người suy tư còn thấp kém, sự sống chủ yếu chỉ là thể chất, với ham muốn ăn ngon mặc đẹp, nhiều tiền bạc, nhà cao cửa rộng, tiện nghi đầy đủ Với những người suy tư cao hơn, đời sống còn là tinh thần, với ham muốn học hỏi, yêu thương, có danh tiếng, địa vị, quyền lực…
Còn đời sống tâm linh, chỉ những ai phản tỉnh cao, sống nội tâm sâu xa, mới cảm nghiệm được sự sống này ở nơi mình, với những nhu cầu cũng rất cấp thiết đòi hỏi phải được thoả mãn của nó: nhu cầu vươn lên đỉnh cao Chân Thiện Mỹ, trở nên một với Tuyệt Đối hay Thiên Chúa là nguồn tình yêu và cũng là sức mạnh vô biên của mình, nhu cầu xả thân, quên mình, làm cho mọi người nên tốt đẹp và hạnh phúc. Họ cảm thấy đời sống phong phú và ý nghĩa hơn, hạnh phúc cũng tăng lên rất nhiều khi thực hiện và thỏa mãn được những nhu cầu ấy. Đời sống tâm linh phát triển mạnh khi con người biết quên mình, sống tinh thần «tự hủy», không còn sống cho bản thân mà sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Đời sống thần bí là một dạng của đời sống tâm linh cao, có cảm nghiệm tương đối rõ rệt về Thiên Chúa và những thực tại siêu việt hay thần linh.
Cũng có rất nhiều người chỉ nghe nói về đời sống tâm linh chứ không tự mình cảm nghiệm được, nên tin có đời sống tâm linh, và đã có những sinh hoạt có vẻ tâm linh, như đọc kinh, cầu nguyện, đi lễ, bên ngoài giống như những người đã cảm nghiệm được đời sống tâm linh. Nhưng vì vẫn tiếp tục chạy theo đời sống thể chất, không đầu tư cho đời sống tâm linh, nên đời sống tâm linh của họ không phát triển được.
Hiện nay, do văn minh thế giới phát triển theo hướng vật chất với những thành tựu của khoa học trên vật chất, nên đời sống vật chất lên cao hẳn so với đời sống tâm linh. Vì thế, đối với rất nhiều người, sự sống bị giản lược vào những sinh hoạt thể chất và tinh thần. Họ chỉ biết lo cho đời sống trần thế của mình được trù phú sung túc, mà quên đi hoặc không biết tới những nhu cầu tâm linh, khiến cho đời sống tâm linh của họ nghèo nàn, kém phát triển. Thực ra, đời sống tâm linh có phát triển thì sự sống mới trở nên dồi dào, phong phú. Đức Giêsu đến là để giúp con người đạt được sự sống đó: «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10).
3. Thiếu đời sống tâm linh, con người không thật sự hạnh phúc
Con người là một sinh vật cao cả, được dựng nên giống Thiên Chúa và theo hình ảnh của Ngài (St 1,26). Vì thế, con người không chỉ có đời sống tự nhiên hay trần thế, mà còn có đời sống tâm linh hay siêu thế, là sự tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa. «Sống dồi dào» theo tinh thần của câu Tin Mừng Ga 10,10 là sống đầy đủ mọi chiều kích của sự sống con người. Vì thế, khi con người chỉ sống trong những chiều kích thấp của sự sống, thì con người cảm thấy không hạnh phúc lắm. Hơn nữa, nếu hoàn toàn đắm chìm và bị thu hút trong những «cảnh giới» thấp ấy, không hề có nỗ lực vươn lên «cảnh giới» cao hơn, con người sẽ cảm thấy chán chường, đau khổ, cho dù trong những cảnh giới thấp ấy đời sống có đầy đủ đến đâu chăng nữa. Chúng ta đã từng nghe nói có những siêu sao màn bạc, thành công tột đỉnh cả tiền tài, tình cảm lẫn danh vọng, nhưng vẫn thấy tâm hồn trống rỗng, buồn chán đến nỗi không chịu nổi phải tự vẫn. Chúng ta cũng nghe nói: những nước có phân xuất tự tử cao nhất thế giới lại là những quốc gia có đời sống vật chất cao nhất, bảo đảm nhất ở Bắc Âu. Điều đó chứng tỏ hạnh phúc đích thực và sự đầy đủ tinh thần lẫn vật chất về mặt trần thế không luôn luôn đi đôi với nhau. Để hạnh phúc đích thật, con người cần có một đời sống tâm linh phát triển.
4. So sánh giữa sự sống trần thế và sự sống siêu thế
Sự sống thần linh ở trong ta mới là cái quí nhất, tồn tại mãi. Còn sự sống trần thế dù là thể chất hay tinh thần, hay dù có lên cao đến đâu, cũng đều chóng qua và hết sức giả tạm: chỉ cần một biến cố cũng đủ làm thay đổi, làm mất đi phần nào hay tất cả. Vì thế, giá trị của nó không thể sánh được với giá trị của đời sống tâm linh hay thần linh. Tin Mừng nói: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?» (Mt 16,26).
Thử so sánh giữa hai phương diện ấy của sự sống ta thấy: sự phong phú của sự sống trần thế hết sức bấp bênh. Biết bao người giầu có với nhà cao cửa rộng, ruộng vườn ngàn mẫu, và địa vị quyền thế không phải nhỏ. Nhưng chỉ cần một cơn bệnh, một cuộc đổi đời, một tai họa, một vụ trộm hay cướp… cũng có thể trở thành trắng tay, thậm chí vào tù, hoặc lâm vào cảnh rất đau khổ, v.v… Để sự sống trần thế của mình trở nên phong phú, nhiều khi ta phải đánh đổi: phải thất đức, phải làm cho người khác nghèo khổ, mất địa vị, thậm chí chết hoặc đau khổ tột cùng. Người ta vẫn nói: «vi phú bất nhân». Sự thất đức luôn luôn có hậu quả hết sức tai hại cho đời sống tâm linh và đời sống hậu thế (sau khi chết). Sự sống trần thế có phong phú tới đâu thì cũng chỉ kéo dài nhiều lắm là một đời. Tới lúc chết, phải buông bỏ hết và ra đi với hai bàn tay trắng. Tiền bạc, quyền lực, địa vị mình làm nên không đem theo được, mà phải hoàn toàn bỏ lại cho người khác, như sách Giảng Viên trong bài đọc I nói: «Có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng chỉ là phù vân và lại là đại hoạ» (2,21).
Còn đời sống tâm linh, chỉ những ai đã hưởng nếm được, mới cảm nhận được sự ngọt ngào và hạnh phúc của nó. Vì đời sống tâm linh không tùy thuộc vào những thực tại bấp bênh và chóng qua của trần thế, mà liên quan tới những thực tại siêu việt, siêu không gian và thời gian, nên thành quả và hạnh phúc của nó lâu bền, không ai lấy mất được. Hạnh phúc ấy không tùy thuộc vào những hoàn cảnh đổi thay bên ngoài. Chính vì thế, một người có đời sống tâm linh cao vẫn có thể hạnh phúc trong những nghịch cảnh: nghèo nàn, tù đày… Họ có thể nghèo mà không khổ, bị tù mà tinh thần vẫn tự do, thoải mái, tự tại. Thiết tưởng mọi người Kitô hữu, là những người tin vào Chúa, vào những thực tại siêu việt, đều phải có đời sống tâm linh cao, nhờ đó, đời sống họ luôn luôn hạnh phuc, bất chấp những hoàn cảnh thay đổi có lợi hay bất lợi.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban cho con sự sống thần linh của Cha như một mầm sống mà con phải nuôi dưỡng và phát triển trong con. Vì thế, xin cho con biết quan tâm đến sự sống ấy trong con, và sẵn sàng làm tất cả để nuôi dưỡng và phát triển sự sống ấy. Amen.

 

22. Lòng ham hố của cải - R. Gutzwiller

Đề nghị dân chúng phải đề cao cảnh giác khỏi men Biệt phái, coi chừng họ, xem ra còn quá dễ, vì đó là đề phòng người khác; việc đề cao cảnh giác nói sau đây khó thực hiện hơn: đó là lời cảnh tỉnh nói với mỗi người, vì cái tham vọng lo tích luỹ ky cóp, ít nhiều gì cũng chi phối cuộc sống con người.
1. Đầu đuôi câu truyện
Có người đến xin Chúa Kitô chia gia tài dùm. Anh của hắn –có lẽ là anh cả- là người thừa kế chính thức, nên hắn phận em lo mình phải thiệt thòi. Hắn xin Chúa như vậy có lý lắm. Vì là con cùng cha, mà bị xử tệ như vậy sao?
Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn từ chối không giải quyết. Xét cho cùng những thỉnh nguyện của bạn trẻ này hợp lý lắm, nhưng chỉ vì hắn bận tâm lo lắng quá về truyện đó. Cuộc đời hắn để cho vật chất đóng vai trò lớn quá. Hắn khó hội ý được những lời kỳ diệu của Chúa Kitô về nước Thiên Chúa, một thế giới linh thiêng và tình yêu Thiên Chúa. Hắn đã bị daỳ vò bởi quá lo lắng đến công kia việc nọ mà chẳng hề nghĩ đến những lý tưởng cao hơn. Đó là tình trạng cũng thường thấy thôi.
Nhiều người ‘cũng’ quan tâm đến việc đạo (thậm chí còn quan tâm nhiều nữa) nhưng thực ra đối với họ việc đó chỉ là thứ yếu. Họ chấp nhận việc đạo vơí điều kiện họ còn thời giờ, còn sức lực, khi đời sống vật chất còn được bảo đảm. Trước hết phải là kế sinh nhai, làm ăn sinh sống, của ăn áo mặc, thể thao giải trí rồi mơí nói đến đạo nghĩa. Vì chẳng những vấn đề đạo nghĩa làm mất biết bao thì giờ mà còn phải chú ý và mất sức lực nữa.
Cho nên, những việc tôn giáo đó, gác lại đến những ngày cuối đời –không hẳn là lúc gần chết-. Đàng khác, có những người coi yếu tố kinh tế như nguyên nhân gốc và ưu thắng của mọi cuộc biến hoá đến nỗi việc thiêng liêng –thậm chí cả tôn giáo- xem ra chỉ là cái phụ trội, thêm thắt không hơn, không kém (nếu không muốn nói là dư thừa hoặc nguy hại nữa)…
Tư tưởng đó đã nhiễm vào lãnh vực tinh thần: một số người công bố rằng con người hãy lo bảo đảm đời sống vật chất trước đã, rồi sau đó mới nói đến nước Chúa. Còn Tin mừng thì đã mang một thứ ngôn ngữ khác hẳn.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu
Chúa trả lời rât minh xác: ‘Vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải đảm bảo cho đâu’. Những lời này được coi như một chủ đề được phát biểu gắt gao và mang hai ý tưởng.
Trước nhất những của cải vật chất không bảo đảm cho đời sống. Điều này ngày nay là một thực tế trước mắt. Việc phát triển kinh tế đã hoàn toàn rút mất khỏi cá nhân khả năng định đoạt số mệnh.
Cá nhân lệ thuộc vào chủ mình; và ông chủ, chính ông cũng lại tuỳ thuộc vào những tương giao kinh tế qui mô của khu vực, mà khu vực kinh tế lại tuỳ thuộc vào miền Kinh tế. Và cứ thế miền kinh tế vượt khỏi ranh giới xứ sở và đại lục.
Như thế vận mệnh mỗi người nằm trong tay người khác và những thế lực vô danh không có chút khả năng cạnh tranh. Ngoài cái bấp bênh về mặt kinh tế, còn có cái bấp bênh trên thực tiễn vì vào thời đại chúng ta, cuộc chiến nào cũng mang những chiều kích vĩ đại và đưa đến biết bao đổ nát hoang tàn và tai ương khốn khó khiến hàng triệu người phải mệnh số. Không còn chi là an toàn chắc chắn cả.
Thật rất nực cười: chính vì coi vật chất là nhất mà đánh mất đi sự an toàn đó; bởi vì những hiệp ước, khế ước, bảo đảm, trách nhiệm và lương tâm là những thực tại tri thức thực tế hôm nay đã biến dạng, vì vật chất đã làm mất ý nghĩa và bản chất đích thực của những cái đó.
Chỉ có những lợi điểm và sức mạnh vật chất là đáng kể: khi vật chất làm chủ thì người ta thường hay cười trừ làm lơ với những rắc rối lương tâm, đạo đức và luật pháp.
Thứ đến, dù cá nhân được đảm bảo về mặt của cải song không phải vì thế mà cuộc sống thực danh được bảo đảm đâu.
Bằng một ví dụ, Chúa Kitô phản ảnh ý tưởng này thật rõ rệt. Ngài trình bày một người không thiếu gì cả. Ruộng vườn sinh lợi dư thừa, vừa hoàn thành kho lẫm mới, mùa màng được nhiều đem chất vào đó. Thế là không lo mất mát, tổn hại gì nữa.
Hắn được toàn quyền định đoạt mọi sở hữu của mình, tức là hắn biết cái ưu tiên hy hữu của sự an toàn thực sự vật chất. Tuy nhiên đó chỉ là ảo tưởng, vì cái chết là một sức mạnh không thể kháng cự.
Do đó, vào giờ đã định, hắn bó buộc phải từ bỏ những thứ hào nhoáng giả dối kia và dù muốn dù không cũng phải trút bỏ hết khi xuôi tay nằm xuống, trước mặt Chúa mọi sự đều bị phơi trần. Phán quyết Thiên Chúa sẽ nói hắn là kẻ ‘điên rồ’. Hắn tưởng mình có quyền sở hữu tất cả và ròi quá hiển nhiên là hắn chẳng giữ được chi hết vì chẳng mang theo được chi. Tất cả những thứ hắn có thực chẳng giá trị gì. Và cái hắn phải lo tìm kiếm, thì hắn lại không có.
Thực ra, cuộc đời hắn đã đến lúc suy sụp cả phần vật chất lẫn tinh thần. An toàn đảm bảo chỉ tìm được nơi Thiên Chúa thôi, đó là điều Chúa muốn giải thích trong phần cuối dụ ngôn. Đức Giêsu khuyên bảo hãy làm giầu cho Thiên Chúa.
Những kho tàng ân sủng thiêng liêng và những công nghiệp con người chu toàn bằng việc hợp tác với Chúa: những cái đó mới đáng kể. Cái chết vẫn là tiêu chuẩn tất yếu của tính xác thực ấy. Khi những gì thuộc phàm trần qua đi thì những gì thuộc về Chúa sẽ tồn tại. Trò chơi cao giá này người ta chỉ thắng cuộc khi nhắm đến Thiên Chúa.
Thật là điên rồ cho ai chỉ bù đầu suốt đời vào những cái phàm tục. Người khôn ngoan là người biết vượt qua của cải phù vân để nghĩ tưởng đến vĩnh cửu. Chỉ có ai biết tích luỹ tất cả những gì chắc chắn và cất giữ nơi kho cuả Chúa mới bảo đảm được cuộc sống bất diệt.

 

23. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY
Sau khi Chúa Giêsu nói chuyện riêng với các môn đệ, đám đông nhắc đến sự hiện diện của Ngài (xc.1). Tiếp theo một lời thỉnh cầu, Chúa Giêsu cho biết thái độ phải có đối với của cải đời này, trong khi đề phòng thính giả khỏi mọi thứ tham lam (c.13,21). Tiếp theo là một cuộc nói chuyện riêng lần thứ hai với các môn đệ kéo dài tới 12, 53. Đề tài thứ nhất kéo dài giáo huấn cho đám đông nhưng nhấn mạnh vào một điểm khác: từ lòng tham lam Chúa Giêsu nói đến sự lo lắng cho ngày mai (cc.22-34) –một tình cảm ăn rễ sâu trong con người.
Nói với dân chúng: Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam
Một người xin Chúa Giêsu can thiệp giúp trong vấn đề chia gia tài. Anh ta gõ lầm cửa rồi, vì Chúa Giêsu đâu phải là một Kinh sư như các vị khác mà vai trò chính là để lo những công việc luật pháp. Nhiệm vụ của Chúa Giêsu là loan báo Tin Mừng của Vương Quốc và kêu gọi người ta hoán cải; như vậy nhiệm vụ đó tác động tới tận gốc rễ của việc tranh chấp giữa hai anh em (cc.13-15); cho nên Ngài từ chối đóng vai trò mà người kia yêu cầu, rồi Ngài nói với đám đông. Vượt quá sự nhắc nhở của Lề Luật (“Ngươi không được thèm muốn nhà của người bên cạnh” Xh 20,17), đó là một cảnh giác chống lại mọi tham lam vô độ muốn chiếm hữu thêm hay là chiếm hữu hơn cả cái cần dùng. Một câu ngạn ngữ đưa ra lý do: của cải vật chất không cho ta được một sự an toàn đích thực; cuộc sống không được đảm bảo bởi có dư dật của cải (x. đã có ở 9, 25). Người ta sẽ hiểu rằng từ chối xử kiện hay chia gia tài không có nghĩa là Ngài chấp nhận trên thực tế một sự bất công.
Dụ ngôn về người phú hộ ngu ngốc là một minh hoạ cho điều này (cc. 16-21). Là địa chủ, ông quyết định nới rộng kho lẫm để chứa hoa màu thu bội và như vậy có thể dự trữ cho riêng ông, và ông có thể nghỉ ngơi một cách an toàn trong nhiều năm. Vậy thì ông sẽ phá những kho lẫm cũ quá nhỏ bé, nhưng có thể là rất hữu dụng cho người khác… Hoàn toàn hướng về một thực hiện ích kỷ chỉ nhắm vào đời sống hiện tại, ông ta không quan tâm đến cái chết, cái chết của chính ông, trong khi giải quyết vấn đề của ông. Trong việc đó, ông ta tỏ ra ngu ngốc, bởi vì Thiên Chúa, chủ tể sự sống, sẽ thu hồi sự sống của ông, ngay trong đêm đó; con người này đã thiếu khôn ngoan khi không tìm kiếm cho mình một hạnh phúc vững bền. Ở câu 21, phần áp dụng dụ ngôn cảnh giác ta về một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Thực ra, phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa; tuy còn một ít khó hiểu, bài học này sẽ được làm sáng tỏ một cách đầy đủ bởi kết luận của toàn bộ phần khai triển ở câu 33-34.

 

24. Chú giải của Noel Quesson

Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau... Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.
Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
1. Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.
2. Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một “ẩn ngữ, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ, Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
3. Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”. Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”.
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính “sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình… Mình… Mình sẽ làm... mình sẽ phá... mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình... kho lẫm của mình... thóc lúa của mình... chính bản thân mình...”.
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại “nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại” người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố (Lc 6,39). “Điên” ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc 12,33-34).

 

25. Chú giải của Lm Vũ Phan Long

MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT
Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn Ông phú hộ.
1.- NgỮ cẢnh
Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu của một người trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và người anh liên hệ đến chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kể Dụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng cho bản thân đến những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).
2.- BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Một vụ kiện (12,13-15);
2) Dụ ngôn Ông phú hộ (12,16-20);
3) Nhận định kết luận của Đức Giêsu (12,21).
3.- Vài điỂm chú giẢi
- Thưa Thầy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến trong Bộ Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11; 36,7-9), một vị tôn sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là những con người thích hợp để tham vấn.
- Này anh (14): Dịch sát là “này người” (hô-cách của anthrôpos, “người”; x. 5,20). Từ này thường được dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè dặt.
- tham lam (15): Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl 3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây là sự ham muốn có thêm nữa, quá mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).
- Thiên Chúa bảo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp xếp chương trình sống không có Ngài.
- ngốc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).
- người ta sẽ đòi lại mạng ngươi (20): Động từ aitousin ở ngôi thứ ba vô định số phức tương đương với một thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ đòi lại mạng ngươi”.
- cho mình (21): nghĩa là không phải cho người khác, như người nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).
4.- Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Một vụ kiện (13-15)
Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là một người em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và thụ hưởng chung gia tài, nên muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức Giêsu dứt khoát từ chối can thiệp. Yêu cầu của người ấy và yêu cầu của Đức Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần sở hữu độc lập. Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói về tương quan của con người với của cải. Chính các tranh chấp về gia tài thường đưa ra ánh sáng một liên hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.
* Dụ ngôn Ông phú hộ (16-21)
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là một tính toán sai lầm.
Theo một quan niệm nào đó về cuộc sống, hoàn cảnh Đức Giêsu phác ra có thể coi là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải quyết. Như thế, ông này có trong tay các phương tiện để sống một cuộc sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do sống theo ý thích, trong sự sung túc.
Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngột đảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều năm trời. Tất cả những gì đã thu tích được và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Một người sống như thế thì không giàu có trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu khẳng định rằng để đạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan Thiên Chúa.
* Nhận định kết luận của Đức Giêsu (21)
Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được mức thành toàn nhờ các của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.
+ KẾt luẬn
Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu là điều quan trọng nhất? Ta có thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộc đời? Đức Giêsu nói rõ ràng các của cải vật chất không thể đảm bảo cho cuộc sống và sự sung túc, thoải mái, không thể là nội dung của cuộc sống được. Sự thành toàn chỉ được một mình Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình trước mặt Ngài.
5.- GỢi ý suy niỆm
1. Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng, mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên ngoài các giá trị này, còn những giá trị và mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?
2. Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y khoa. Người ta ít nghĩ tới nó chừng nào tốt chừng đó. Người ta tránh để cho lòng mình bị xúc động trước cái chết của người khác. Dĩ nhiên người ta vẫn không tránh được cái chết. Do đó, người ta phải khai thác tối đa thời gian của cuộc sống được ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó, người ta có thể “đạt thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi. Người ta có thể không nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực. Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.
3. Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại tình yêu. Chỉ cuộc sống nào nhắm đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân thì mới là cuộc sống trung thực. Chỉ một cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận và được Ngài đưa đến chỗ thành toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta cũng phải nhận cả ý nghĩa của đời sống từ Ngài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện nghi, mà là tình yêu.