Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN -
C
Is 66, 10-14c; Gl 6, 14-18; Lc
10, 1-12.17-20
1. Bình an của Chúa.
Ngày kia có một người đậu xe bên lề đường,
rồi vào trong một cửa hàng để mua sắm mấy thứ cần thiết, khi quay trở ra thì thấy
trên ghế ngồi có một mẩu giấy với hàng chữ: Thưa ông, tôi đã tính ăn cắp chiếc
xe hơi này, nhưng tình cờ đọc thấy lời cầu phúc “Bình an cho quý bạn”, được dán
trên tấm kính. Lời cầu chúc này khiến tôi dừng lại và suy nghĩ. Tôi tin chắc nếu
tôi ăn cắp chiếc xe này, thì hẳn ông sẽ không còn được bình an và chính tôi
cũng vậy. Vì đây là lần đầu tiên tôi ra nghề. Tôi cũng cầu chúc bình an cho ông
và cho cả tôi nữa.
Câu chuyện ngộ nghĩnh trên đây khiến chúng
ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Khi vào bất cứ nhà nào, trước
tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này. Nếu ở đó có người yêu chuộng sự bình
an, thì sự bình an sẽ ở lại trên người ấy, bằng không sự bình an sẽ trở lại với
các con.
Áp dụng lời phán dạy này và câu chuyện
trên, chúng ta thấy rằng: Tấm bảng gắn trên kính xe đã đem lại sự bình an của Đức
Kitô cho kẻ đang dự tính ăn cắp xe. Kẻ ăn trộm này là người yêu chuộng sự bình
an của Đức Kitô, nên sự bình an đã ở lại trên anh ta. Vậy đâu là sự bình an của
Đức Kitô?
Kinh Thánh thường dùng danh từ bình an với
bốn ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, trên bình diện quân sự thì bình an
ám chỉ một tình trạng không có chiến tranh giữa các dân tộc. Ý nghĩa thứ
hai trên bình diện cá nhân, thì bình an ám chỉ tình trạng yên ổn của từng
người. Ý nghĩa thứ ba trên bình diện tôn giáo, thì bình an là mối
liên hệ tình nghĩa tốt đẹp giữa Thiên Chúa và chúng ta. Cuối cùng,
bình an còn được Kinh Thánh dùng để nói lên tình trạng trong đó mọi người trên
mặt đất sống hoà thuận với Chúa, với người khác và với chính bản thân.
Đây là sự bình an mà Chúa nói đến khi Ngài
tuyên bố: Ta để lại sự bình an cho các con, Ta ban sự bình an của Ta cho các con.
Đây cũng chính là sự bình an mà các thiên thần đã cầu chúc trong đêm Giáng
sinh: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Sự
bình an này chẳng la gì khác ngoài việc thực thi Nước Chúa trên trần gian. Để
thực hiện sự bình an này, Đức Kitô đã xuống thế làm người để hoà giải con người
với Thiên Chúa cũng như hoà giải con người với nhau. Bởi vì sự bình an đích thực
phải là kết quả của sự hoà giải.
Như thế, để có được sự bình an của Chúa,
chúng ta cũng phải sống tinh thần hoà giải. Có được sự bình an trong tâm hồn mà
thôi chưa đủ, Đức Kitô còn muốn chúng ta mang sự bình an này đến cho những người
chung quanh chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta hãy cầu nguyện như lời kinh của
thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ bình an của
Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem
an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Bởi vì như lời Chúa đã
phán: Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
2. Vào nhà, vào thành phố
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%. Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần
thợ gặt.
Đức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn
đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi
trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn
minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Đức Giêsu cần vào.
Đưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng
ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào
được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở, vừa
cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào. Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành
phố của bạn, vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty... Hãy chuẩn
bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc
đó.
Đâu là khuôn mặt của người được sai hôm
xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy
dép, bao bị. Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn. Tôn trọng tự do tha
nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông
đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế
giới mai sau, phải có khả năng nâng con người lên Đấng Tuyệt Đối.
Đâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ, vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm. Cả hai đều đem lại
niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình. Chúng ta sẽ rao giảng gì cho
97% dân Châu Á mà phần đông đã tin vào một Đấng Cứu Độ?
Đức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc
biệt nào? Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều
nơi các tôn giáo Á Châu. Các giám mục Malaysia,
Singapore và Brunei đã liệt
kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi
giáo. Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo. Học từ bỏ của cải và trọng
sự sống nơi người Phật tử. Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo
Khổng. Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Đức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ
Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho
dân tộc Việt Nam,
người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những
phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã
làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với
niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người
bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng
tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của
bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà
vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng
lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
3. Anh em hãy ra đi.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là
nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; Không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà
là mọi người thuộc mọi dân nước.
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi
Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến
với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước
Thiên Chúa đã đến gần anh chị em.
Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà
này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền,
bao bị, giày dép.
Một việc phải làm: chữa lành những người ốm
đau.
Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu
thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài
sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi
khác.
Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn
bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần,
và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn
áo, sẽ có ví tiền và máy vi tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại.
Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề.
Hành trang không được trở thành những cản
trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những
người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời,
đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài
để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè, thực sự đáp ứng những khát khao thầm
kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình
huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa
dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang
nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên
họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người
bình thường và yếu đuối.
Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng
và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất
này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn trở thành tông đồ cho người trẻ hôm
nay, theo ý bạn, cần có những điều kiện gì?
Satan và sự ác vẫn hoành hành trên thế giới
và trong từng tập thể. Chúng ta phải làm gì để chống lại? Bạn có thấy bóng dáng
của Satan trong đời bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những
phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã
làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm
vui, như người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn
thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng
tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của
bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà
vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng
lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
4. Truyền giáo
Có một linh mục người Mỹ thuộc dòng Tên, giảng
dạy tại một trường đại học Công giáo nổi tiếng tại Phi Luật Tân. Ngày kia, tình
cờ vị linh mục này đi vào một khu xóm lao động nghèo nàn và gặp một tu sĩ Tiểu
đệ người Bỉ. Sau một hồi trao đổi, linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ người Bỉ như
sau: Anh ở đây làm gì vậy. Tu sĩ người Bỉ trả lời: Tôi đi chợ, nấu ăn, giặt giũ
quần áo, tôi sống với những người anh em nghèo trong khu xóm lao động này. Nghe
thế vị giáo sư người Mỹ có lẽ như tiếc rẻ cho sự hy sinh lãng phí ấy, nên mới
nói về mình như sau: Tôi sang đây là để dạy học và thuyết trình, tôi đi đây đi
đó, tôi đào ạo những con người hữu ích cho xã hội.
Qua cuộc đối thoại này, có lẽ chúng ta thấy
được những khía cạnh khác nhau của việc truyền giáo trong Hội Thánh. Vị linh mục
người Mỹ trên đây là điển hình cho một đội ngũ đông đảo các nhà truyền giáo của
Hội Thánh trên khắp thế giới, từ thành thị đến nông thôn, từ học đường đến công
sở. Nếu có những nhà truyền giáo hăng say hoạt động rao gảing thì cũng có những
nhà truyền giáo âm thầm, sống như những chứng nhân. Tựu trung, hoạt động hay sống
âm thầm, cả hai hình thức đều có chung một sứ mạng, đó là làm chứng cho Đức
Kitô và nước của Ngài. Cả hai đều được sai đi, cả hai đều bị ràng buộc bởi một
đòi hỏi giống nhau, đó là làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát.
Đây là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu đã
đề ra cho các môn đệ khi Ngài sai các ông lên đường rao giảng Tin Mừng. Ngài nói
với các ông: Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, áo xống, giày dép và đừng
chào hỏi ai dọc đường. Một cuộc sống siêu thoát, không lệ thuộc
vào của cải trân gian, đó là biểu hiện tiên quyết cho chứng nhân Nước Trời.
Ra đi không hẳn là rời bỏ quê hương của
mình để đến những miền đất xa lạ, nhưng chủ yếu là ra khỏi chính mình,
ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân trong tinh thần hoà giải,
yêu thương và phục vụ. Đó là ý nghĩa của mệnh lệnh Chúa truyền: Vào nhà nào trước
tiên các con hãy nói: bình an cho nhà này. Hiện diện giữa tha nhân, hiện diện với
tha nhân bằng tinh thần chia sẻ, cảm thông và tha thứ, đó chính là sự ra đi
đích thực của nhà truyền giáo. Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo.
Là thành phần của Giáo Hội, mỗi người tín hữu,
tự bản chất cũng là một nhà truyền giáo. Điều đó có nghĩa là những giá trị của
Nước Trời cần phải được thể hiện trong chính cuộc sống giữa chúng ta. Chúng ta
phải sống thế nào để những người chung quanh nhìn vào sẽ phải thốt lên sự bỡ ngỡ
như những người Do Thái ngày xưa nhìn vào các tín hữu tiên khởi đã phải kêu
lên: Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào.
Bằng lời nói và nhất là bằng cuộc sống dạt
dào yêu thương, chúng ta hãy trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô
giữa lòng cuộc đời.
5. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là
dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều
làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất.
Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà
Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công
việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi
rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72
môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất
cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi
người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc
truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức
sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa
đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư
hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm
kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất
cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi
đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người
dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền
giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban.
Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu
nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh
sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu
nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh
Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức
mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để
ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy
dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những
phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh
của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến
cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những
người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và
nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu
thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm
trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo.
Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa.
Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé,
từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ
mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo
theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người
chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri
Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết
không?
2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công
trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền
giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh
bạn không?
4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền
giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
6. Mênh mông lúa đồng – Thiên Phúc.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn
giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động
trường Los Angeles.
Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt
tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối
dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai
nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que
diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên “Đã thấy!”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller
giải thích: “Anh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng
trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động
lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt,
xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Keller kết luận: “Tất cả chúng ta
hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm
sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Đã qua hơn 2000 năm những lời dạy của Chúa
Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”.
Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á
Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3/o.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang
không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc
của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù; rất cần những đốm sáng của tình thương,
của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói: “Anh
em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh
truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình: Sinh ra ngoài đường, sống và
rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và
không ngừng ra đi. Công đồng Vaticanô II cũng long trọng khẳng định: “Tự bản
tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng qủa
quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào
trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho
mọi dân tộc”
Vậy ơn gọi của người tín
hữu Kitô là “ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc,
bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như
trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần,
nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Khốn cho
thân tôi: nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Nhưng việc làm mới chứng thực cho
lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng,
và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói: “Các ngọn
hải đăng không thổi còi ầm ỉ, chúng chỉ chiếu sáng”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con ra đi
không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, là để chúng con được siêu thoát mà lên
đường, không cậy dựa vào sức riêng hay trần thế, nhưng chỉ phó thác nơi một
mình Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng lên đường,
dám sống chết cho sứ mạng Chúa đã trao ban. Amen.
7. Nghịch lý – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Nghịch lý của thời đại chúng ta đó là:
Đường phố rộng hơn, quan điểm lại hẹp hòi
hơn
Chúng ta giành nhiều hơn nhưng lại có ít hơn
Mua sắm nhiều hơn nhưng hưởng thụ lại ít hơn
Chúng ta có những tòa nhà đồ sộ hơn nhưng
gia đình lại bé nhỏ hơn.
Cuộc sống tiện nghi hơn nhưng ít thời gian
nhàn rỗi hơn
Bằng cấp nhiều hơn nhưng giá trị lại ít hơn
Hiểu biết nhiều hơn nhưng nhận xét lại kém
hơn
Nhiều nhân tài hơn nhưng ít sáng tạo hơn
Chúng ta sở hữu nhiều hơn nhưng nhân cách
giảm nhiều hơn
Chúng ta nói quá nhiều, yêu thương thì quá
ít và ghen ghét lại nhiều hơn
Chúng ta biết cách mưu sinh nhưng không biết
tạo dựng cuộc sống
Chúng ta sống thọ hơn nhưng sống ít ý nghĩa
hơn
Chúng ta làm được những điều cao sang nhưng
lại không làm được điều đơn giản với đồng loại.
Vâng, cuộc sống xem ra tiến bộ hơn nhưng
đáng tiếc chúng ta lại đang đánh mất nhiều hơn. Mất tình gia đình, mất tình bạn,
mất tình làng nghĩa xóm. Cái mất lớn nhất của thời đại hôm nay chính là mất niềm
vui của sự bình an tâm hồn. Vì cuộc đời hôm nay có quá nhiều những rủi ro, có
quá nhiều những căng thẳng, những bất trắc khiến con người hôm nay dù có nhiều
tiền, nhiều của, nhiều vật chất nhưng lại có rất ít những giây phút thư thái
bình an. Cuộc đời luôn đong đầy những lo toan khiến con người hôm nay luôn phải
sống trong cảnh đối phó với những nghịch cảnh có thể đưa tới. Bên cạnh sự vật lộn
với cuộc sống quá nhiều khó khăn, sự bươn chải để tìm miếng cơm manh áo, cuộc sống
chung quanh lại còn quá nhiều những sự dữ bủa vây như muốn nhậm chìm con người.
Những tệ nạn xã hội như: xì ke, ma tuý, mại dâm,... luôn là những cạm bẫy có thể
xâm chiếm và làm mất đi sự bình an nơi các gia đình. Thực tế, đã có biết bao
gia đình khô cạn nước mắt vì một đứa con đang lao vào con đường xì ke, ma tuý;
đã có biết bao gia đình tan nát vì lối sống buông thả, phóng túng của những người
chồng thiếu trách nhiệm; đã có biết bao gia đình đang u sầu vì những quan hệ bất
chính của những người cha, người mẹ đang làm gương mù gương xấu cho đàn con. Sự
dữ dường như đang khống chế con người hôm nay. Sự dữ dường như đang làm chủ xã hội
hôm nay khiến con người luôn cảm thấy bất an và lo sợ.
Cách đây hơn 2000 năm, Chúa Giêsu cũng nhìn
thấy sự dữ đang hoành hành. Sự dữ đang gây nên những đau khổ, đổ vỡ, mất mát cho
biết bao con người. Sự dữ luôn làm cho con người lo sợ, bất an. Chúa đã sai các
môn đệ ra đi trong tình trạng khẩn trương và cấp bách. Cấp bách đến độ không cần
chuẩn bị những hành trang bên mình như giầy, dép, bao bị, ... Chúa muốn các môn
đệ hãy ưu tiên cho việc đem Tin Mừng đến cho muôn người. Tin Mừng mà Chúa muốn
các môn đệ đem đến cho nhân trần chính là đẩy lùi sự dữ và kiến tạo bình an cho
các tâm hồn. Chúa bảo với các môn đệ hãy mang bình an của Chúa đến cho muôn người.
Bình an của những con người thoát khỏi sự thống trị của sự dữ khi đón nhận tin
mừng Nước Trời. Bình an sẽ được tặng ban khi Triều đại Nước Thiên Chúa thống trị
địa cầu.
Lời mời gọi đó dường như vẫn đang cấp bách
trong thời đại hôm nay. Một thời đại có quá nhiều sự dữ. Một thời đại của sự hưởng
thụ, ích kỷ đã biến con người thành sự dữ đang giết chết bản thân và tha nhân.
Chúa vẫn đang tha thiết mời gọi mỗi người chúng ta hãy chung tay góp sức đẩy
lùi sự dữ ra khỏi gia đình, khỏi môi trường chúng ta sống. Hãy nói không với tội
lỗi. Hãy tránh xa những cám dỗ tội lỗi. Hãy sống ngay lành để có niềm vui của sự
bình an trong tâm hồn, và trao ban bình an cho tha nhân.
Nguyện xin Chúa là hoàng tử bình an ban
bình an đến cho mỗi người chúng ta để nhờ đó chúng ta cũng biết trao ban bình
an cho nhau. Xin cho mỗi người chúng ta cũng trở thành những sứ giả bình an cho
thế giới hôm nay. Amen.
8. Phúc âm hoá bản thân mình trước hết.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời
đi của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu
nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng
một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi
mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả
những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Làm được
như thế là con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, cuộc đời đã về chiều, tôi mới
nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết bao: làm sao biến đổi cuộc đời người khác
khi ta chưa biến đổi được bản thân ta. Thế nên giờ này, tôi chỉ còn biết cầu
nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con.
* * *
Cải thiện bản thân
là điều kiện tiên quyết, là việc phải làm trước hết để có thể thay đổi những
người chung quanh, đúng như Khổng Tử dạy: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ." (theo "Lẽ sống")
Tương tự như thế, khi được mời gọi phúc âm
hoá thế gian, chúng ta phải lo Phúc Âm hoá bản thân chúng ta trước, rồi chúng
ta mới có thể Phúc Âm hoá người khác sau.
Cầu cho ai được sai đi?
Trước khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giêsu dặn
các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ ra gặt lúa về".
Xin chủ mùa sai ai đây?
Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn,
thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong
cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho mọi người khác, ngoại
trừ ta!
Dù muốn dù không thì đa số trong chúng ta
đây đã là thợ gặt bẫm sinh rồi, vì ngay từ thơ ấu, khi được lãnh bí tích rửa tội,
chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giêsu, nên đã được thông dự vào sứ vụ tiên
tri, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa Giêsu rồi. Vậy thì phải loan Tin Mừng, phải
làm thợ gặt thôi, không thể nào thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa
mình khỏi Thân Thể Chúa.
Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được
sai đi để loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12
tông đồ và 72 môn đệ xưa.
Ai là người cần được rao
giảng trước tiên?
Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng
Tin Mừng là chính bản thân chúng ta và gia đình chúng ta.
Dù mang danh là Kitô-hữu, đôi khi chúng ta
còn xa lạ với Tin Mừng.
Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết
Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan ẩn dấu trong đó.
Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và
những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt nhau rất xa!
Nếu Tin Mừng của Chúa Giêsu chưa sáng lên
trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta... thì làm sao ta có thể đem lửa
Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không
có. Lý do của việc thất bại trong công cuộc loan Tin Mừng là ở đó.
Thế nên, chính bản thân mỗi người chúng ta
phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá người khác sau.
Ai là người cần được xua
trừ ma quỷ trước tiên?
Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giêsu uỷ thác cho
các môn đệ khi đi loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của
Sa-tan.
Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng
khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền
thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình,
internet, âm nhạc, hội họa... để nô dịch hoá con người, đưa nhiều người vào
trong cạm bẫy và tội lỗi.
Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới,
nhưng trước hết ma quỷ cũng đang chi phối mỗi người chúng ta. Phải nhận rằng
nhiều lần bản thân chúng ta cũng đã bị ma quỷ xô đẩy làm điều sai trái đáng
trách.
Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi
tai ách Sa-tan, chúng ta phải lo giải thoát mình trước.
Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi
quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại
cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ
trở về báo cáo với Chúa Giêsu những thắng lợi vẻ vang: "Thưa Thầy, nghe đến
danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con".
Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những
thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
9. Thiên Chúa cần đến những con người.
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ –
Achille Degeest)
Tuần tự theo sát bài đọc, chúng ta nhấn
thêm vào mấy khía cạnh bản văn. Sứ mạng truyền giáo là khẩn thiết, vì lúa chín cần
có những thợ gặt. Phải xin Chủ mùa sai thợ gặt đến. Sự truyền bá sứ điệp Phúc
Âm giữa nhân loại gặp phải sức chống đối thù nghịch. Sứ giả Phúc Âm phải dốc
toàn sức vào công việc tông đồ, không để bị vướng mắc bởi những quyền lợi vật
chất và những quy ước xã giao (lời chào hỏi nói đến trong bài Phúc Âm ám chỉ
nghi thức đông phương rườm rà làm mất thời giờ). Sứ điệp mang đến cho thế giới
tin mừng bình an vì Nước Trời gần tới. Phúc thật cho nhà nào tiếp đón tông đồ của
Phúc Âm. Vô phúc cho nhà nào từ chối sứ điệp vì trí óc và tâm hồn nhiễm khuynh
hướng xấu.
Bài đọc gợi ý một số câu hỏi.
1) Chúa sai họ, từng
toán hai người một, đi trước Người đến mọi thành thị nơi chốn Người định đến.
Tại sao Chúa muốn cần đến những sứ giả? Tại sao Thiên Chúa không tỏ mình ra cho
người ta? Dễ lắm, nếu được thế nhiều sự việc sẽ trở nên giản dị. Việc thiết lập
Giáo Hội sẽ chẳng còn cần thiết, mỗi lương tâm sẽ đặt trước một sự lựa chọn rõ
rệt và có trách nhiệm. Sở dĩ Thiên Chúa mặc lấy tính nhân loại trong con người
Đức Giêsu và nói với con người qua Giáo Hội, vì Thiên Chúa tôn trọng quyền tự
do của con người. Đức Giêsu Người-Chúa đã trở nên Thiên Chúa mà không xâm phạm
bất cứ quyền tự do nào Người gặp thấy. Giáo Hội, một định chế vừa nhân bản vừa
thần linh, phải có thần tính mà không xâm phạm bất cứ quyền tự do nhân loại nào
trong thế giới mà Giáo Hội có sứ mạng cứu rỗi. Chúa muốn cần có những sứ giả
bên cạnh nhân loại, bởi vì điều Giáo Hội đòi hỏi ở người ta là tự do đón nhận đức
tin.
Sứ giả đức tin phải ý thức sáng suốt về vai
trò mình. Đối với bản thân cũng như đối với người khác, phải tránh ràng buộc Phúc
Âm vào những quyền lợi thế tục. Sứ giả đức tin không tìm kiếm trong Phúc Âm những
quyền lợi thế tục, không rao giảng Phúc Âm như một giá trị hay một hệ thống văn
minh. Điều ấy là phụ, tự nó sẽ đến. Những gì là thế tục, tài chính, kinh tế, đều
không phải là công việc của người tông đồ.
2) Hãy chữa lành những bệnh
nhân. Đã có một thời gian ngắn các tông đồ làm những việc
chữa lành bệnh nhân như là những dấu chỉ, những điều lạ, để hậu thuẫn cho công
việc rao giảng. Tuy nhiên sự chữa lành Phúc Âm đề nghị với mọi người ở một tầm
cao khác. Sự rao giảng Phúc Âm phải gây ra trong người ta một ý thức có hai mặt:
ý thức mình đau ốm, nghĩa là có tội – và ý thức mình được cứu rỗi nhờ niềm tin
vào Đức Giêsu Kitô. Từ quan điểm kép, Phúc Âm làm phát sinh mâu thuẫn bởi lẽ
con người khó mà nhìn nhận rằng mình tội lỗi – và ơn cứu độ Phúc Âm đề nghị là
sự chữa lành bằng thập giá, phương thức ấy khiến con người vấp phạm. Hạnh phúc
thay kẻ nào đón nhận Phúc Âm.
10. Ai là công nhân mùa gặt của Chúa?
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ -
Charles E. Miller)
Ngày kia có một người nhận xét, ông ta nghe
thấy từ “ơn gọi” trên bục giảng có vẻ như ám chỉ”ơn gọi” đến từ Thiên Chúa chứ không phải chỉ
dành cho chức linh mục hoặc tu sĩ. Đây là lúc: Mọi người Công Giáo đều có một
ơn gọi đến từ Thiên Chúa.
Phúc Âm ngày hôm nay thường được cắt nghĩa
theo ý nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta xin với chủ ruộng sai nhiều
thợ gặt đến để gặt lúa, nhiều người đã suy nghĩ rằng Người muốn chúng ta cầu
nguyện cho có nhiều vị linh mục. Thật sự ra chủ ý của Chúa không giới hạn trong
ơn gọi đó.
Công đồng Vatican II nói rằng: “Tất cả những
người Công Giáo đều tham dự đầy đủ và tích cực trong phụng vụ và trong sứ vụ của
Giáo Hội. Đó là một ơn gọi”. Trong Thánh Lễ được cử hành trước Công đồng, vị
linh mục đã tự mình làm hết mọi sự, vị linh mục được trợ giúp bởi một cậu trai
nhỏ như là một cậu giúp lễ. Và tất cả cộng đoàn hiện diện trong một vai trò thụ
động. Linh mục đã đọc tất cả mọi lời nguyện, tất cả các bài thánh thư và Phúc
Âm trong Thánh Lễ, và tất cả cộng đoàn im lặng lắng nghe ngay cả việc rước lễ
cũng được trao ban bởi chính ngài hoặc đươc giúp đỡ bởi các vị linh mục khác.
Chỉ có cậu bé giúp lễ mới được đáp lại những lời nguyện của vị linh mục, còn cộng
đoàn thì giữ im lặng. Những người đời không được phép đọc Thánh Kinh hoặc đọc
những lời nguyện nào hoặc trợ giúp trong việc rước lễ. Nhiều người ngạc nhiên
khi không quen với sách lễ trước đây hoặc quên đi thời hiệu của nó, sự thật chỉ
một mình vị linh mục được đọc kinh “Lạy Cha”. Thật vậy, người giáo dân thì
không được phép đọc kinh”Lạy Cha”. Vai trò thụ động của người giáo dân là một
khoảng trống lớn, phản ánh sự thiếu toàn tâm toàn ý trong sứ vụ của Giáo Hội.
Vì một công việc xem ra là của người giáo dân thì vị linh mục đã phải làm tất cả.
Công đồng Vatican II đã ra quyết định phục
hồi và đề xướng phụng vụ thánh với mục đích giúp cho mọi người đều tham dự một cách
đầy đủ, sinh động và ý thức bởi tất cả mọi người (x. Hiến chế về Phụng vụ số
14). Nhưng việc tham dự vào phụng vụ thì cũng bất toàn cho đến khi dẫn đến việc
tham dự đầy đủ vào sứ vụ của Giáo Hội.
Chức linh mục thừa tác là nền tảng cho Giáo
Hội. Điều đó không thể thay đổi. Nhưng Thánh Thần qua Công đồng đã kêu gọi tất
cả những người Công Giáo đều phải trở thành những phần tử có trách nhiệm của
Giáo Hội. Không để mọi sự cho vị linh mục nữa. Cũng không trốn tránh những ai
thách đố về đức tin của chúng ta bằng việc nói với họ là chúng ta sẽ nói cho
linh mục. Không sợ tỏ ra đức tin của người Công Giáo trong việc làm ở bất cứ
nơi nào. Không miễn cho đức tin của chúng ta là cá nhân và riêng biêt và sẽ
không ảnh hưởng đến chúng ta là cá nhân và riêng biệt và sẽ không ảnh hưởng đến
chúng ta trong chính trị. Sự thật là tất cả mọi người chúng ta đều được kêu gọi
đặc biệt, qua bí tích Thêm sức, để hoạt động, liên hệ và trở thành những người
Công Giáo có trách nhiệm.
Giáo Hội làm viên mãn hình ảnh của
Giêrusalem như là một người mẹ (x. Bài đọc I). Giáo Hội qua sự hợp nhất với Đức
Kitô đã sản sinh ra những người con và nuôi dưỡng chúng bằng Lời và các bí tích.
Giống như những người cha mẹ tốt, Giáo Hội cũng là thầy dạy và là người hướng dẫn.
Từ hình ảnh này và thực tại của Giáo Hội mà mọi người chúng ta phải rút ra sự
hướng dẫn và sức mạnh để trở thành những người Công Giáo năng nổ nhiệt tình.
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Tên
của chúng ta đã được viết ở trên trời rồi”. Vì thế mà chúng ta phải vui
mừng. Nhưng cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang để mang chúng ta về trời,
chúng ta phải nhớ rằng công việc của Thiên Chúa trên trái đất này qua Giáo Hội
của Người phải thật sự là của chính chúng ta.
11. Hãy đi giảng dạy
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Hãy đi giảng dạy!”.
Đó là câu châm ngôn của Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình mà Giáo Hội
Việt Nam nói chung và Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã cử hành
đại tang lễ. Ngay từ ngày thụ phong giám mục, Đức Tổng Giám Mục đã chọn cho
mình câu châm ngôn “Hãy đi giảng dạy” cũng là mệnh lệnh truyền giáo của chính
Chúa Giêsu. Đức Tổng Giám mục là một Giám mục truyền giáo. Quả thật, 40 năm kể
từ ngày thụ phong Giám mục cho đến lúc từ trầ, Ngài đã thể hiện câu châm ngôn sống:
“Hãy đi giảng dạy”. 40 năm, con đường thật dài và khúc khuỷu. Khúc khuỷu vì những
biến động của thời đợi, khúc khuỷu vì những đổi thay của thể chế xã hội, chính
trị và kinh tế. Và khúc khuỷu của lòng người vốn khó thăm dò. Nhưng dẫu khó
khăn và khúc khuỷu đến đâu, Ngài vẫn Đi. Đi trong suy tư và cầu nguyện. Đi bằng
thái độ hiền hòa, khiêm tốn và kiên nhẫn. Đi trong tin tưởng và phó thác. Và Đi
để Giảng dạy. Vì xác tín rằng, ẩn bên trong những khúc khuỷu của thời đại và
lòng người, vẫn là khát vọng được sống, sống mãnh liệt và phong phú. Và cũng
xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới là Đấng đáp trả và đong đầy khát võng sống mãnh
liệt ấy, nên Ngài không ngừng nỗ lực giới thiệu Đức Kitô cho mọi người.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng là một
Giáo hoàng truyền giáo. Ngài đã ra khỏi giáo triều ở Rôma nhiều nhất để đi đến
với muôn dân trên khắp năm châu. Đến đâu Ngài cũng luôn rao giảng Tin Mừng Đức
Kitô cho mọi người. Những chuyến công du mục vụ ấy đã cho Ngài thấy rằng: Mệnh
lệnh “Hãy đi rao giảng Tin Mừng” của Chúa Giêsu chưa được các Kitô hữu thi
hành. Đối với Đức Thánh Cha, vấn đề cấp bách là: phải đem Tin Mừng đến cho những
vùng đất mênh mông chưa biết Chúa. Phải tái Phúc Âm hóa những vùng đất xa xưa
đã một lòng tôn thờ Chúa nhưng nay đã lơ là, bỏ Chúa. Phải đem Tin Mừng thấm nhập
các sinh hoạt xã hội loài người.
“Lúa chín đầy đồng, thợ gặt quá ít”. Một nhận
định vừa hân hoan vừa báo động. Đối với chúng ta hôm nay là một lời báo động, vì
nếu lúc chín vàng đồng mà gặt không kịp, lúa sẽ rụng hết. Một thực tế bi đát vì
tình trạng thiếu thợ gặt so với cánh đồng lúa chín vàng bát ngát. Mười hai Tông
đồ được sai đi, rồi lại thêm 72 môn đệ nữa, cũng chưa đáp ứng đủ yêu cầu. Các
Giám mục, các linh mục, rồi các tu sĩ nam nữ cũng còn quá ít, cần phải có sự tiếp
tay của các giáo dân nữa.
Vào tháng 10 năm 1987, Thượng Hội Đồng Giám
mục thế giới đã khai mạc tại Rôma. 232 Giám mục từ khắp năm châu kéo về Rôma để
cùng nhau nghiên cứu vấn đề “ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Giáo Hội
và trong thế giới ngày nay”. Vì là vấn đề liên quan đến giáo dân, nên bên cạnh
các Giám mục, người ta còn thấy có 53 giáo dân: 27 nam và 26 nữ. Nếu chúng ta đối
chiếu 12 Tông đồ với các Giám mục thì sự hiện diện của 27 ông và 26 bà trong
Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới ở Rôma là một sự kiện mới mẻ, như trong Tin Mừng
hôm nay: “Chúa Giêsu chọn thêm 72 môn đệ nữa”. Từ Thượng Hội Đồng nầy, một tông
huấn mang tựa đề: “Ngừoi Kitô hữu giáo dân” đã được công bố. Trong đó, Đức
Thánh Cha nói: “Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, nên mang ơn gọi và sứ
mạng loan báo Tin Mừng. Các bí tích khai tâm kitô giáo và các ân huệ của Chúa Thánh
Thần đã trang bị khả năng và thúc giục họ thi hành sứ vụ của mình” (số 33). Đức
Thánh Cha còn nói: “Chắc chắn rằbg: mệnh lệnh của Chúa Giêsu ‘Hãy đi loan báo
Tin Mừng’ vẫn mang giá trị trường tồn và đặt ra một cách cấp bách. Tuy nhiên,
tình trạng hiện nay trong thế giới, đang đòi hỏi tuyệt đối phải thực thi mệnh lệnh
của Chúa một cách khẩn trương và quảng đại hơn. Một người môn đệ đích thực của
Chúa Kitô không có quyền từ chối lời đáp trả của riêng mình: “Khốn thân tôi, nếu
tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Cho hay, cái mới mẻ trong việc thực
thi cuộc loan báo Tin Mừng là tất cả toàn dân Chúa, không phân biệt nam nữ, già
trẻ, giàu nghèo, mạnh yếu. Tất cả đều được sung vào việc tông đồ truyền giáo.
Trước tình trạng khẩn trương ngày nay,
chúng ta đâu có quyền trông đợi những vị truyền giáo ở các nước ngoài đến giảng
đạo cho chúng ta như ngày xưa đã đến giảng đạo cho ông bà chúng ta. Giờ đây, chính
những linh mục đã được chọn giữa chúng ta cũng chưa bù đắp được gì cho số người
đông đúc và đa dạng ngày nay. Vì thế, Đức Thánh Cha hô hào: “Giá dân ngày nay
phải dấn thân vào công tác truyền giáo của Giáo Hội”. Thượng Hội Đồng Giám Mục
đã định nghĩa vị thế độc đáo của người giáo dân giữa lòng Giáo Hội và giữa thế
giới bằng hai mệnh đề như sau: “Giáo dân là ‘ người của Giáo Hội’ trong lòng thế
giới”. “giáo dân là ‘người của thế giới’ trong lòng Giáo Hội”. Là người của
Giáo Hội, người giáo dân phải đem Giáo Hội và Chúa Giêsu vào trong thế giới. Và
là người của thế giới, giáo dân phải đem thế giới đến cùng Giáo Hội và Chúa
Kitô.
Tông huấn “người Kitô hữu Giáo Dân” vẫn nhắc
lại sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân của Công Đồng Vatican II để kêu gọi giáo dân ý thức
nhiệm vụ làm tông đồ trong môi trường của mình. Chính người tín-hữu-thương-gia,
tín-hữu-công-nhân phải đem Chúa đến và làm gương sáng cho anh em mình nơi đồng
ruộng, ngoài thị trường, trong cơ quan xí nghiệp của mình. Hãy coi nơi mình
đang ở, chỗ mình đang làm việc là những nơi Chúa sai mình đến “như chiên ở giữa
đàn sói”, không phải để bị sói vồ chụp cắn xé, nhưng để biến sói thành chiên;
không phải lấy sức mạnh đọ lại với sức mạnh, không phải dùng mưu mô đối lại với
mưu mô, nhưng khí giới của chúng ta là khí cụ bình an và hiên hòa, theo gương cuộc
sống của Đức Cố Tổng Giám Mục của chúng ta. Bởi vì Chúa không cho những người
được sai đi mang theo gì cả, không được dự trữ tiền của hoặc võ trang tối thiểu
để đối phó với mọi tình huốc trắc trở. Chúa muốn chúng ta phải đến với những
người anh em mình một cách đơn sơ chân thành, không băn khoăn bối rối, không
rào trước đón sau. Hơn nữa, còn phải loan báo Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh
tật, nghĩa là phải lo cho anh em phần hồn, phần xác. Đi đến với người mạnh cũng
như kẻ yếu; quan tâm đến tinh thần và cả đến đời sống vật chất nữa. Như vậy tức
là để ý đến con người toàn diện và tất cả mọi người. Các người chung quanh chúng
ta, bà con hàng xóm láng giềng, các bạn đồng nghiệp của chúng ta trong cơ quan,
xí nghiệp nhất định sẽ tin vào Chúa Kitô, nếu chúng ta loan báo Chúa Kitô với
tinh thần dịu hiền, vô vụ lợi, hoàn toàn phục vụ, phó thác vào bàn tay quan
phòng của Thiên Chúa. Mọi người sẽ tin vào chứng ta của chúng ta khi thấy chúng
ta sống yêu thương nhau, cộng tác với nhau cách chân tình, không ganh tị và định
kiến, biết tôn trong chân lý và công bình, sẵn sàng phục vụ lợi ích chung của đồng
bào và đất nước. Nhờ sự hiện diện và hoạt động tích cực giữa đời như vậy, anh
chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Nước Trời.
Sống như thế, anh chị em mới có lý do chính đáng để hân hoan vui mừng, vì như
Chúa đã bảo đảm: “Anh chị em hãy vui mừng vì tên tuổi anh chị em sẽ được ghi đậm
nét ở trên trời”.
12. Sai 72 môn đệ đi rao giảng - McCarthy
Suy Niệm 1.
Mùa gặt bội thu
Kitô giáo là một tôn giáo thực hành.
Catherine de Hueck Doherty là một Kitô hữu nổi tiếng. Sinh ra trong một gia đình
quý tộc ở nước Nga, bà sống phần lớn cuộc đời ở Mỹ. Bà nói: “Ngay khi còn nhỏ
tuổi, tôi biết rằng Tin Mừng là để sống”.
Khi đã trưởng thành chị làm công việc của một
người bưng nước trong một quán ba ở Manhattan. Trong một dịp kia, chị thông báo
cho một nhóm lính Mỹ và những bạn gái của họ (họ đều biết chị là người Công
giáo) đã đến giờ đóng cửa (4 giờ sáng) và chị phải về.
“Chị đi đâu, Latie?” họ hỏi.
“Hôm nay Chúa nhật, tôi đi dự Thánh lễ”.
“Vâng, ra cô là người Công giáo?”.
“Vâng” chị đáp.
Họ không thể nào hiểu nổi sự kiện chị là một
người Công giáo hành đạo mà lại làm việc ở một nơi như thế. Tất cả bọn họ đi
theo chị đến nhà thờ dự Thánh lễ. Hai tuần sau, một cô gái trong nhóm trở lại.
Cô ấy nói: “Chị làm tôi suy nghĩ. Nếu chị có thể sống một đời sống tốt lành khi
phải làm việc ở một nơi như thế này, vì thế có lẽ tôi cũng có thể làm được”.
Một lần khác Catherine đi tàu điện ngầm ở Montrial
thì gặp một phụ nữ già, cô độc nói với chị: “Chị có muốn nói chuyện với tôi một
lúc không?”. Họ làm hai chuyến đi từ đầu này đến đầu kia của tàu điện ngầm và
nói chuyện hết thời gian. Họ trở thành bạn tốt của nhau, và thường viết thư cho
nhau cho đến lúc người phụ nữ ấy qua đời.
Mùa gặt dĩ nhiên là bội thu đối với những
người có con mắt nhìn nó và một tâm hồn đáp lại. Mùa gặt ấy trong các bệnh viện,
gia đình, trường học, nhà tù, công trường, vùng phụ cận. Mỗi ngày là một ngày gặt
hái.
Đức Kitô sai các Tông đồ ra đi giúp Người
thu hoạch mùa màng. Chúng ta có khuynh hướng để việc ấy cho những nhà chuyên
môn: cho các linh mục, nữ tu, các nhà truyền giáo. Những người mà Đức Kitô sai
đi không phải là những nhà chuyên môn. Tuy vậy, họ đã trở thành những công cụ của
người. Trao trách nhiệm cho một cá nhân và để cho người ấy biết bạn tín nhiệm
người ấy là đem lại cho người ấy một sự giúp đỡ mà ít có sự giúp đỡ nào bằng.
Nhóm bảy mươi hai bắt đầu là những môn đệ của
Người. Rồi Người hướng họ đến mục tiêu bên trên họ với việc làm cho họ thành những
Tông đồ. Đó là cách thức phải luôn luôn được thực hiện. Chúa yêu cầu chúng ta
chia sẽ với những người khác điều mà chúng ta đã nhận được từ Người. Có những
điều vẫn còn chưa làm được nếu chính chúng ta không làm. Chúng ta nâng cao
chúng ta lên trong mức độ chúng ta nâng cao người khác lên.
Làm một Tông đồ có nghĩa là một người được
sai đi. Để có thể làm được công việc của Đức Giêsu. Chúng ta không cần phải là một
loại thiên tài hoặc siêu nhân nào đó. Có sự khác nhau giữa một Tông đồ và một
thiên tài. Sự khác nhau ấy ít liên quan đến tài năng và trí tuệ, mà có liên quan
đến mục đích và sự dấn thân.
Bởi lẽ người ta được kêu gọi không có nghĩa
để được trở thành thông minh hơn hoặc có nhiều tưởng tuợng hơn trước đó. Không,
người ta vẫn có quan hệ với những ơn tự nhiên. Nhưng giờ đây, họ có nhiều quyết
tâm hơn, nhiều sự dâng hiến hơn. Điều ấy đã tạo ra sự khác nhau to lớn.
Suy Niệm 2.
Làm chứng bằng thương tích
Bốn mươi năm sau khi rời bỏ trại giam
Auschwitz, nhà văn Ý Primo Levi vẫn còn mang hình xăm với con số của ông khi
còn ở đó. Khi người ta hỏi ông tại sao không xoá nó đi, ông đáp: “Tại sao tôi phải
làm thế? Không có nhiều người trong chúng ta được đưa vào thế giới để làm nhân
chứng”.
Alexander Solzhenitsyn nói rằng ông vẫn còn
bốn mảnh vải dùng để vá mang con số mà người ta phát cho ông khi còn trong nhà
tù. Ông không phải là người duy nhất đem chúng ra khỏi trại giam. Không xấu hổ
về những điều đó, ông nói: “Trong một số gia đình, chúng được phô bày ra như những
thành tích”.
Thánh Phaolô cũng không xấu hổ vì những dấu
tích mà ông mang trên mình ông vì Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, ông bình thản lôi kéo
sự chú ý về những dấu tích ấy (Bài đọc 2). Ông nói với những tín hữu Galat1:
“Những dấu tích trên người tôi là những dấu tích của Đức Kitô”. Bằng từ “dấu
tích”, ông không có ý nói đến những dấu thành như Padre Pio và những người khác
cho rằng mình được in dấu thánh. Ông muốn nói đến những dấu tích, vết thẹo mà
những gian lao, bệnh tật, sự đánh đòn, ném đá còn để lại trên thân thể của ông.
Đó là những sự trả giá cho việc ông phục vụ Đức Kitô.
Điều thú vị hơn nữa là sự kiện Đức Giêsu giữ
lại dấu đinh và vết đòng đâm trên thân thể Phục Sinh của Người. Người ta có thể
hy vọng Người làm mất hết mọi dấu tích để chứng tỏ rằng mọi sự đã qua cả rồi,
đã ở sau lưng Người, và bởi vì Người đã không muốn làm cho các Tông đồ khó xử
vì họ đã bỏ rơi Người hoặc những người trực tiếp hay gián tiếp có trách nhiệm
gây ra các dấu tích ấy.
Nhưng Đức Giêsu đã không tháo bỏ mọi thương
tích. Người đã giữ chúng lại. Đối với Người những vết tích ấy không làm cho Người
xấu hổ hoặc bối rối. Chúng là những chứng cứ sống động của tình yêu Người, là
những dấu chỉ hữu hình và hùng hồn một tình yêu chân thật phải trả giá như thế
nào. Chúng giống như những huy hiệu danh dự, hoặc những huy chương chỉ sự lỗi lạc
mà khó khăn lắm người ta mới dành được. Chúng vẫn là những thương tích nhưng chất
độc đã bị trừ khử, và vì thế không còn làm tổn thương. Bởi vì các thương tích của
Đức Giêsu vẫn còn thấy rõ trên thân thể Phục Sinh của Người, chúng đã trở thành
suối nguồn hy vọng cho tất cả chúng ta, đặc biệt cho những người đã chịu đau khổ
và vẫn đang còn đau khổ.
Rất nhiều lần chúng ta muốn che giấu những
thương tích của chúng ta. Chúng ta muốn giấu kín những tổn thương của quá khứ. Và
cả khi bên ngoài của chúng đã lành lặn, chất độc thường vẫn còn lại, và do đó
còn gây thương tổn. Nếu chúng ta yêu, chúng ta phải sẵn sàng chịu thương tích.
Tuy nhiên, điều đó không giúp chúng ta bị đầu độc bởi sự cay đắng và lòng thù hận.
Sự cay đắng là điều tệ hại khủng khiếp. “Người ta có thể sống qua những gian khổ
lớn lao nhưng lại chết bởi những cảm nghĩ đắng cay” (Solzhenitsyn).
CÂU CHUYỆN KHÁC
Felix Frankfurter là một quan toà nổi tiếng
của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện ở đó ông quen
biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông
biết được nhiều điều về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người
nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố
gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau: Suối
nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nói đơn giản chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin
của chị. Ông rất ngạc nhiên bởi vì ông chưa bao giờ biết có người nào mà đời sống
mỗi ngày được đặt trên nền tảng tôn giáo như chị.
Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của
chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng cô đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể
trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần
những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở thành Đấng
an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một
ảnh huởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên,
những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ khi thuận lợi nói về
Chúa Giêsu một cách rõ ràng cởi mở.
13. Suy niệm của R. Gutzwiller
TIẾP NHẬN NGÀI (10, 1-12)
Nhiều người muốn theo Chúa, song thái độ của
họ chưa thực tình dứt khoát hoặc còn giả tạo nữa. Ngài muốn họ lưu tâm đến cái
quyết định quan hệ của họ và những điều kiện theo sau quyết định ấy. Mặt khác,
Ngài vẫn sai bảy mươi hai môn đệ đi trước.
1. Sứ mệnh.
Họ phải dọn đường cho Ngài. Ngài nói rõ
Ngài sẽ đến những nơi họ đến trước. Họ chỉ là sứ giả, còn Ngài mới là Vua. Họ
là những người khai phá, tiên phong, mở đường, để chính Ngài sẽ đi trên con đường
ấy. Họ làm đất sẵn còn Ngài gieo vãi hạt. Họ dựng khung còn Ngài xây tường. Họ
mở cửa để Ngài bước qua. Trách vụ ấy là của mọi chủ chăn, mọi tông đồ giáo dân
trong nước Chúa.
Con người chẳng thể ban phát của Thánh được
mà chỉ được coi là người thừa hành trợ tá thôi. Nước Thiên Chúa không phải do con
người lập nên và lời Chúa không thể do con người suy tưởng ra được. Dẫu vậy,
Thiên Chúa lại muốn dùng những tạo vật Ngài dựng nên để thực hiện các việc ấy
và Ngài còn muốn con số tạo vật ấy phải thật nhiều: ‘Mùa màng nhiều, thợ gặt
ít’.
Như thế, con người cũng có một vai trò khá
quan trọng trong công việc của Chúa, phải xin Chúa ban cho thật nhiều ơn gọi: ‘vậy
hãy xin chủ mùa sai thợ gặt đồng lúa của Ngài’. Đã hẳn, Chúa quá rõ việc thiếu
các linh mục và thật sự thiếu. Vì nhiều người được gọi mà họ từ chối. Còn nếu
bình thường mà vẫn thiếu thì hẳn là do giới trẻ không sống xứng đáng. Vì thế cần
phải cầu nguyện cho ơn thiên triệu và như thế là đáp ứng đúng đòi hỏi của Chúa
Giêsu.
Hai mặt của sứ điệp ban cho các môn đệ là: loan
báo Nước Thiên Chúa và chữa lành tật bệnh. Vì thế mới có vấn đề lo cho phần hồn
và săn sóc phần xác, đi đến với người mạnh và kẻ yếu, quan tâm đến phần tinh thần
và cả đến những phần thuộc trần thế nữa. Và như thế, tức là để ý đến con người
toàn diện và toàn thể nhân loại.
2. Mệnh lệnh.
‘Này Ta sai các anh như chiên vào giữa
sói’. Như vậy không phải là chuyện những con sói này đối địch với những con sói
kia, hay một con sói phải đương đầu với bầy sói. Nhưng chính là con chiên vào
giữa đàn sói. Chúng ta chẳng thể lấy sức đọ sức, dùng mưu đối mưu, bằng cách lấy
sức mạnh của tiền tài và thế lực của các tổ chức, nhưng khí giới của ta là khí
cụ bình an, khí cụ kiên tâm chịu đựng đau khổ và hy sinh.
Như thế, tỏ rõ cho ta thấy rằng linh mục ở
trong thế gian như ‘chi thể xa lạ’, ‘một chiên giữa bày sói’ vừa xa lạ với những
người khác, vì thế không thể gây chú ý. Giáo Hội luôn tỏ rõ là không quyền lực
đối với các quốc gia, Giáo Hội sẽ được giải thoát, thật tuyệt vọng xét phía
nhân loại, thật có cơ biến dạng, duy chỉ có uy lực và quyền thế của Chúa đỡ
nâng.
‘Đừng mang ví tiền, bao bị, giày, dép’. Như
thế là không có vấn đề bảo đảm, an toàn theo kiểu thế tục, cũng không có chuyện
đề phòng dự liệu, trang bị cần thiết, tiên liệu những gì có thể xảy ra, võ
trang tối thiểu để đối phó với mọi tình huống trắc trở. Kết quả tinh thần không
lệ thuộc vào những thành tố ấy cũng như những trở lực ngoại tại.
Con người phải đến với người anh em mình với
thực chất của mình, thật đơn giản và chân thành, không băn khoăn bối rối, không
rào trước đón sau. Tức là, con người sẽ chẳng là chi khác hơn dụng cụ của Thiên
Chúa và được sử dụng như tính cách dụng cụ.
3. Định mệnh.
Đức Giêsu nói đến sự được đón tiếp và bạc
đãi. Tức là, sẽ có những người vì Nước Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận đức tin,
và cũng có những người khác cố chấp và dễ dàng từ chối bằng tiếng ‘không’ khô cằn.
Sự kiện từ chối ấy quả quá nặng đến nỗi Chúa phải quan tâm đặc biệt. Khi bị từ
chối, môn đệ phải rút đi, và phủi chân khỏi bụi của nhà hay làng ấy. Tức là dứt
khoát tuyệt giao với họ và tiếp tục lên đường. Họ sẽ tránh khỏi hình phạt và án
xử hòng đến.
‘Ngày ấy, Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn
thành ấy’, khi vinh quang Nước Thiên Chúa tỏ hiện trọn vẹn. Vì trách vụ của mình,
môn đệ đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì những ai môn đệ đến gặp cũng được ở
trong tay Chúa như thế, hoặc bị Ngài phạt hoặc được Ngài thưởng.
Các chủ chăn cũng như những giáo dân trợ
tá, tất cả những ai đã cam kết phục vụ nước Thiên Chúa, thì đều phải dự đoán được
những thành công và thất bại để luôn sẵn sàng với ‘ưng thuận đón tiếp’ cũng như
‘chối từ không nhận’. Thất bại không làm lung lay nao núng, khiếp sợ….
Vì thế, Đức Kitô đã cẩn thận tiên báo hết sức
rõ ràng, với giọng điệu thật nghiêm nghị. Khi thi hành phận sự nước Chúa. Ai để
mình thất vọng tức là đã không am hiểu Tin mừng.
Chúng ta không thể lấy mất sự lựa chọn khỏi
các cá nhân; chúng ta phải đặt các cá nhân đó đối mặt với sự lựa chọn ấy, là chính
sự lựa chọn có giá trị ngàn đời.
MÔN ĐỆ (10, 17-20)
Sự cao cả của các môn đệ được thể hiện dưới
hai phương diện. Trước hết, đó là uy quyền họ được uỷ thác để thi hành nhiệm vụ
mình: ‘Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỉ cũng phải luỵ phục chúng tôi’. Đức
Kitô liền khẳng định: ‘Ta đã thấy Satan như chớp nhoáng từ trời sa xuống. Nầy
Ta ban cho các anh quyền dẫm lên rắn rít, bò cạp và trên mọi quyền năng kẻ thù
và tuyệt nhiên không có gì làm hại các anh được’.
Môn đệ Chúa được chính Chúa nâng đỡ để phục
vụ Ngài. Nếu Ngài chẳng tha phép, thì không một tai hoạ nào có thể phạm đến họ
được. Vì thế Ngài có trách nhiệm và bổn phận phải lưu tâm đến đó. Tuy nhiên,
không phải chỉ mình Chúa mà thôi, những cả những ai được Ngài dùng nhân danh Đức
Kitô. Ngài có thể tránh cho họ khỏi ách thống trị của các hung thần, vì Ngài có
quyền trên quỉ ma.
Thế giới quỉ ma là một thực tại vô hình.
Satan là một uy lực thiêng liêng. Bởi thế quyền lực của các môn đệ Chúa không phải
là cái từ bên ngoài đụng đến hay áp lực. Dẫu vậy, rõ ràng là những sự việc lại
xẩy ra dưới hình thức hữu hình, khiến nhãn quan nhân loại có thể cảm nhận được.
Ai chỉ tin vào sức mạnh của thân thể, chỉ tin vào thần tài, vào ảnh hưỡng chính
trị, vào quân sư, vào hoàn cảnh xã hội, thì chẳng thể hiểu thực sự được các biến
cố ấy.
Hoạt động của Giáo Hội được thực hiện theo
chiều cao và sâu. Mà chỉ ở đời sau con người mới nhận ra được đặc tính đặc biệt
và lạ lùng của uy quyền mà Chúa ban cho Giáo Hội. Tuy nhiên, sự việc được quyền
lực ấy chỉ là cái thêm vào. Điều lớn lao hơn là: ‘Hãy vui mừng vì tên các anh
đã được ghi trên trời’.
Điều làm cho các môn đệ vui mừng, có quyền
tự hào và thực sự phấn khởi, không phải là sự lớn lao và sức mạnh của việc họ đã
làm, nhưng là mầu nhiệm họ được lựa chọn. Nói tóm, con người chẳng thể tự mình
định đoạt đời mình, mà là được chọn; được Chúa ban ơn cho cách nhưng không.
Những chọn lựa ấy ở giữa vương quốc tối tăm
của Satan và vương quốc huy hoàng của Thiên Chúa. Kẻ được tuyển chọn, được làm
con sự sáng. Không phải chỉ có hoạt động thôi, nhưng cả đời sống vượt khỏi những
giới hạn hẹp hòi, thế trần. Danh tánh kẻ ấy ‘được ghi trên trời’. Bởi vậy, xét
theo mục đích và bản chất, sự việc môn đệ được kêu gọi, quả là một sự cao cả đặc
biệt.
14. Bình an đích thực.
Vào năm 1980, có một tuần báo nọ tại Hoa Kỳ
đã đăng tải một sự cố sau đây: Một người vừa mua hàng trong siêu thị xong, trở
lại xe mình thì ngạc nhiên nhìn thấy một tờ giấy để lại nằm ngay trên chỗ ngồi
của người lái, trên đó có những dòng chữ viết vội như sau:
Thưa ông bà, tôi có ý định đánh cắp chiếc
xe này, nhưng khi nhìn thấy lời chào chúc của ông bà gắn nơi tay lái: “Bình an
của Chúa ở cùng bạn”, thì tôi bỗng dừng lại và suy nghĩ. Ý nghĩ xuất hiện trong
đầu óc tôi là nếu tôi đánh cắp chiếc xe này thì chắc chắn ông bà mất xe và
không có sự bình an, tôi đây cũng sẽ không có sự bình an. Đây là lần đầu tiên
tôi bước vào nghề ăn cắp xe.
Xin chúc ông bà và cho cả tôi nữa sự bình
an của Chúa. Chúc ông bà lái xe an toàn và lần sau xin nhớ khóa cửa xe.
Ký tên: Người sắp trở thành kẻ trộm xe.
Câu chuyện nhỏ này làm chúng ta chú ý đến một
trong những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ khi sai họ ra đi truyền giáo
đến trước những nơi mà Chúa sẽ đi qua để chuẩn bị cho Chúa đến: “Vào nhà nào
chúng con hãy chúc: Bình an cho tất cả mọi người trong nhà này".
Chỉ một khẩu hiệu dán nơi tay lái chiếc xe:
“Cầu chúc bình an” mà bỗng tác động biến đổi ý định xấu của một người không làm
việc xấu xa nữa, thì thử hỏi nếu những đồ đệ của Chúa, chính chúng ta đây, nếu
chúng ta thực sự trở thành những dấu chỉ sự bình an của Chúa cho anh chị em, và
không phải chỉ là dấu chỉ mà thôi mà còn là tác nhân sống động mang sự bình an
của Chúa đến cho anh chị em xung quanh mà ta thường gặp hằng ngày; nếu chúng ta
thực hiện được điều này thì thử hỏi ta có thể đóng góp phần tích cực của mình
cho sự bình an của anh chị em nơi môi trường chúng ta sinh sống biết là chừng
nào.
Lời Chúa dạy cho các đồ đệ chúc “bình an
cho nhà này” là tiếng vang trước cho lời chúc bình an của Chúa Giêsu Phục sinh trước
khi sai các tông đồ ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa: “Bình an cho chúng
con”. Chắc chắn khi nghe những lời chúc của Đấng Phục sinh: “Bình an cho chúng
con”, các tông đồ nhớ lại lời dạy trước lúc Phục sinh của Chúa, khi Chúa sai
các ngài đi thực tập trước công việc truyền giáo mà các ngài sẽ chu toàn sau biến
cố Phục sinh: “Vào nhà nào, chúng con hãy cầu chúc: bình an cho nhà này. Bình
an cho chúng con”.
Chúa Phục sinh ban sự bình an thật cho các
tông đồ, để các ông ra đi và đến phiên các ông, các ông cũng sẽ cầu chúc như
Chúa đã chúc: “Bình an cho nhà này”. Các ông nói như Chúa đã nói, làm các công
việc và những việc lạ như Chúa đã làm, hay đúng hơn theo như lời Chúa nói là
hơn cả những gì Chúa đã làm nữa: “Bình an cho chúng con. Bình an cho nhà này”.
Ước gì mỗi người chúng ta được thật sự lãnh
nhận ơn bình an của Chúa, ơn bình an mà Chúa đã phải chết trên thập giá để thực
hiện cho chúng ta, cho tất cả mọi người. Ước gì mỗi người chúng ta trước hết
lãnh nhận ơn bình an đó của Chúa và để cho ơn bình an, ơn cứu rỗi thánh hóa, biến
đổi chúng ta để rồi chúng ta có thể nói và làm như Chúa đã nói và làm “Bình an
cho nhà này. Bình an cho chúng con”.
Người truyền giáo phải là kẻ nói những lời
bình an, thực hiện những sự bình an, trao ban sự bình an của Chúa cho anh chị em.
Chúng ta cần kiểm điểm lại lời nói và việc làm của mình xem có phải là lời nói
và việc làm như Chúa hay không? Đó là “Bình an cho anh chị em. Bình an cho nhà
này”.
Chúng ta hãy đến lãnh nhận ơn bình an của
Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an của Thầy”, để rồi chúng ta cũng có thể trao
sự bình an đó cho anh chị em xung quanh.
Lạy Chúa, xin đừng chấp tội lỗi chúng con,
nhưng xin thương ban bình an cho chúng con, cho Hội Thánh Chúa. Xin biến đổi mỗi
người chúng con trở thành những chứng nhân của sự bình an, trở thành khí cụ
bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi
lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy
Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, bình an cho anh chị em,
bình an cho chúng con, bình an cho nhà này. Amen.
15. Người rao giảng
Chỉ có mình thánh Luca ghi lại việc sai
phái bảy mươi hai môn đệ đi trước sửa soạn cho Chúa Giêsu đến. Điều này phù hợp
với việc Chúa kéo dài cuộc hành trình trên đường về Giêrusalem. Công tác của họ
chỉ trong một thời gian hạn định, nhưng trong lời huấn thị đưa ra cho họ, Chúa
Giêsu đã đưa ra những nguyên tắc căn bản áp dụng cho mọi thời. Trước hết Ngài tỏ
cho biết lý do của sự lựa chọn họ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Trước
khi thế gian nhận được sứ điệp họ mang tới, họ và những người kế vị họ phải tha
thiết cầu nguyện với Chúa mùa gặt sai thợ đến. Đó là một lời cầu nguyện mà mọi
kẻ phụng sự Chúa Kitô phải dâng lên tự đáy lòng mình. Lòng yêu mến của chúng ta
đối với Chúa sẽ khiến chúng ta cố gắng hoàn thành công tác mau chóng hơn, và muốn
được vậy cần phải có đông công nhân hơn.
Đối với người Do Thái, số bảy mươi hai là số
biểu tượng. Đó là số các trưởng lão đã được lựa chọn để giúp đỡ lãnh tụ Môsê, với
phận sự điều khiển, hướng dẫn dân chúng trong sa mạc. Đó là số thành viên của Hội
đồng quốc gia. Nếu số bảy mươi hai chỉ đoàn thể nào trong hai đoàn thể đó thì họ
cũng là phụ tá cho Chúa Giêsu. Số đó cũng được coi như số các nước trên thế giới
lúc bấy giờ. Luca là người có tầm mắt quốc tế, có lẽ ông đang nghĩ đến một ngày
mà mọi nước trên thế giới sẽ nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu, như ông đang yêu
mến Ngài vậy.
Đoạn Kinh Thánh cho ta biết mấy điều hết sức
quan trọng về người truyền đạo cũng như thính giả.
1) Người rao giảng khi ra đi phải sẵn
sàng chấp nhận sự hiểm nguy “như chiên giữa bầy muông sói”, nhưng họ
cũng đừng để cho lòng bối rối vấn vương vào những sự thế tục. Sứ giả cần lên đường
cách nhẹ nhàng.
2) Người rao giảng cần phải chú tâm
vào bổn phận của mình, đừng phí thời giờ vào những nghi lễ lạt lẽo vô vị,
nhưng phải ra đi như những con người được thúc giục bởi một động lực cao cả;
“Người ấy không được chào ai dọc đường”; điều này nhắc lại lời tiên tri Êlisa bảo
tên đầy tớ Giêkhađi đi giúp cho bà ân nhân đất Sunêm khi đứa con đã chết: “Hãy
thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp
lại” (2V4,29). Đó không phải là dạy làm điều bất lịch sự nhưng là người của
Thiên Chúa không nên quay ngang hoặc trì trệ vì những điều nhỏ nhặt đang khi những
việc lớn chờ đợi kêu gọi mình.
3) Người rao giảng không nên làm việc
để kiếm tư lợi. Người ấy nên ăn những món người ta dọn cho mình, không
nên đi từ nhà này qua nhà khác cố ý tìm nơi dễ chịu hơn, đầy đủ tiện nghi hơn.
Chẳng bao lâu sau khi Hội Thánh được thiết lập đã có những hạng người ăn bám. Cuốn
“Giáo lý của mười hai tông đồ”
được viết khoảng năm 100 là cuốn sách về trật tự Hội Thánh đầu tiên. Trong thời
đó có những tiên tri đi lang thang từ thành này sang thành khác. Sách đã quy định
rằng, nếu vị tiên tri nào muốn ở lại nơi nào lâu hơn ba ngày mà không có việc
làm thì kẻ ấy là tiên tri giả, và nếu tiên tri nào xưng mình ở trong Thánh Linh
mà xin tiền hay xin thức ăn thì kẻ ấy là tiên tri giả. Người thợ đáng lãnh tiền
công, nhưng đầy tớ của Đấng chịu đóng đinh không thể là một kẻ say mê lạc thú.
Ngay từ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, người
Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời thi hành sứ mệnh: “Hội Thánh nhân danh Thiên
Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh
Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Đấng giờ
đây đang thiết tha mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi của Người
được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng quảng đại đón nhận. Quả thật
chính Chúa Giêsu một lần nữa nhờ Thánh Công Đồng này, mời gọi tất cả các giáo
dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của
Người cũng là của chính mình (Ph 2,5). Họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của
chính Người và một lần nữa Ngài sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến.
Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa Giêsu cộng tác vào
cùng một công việc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện
khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của
thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình
không phải là uổng phí trong Người” (TĐ33).
Đức Kitô muốn thông ban cho các môn đệ lòng
can đảm trong việc tông đồ nên khi Ngài nói “Ta sai các con” điều mà thánh Gioan
Kim Khẩu chú giải: “Điều này đủ cho các ngươi được can đảm, điều này làm cho
các ngươi được tin tưởng”. Các sứ giả được can đảm vì ý thức rằng mình được
Thiên Chúa sai đi, như sau này Phêrô giải thích rõ ràng cho Thượng Hội Đồng ông
hành động như thế nhân danh Đức Giêsu Nagiarét, “vì dưới gầm trời này không có
danh nào khác khiến người ta được cứu rỗi”. Rồi thánh Grêgôriô Cả thêm vào để
giải thích huấn thị của Chúa: Đừng mang bao bị giày dép, đừng chào hỏi ai dọc
đường, Người rao giảng phải đặt niềm tin vào Chúa tới độ dầu không trang bị cho
mình những nhu cầu để sống, vẫn xác tín rằng sẽ không thiếu. Thật thế, nếu Ngài
bận tâm cho những sự thế tục, Ngài sẽ không thể ban phát chung quanh Ngài những
sự trên trời. Truyền giáo đòi hỏi một sự hiến thân bao gồm sự từ bỏ, thế nên
thánh Phêrô là người đầu tiên thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người
hành khất ở Cửa Đẹp đền thờ: “Vàng bạc thì tôi không có”. Thánh Ambrôsiô thêm
vào “không phải để phô trương sự nghèo khó, nhưng đúng hơn để vâng phục lệnh
Chúa, dường như Ngài muốn bảo anh: Thấy tôi là một môn đệ của Đức Kitô mà anh lại
xin tiền à? Chúng ta có thể cho anh ta cái gì còn có giá trị hơn vàng bạc nữa;
quyền năng hành động nhân danh Chúa. Tôi không có cái mà Chúa Kitô không cho
tôi, nhưng tôi có cái mà Ngài cho tôi: nhân danh Chúa Giêsu thành Nagiarét anh
hãy dậy mà đi”. Do đó, việc truyền giáo đòi hỏi phải siêu thoát của cải vật chất,
cũng như phải luôn luôn mau lẹ sẵn sàng vì công việc cấp bách.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Thánh
Ambrôsiô tự hỏi “Sao lại thế? Chúa lại bỏ qua một việc xã giao thường tình?
Nhưng phải để ý Chúa không bảo đừng chào ai nhưng bảo đừng chào ai dọc đường,
không thừa đâu!
Khi tiên tri Êlia sai tên đầy tớ đi cứu
giúp đứa con bà góa bằng cách để cây gậy của vị tiên tri trên đứa bé đã chết,
ông cũng ra lệnh đừng chào hỏi ai dọc đường: Ông có ý bảo phải mau mau cứu bé sống
lại, đừng để chậm trễ vì những người cùng đi đường với mình. Như thế không phải
bỏ qua hết phép lịch sự xã giao, nhưng hạn chế những gì ngăn trở để việc phục vụ
được mau lẹ. Khi Thiên Chúa đã bảo, điều gì thế tục phải tạm thời để qua một
bên, chào hỏi nhau là tốt, nhưng tốt hơn là thi hành cho mau điều Chúa dạy vì
chậm trễ có thể trở nên vô ích.
Về phần thính giả, lời Chúa hôm nay dạy rằng
nghe lời Thiên Chúa là một trách nhiệm lớn. Người ta sẽ chịu phán xét theo những
gì mình đã may mắn biết được. Chúng ta không chấp trách trẻ con điều mà chúng
ta kết án người lớn, chúng ta tha thứ cho người man ri những thái độ, hành động
mà nếu xảy ra nơi người văn minh thì bị trừng phạt. Trách nhiệm là mặt trái của
đặc ân. Chối bỏ lời mời của Thiên Chúa là một tai họa. Ở một phương diện thì mỗi
lời hứa của Chúa có thể thành lời buộc tội cho người nào nghe đến. Nếu người ấy
tiếp nhận các lời hứa đó thì quả thật đó là sự vinh hiển nhất, nhưng nếu người ấy
xén bỏ đi, thì một ngày kia, lời ấy sẽ là chứng cớ nghịch lại cùng người ấy vậy.
Bảy mươi hai môn đệ trở về với vẻ mặt sáng
rỡ vì những chiến thắng đã dành được trong danh Chúa. Ngài nói với các ông một câu
khó hiểu: “Ta thấy satan bị tấn công và nước Thiên Chúa xuất hiện”. Nó có thể
có nghĩa là Chúa Giêsu biết rằng nhát đòn tử thương đã giáng xuống satan và các
quyền lực của nó, tuy rằng chiến thắng cuối cùng có thể còn trì hoãn lâu.
Nhưng câu đó cũng có thể là lời cảnh báo
cho tính kiêu căng. Vì do kiêu ngạo satan chống nghịch Thiên Chúa, nên đã bị
ném ra khỏi trời. Có thể Chúa Giêsu ngụ ý cùng bảy mươi hai môn đệ rằng: “Các
ngươi đã thu hoạch được nhiều thắng lợi, hãy giữ mình kẻo sinh kiêu ngạo”. Chúa
Giêsu luôn cảnh báo các tôi tớ Ngài về tội kiêu ngạo và quá tự tín. Quả thực họ
được Chúa ban cho mọi quyền phép, nhưng vinh hiển lớn nhất của họ là được ghi
tên vào sổ trên trời. Có một điều mãi mãi là sự thật, ấy là vinh hiển lớn nhất
của con người không phải là những gì mình đã làm được, mà là những gì Chúa đã
làm cho mình. Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm
bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào khác trong y khoa. Một hôm có người hỏi
James Simpson: “Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông?” và mong đợi câu trả
lời rằng: “Thuốc mê”, vì chính ông là người đã khám phá ra môn thần dược này.
Nhưng Simpson đã trả lời: “Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu
Chuộc của tôi”. Tính kiêu ngạo đã cản đường lên thiên đàng, nhưng đức khiêm nhường
là giấy thông hành để được gặp Chúa.
Chúa sửa sai thái độ của các môn đệ khi chỉ
cho các ông lý do thật để vui mừng, đó là niềm hy vọng đạt nước thiên đàng chứ không
phải trong quyền năng làm phép lạ, khi Người trao sứ mạng này cho các ông.
Trong dịp khác, Chúa cũng cho một bài học tương tự (Mt 7,22-23). Trước mắt
Chúa, thi hành ý Ngài quan trọng hơn là làm phép lạ.
16. Người môn đệ
Nếu bây giờ tôi đặt câu hỏi: có khi nào
chúng ta đã nghĩ tới bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ hay chưa?
Chắc hẳn có người sẽ trả lời: Việc tông đồ,
việc truyền giáo là bổn phận của các linh mục và tu sĩ, còn chúng tôi lăn lóc giữa
đời, bận rộn với trăm công nghìn việc, còn thời giờ đâu đề nghĩ tới chuyện ấy.
Dĩ nhiên, sứ mạng chính yếu của các linh mục
và tu sĩ là hoạt động tông đồ, dẫn đưa mọi người trở về cùng Chúa. Tuy nhiên, là
người giáo dân, chúng ta cũng có bổn phận phải góp phần vào công cuộc trọng đại
ấy.
Thực vậy, tin mừng hôm nay cho thấy ngoài
mười hai tông đồ, Chúa Giêsu còn chọn thêm bảy mươi hai môn đệ và sai họ đi từng
hai người một, đến những nơi chính Ngài sẽ tới. Ngài bảo các ông: Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít.
Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù sống bằng
bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta vẫn có thể và phải góp phần vào công cuộc truyền
giáo. Chúng ta có thể và phải là người tông đồ ngay chính giữa lòng cuộc đời của
mình. Vậy chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào? Tôi xin thưa hãy truyền
giáo bằng chính cuộc sống đạo đức và yêu thương của mình, bởi vì nhờ đó, chúng
ta sẽ trở nên một tin mừng sống động, một phản ảnh trung thực của Đức Kitô.
Trước hết bằng một cuộc
sống đạo đức.
Tục ngữ Việt Nam đã bảo: cái nết đánh chết
cái đẹp. Vẻ đoan trang thùy mị của chúng ta sẽ là một mối duyên ngầm, chinh phục
được cảm tình của người khác. Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi
kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn
người khác. Đứng trước gương sáng của chúng ta, kẻ độc ác nhất cũng phải xúc động
và đặt lại vấn đề. Có những người trở lại chỉ vì thấy một em nhỏ ngoan ngoãn, lễ
độ và siêng năng tới nhà thờ tham dự thánh lễ. Có một thanh niên được mọi người
yêu quí vì anh ta lịch sự, sẵn sàng giúp đỡ những người chung quanh bất cứ việc
gì. Anh ta không phải chỉ tỏ ra mình là người công giáo, mà hơn nữa, anh ta còn
sống niềm tin của mình. Nói cách khác, anh ta đã sống đạo và người ta có thể bảo:
Hình ảnh Đức Kitô luôn phảng phất nơi anh ta..
Tiếp đến bẵng một cuộc sống
ngập tràn tình bác ái yêu thương.
Thực vậy, bằng một đời sống đạo đức, chúng
ta trở nên tông đồ của Chúa giữa lòng cuộc đời. Tuy nhiên, tinh thần đạo đức ấy
phải được biểu lộ ra bên ngoài bằng những lời nói, những việc làm của chúng ta.
Trong cuộc sống, chúng ta có rất nhiều cơ hội
để dẫn đưa những kẻ lầm đừng lạc lối trở về cùng Chúa, để cứu vớt những linh hồn
đang chìm sâu trong tội lỗi. Bằng lời nói chia sẻ và cảm thông, chúng ta có thể
làm cho người khác khỏi cô đơn chán nản. Bằng lời nói an ủi và khích lệ, chúng
ta có thể làm cho người khác khỏi bi quan tuyệt vọng. Bằng lời nói chân thành
và xây dựng, chúng ta có thể làm cho người khác thoát khỏi chốn bùn nhơ tội lỗi.
Bằng lời nói khuyên răn nhủ bảo, chúng ta có thể làm tông đồ cho Chúa trong gia
đìnhminh cũng như trong môi trường mình đang sống. Có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Tinh thần đạo đức còn phải được biểu lộ qua
những cử chỉ, những việc làm của chúng ta. Mấy người bạn tụ họp và trao đổi những
câu chuyện thiếu đứng đắn, nếu bấy giờ có được thái độ nghiêm túc, chúng ta sẽ
làm cho họ phải dừng lại. Khi người khác bài bác tôn giáo, chúng ta không được
phép yên lặng, vì yên lặng khi phải nói là một tội cũng nặng như nói khi phải
yên lặng. Trái lại, chúng ta hãy lên tiếng bênh vực đức tin, dù có làm mất lòng
bè bạn. Trong trường hợp này, chúng ta không sợ ai cả, mà chỉ sợ một mình Thiên
Chúa, như lời thánh Cyprianô: Hãy sợ Thiên Chúa và rồi chúng ta sẽ chẳng còn phải
sợ một ai cả.
Một cô y tá có thể truyền giáo bằng thái độ
ân cần, bàng nụ cười cảm thông, bằng ánh mắt khích lệ, bằng cử chỉ sẵn sàng giúp
đỡ những người đau yếu. Và như vậy, chúng ta có thể dùng những hành động bác ái
yêu thương để cảm hóa người khác, vì bác ái yêu thương là dấu chỉ chắc chắn nhất
giúp người khác nhận ra khuôn mặt Đức Kitô.
Nếu không phải là một trong số mười hai
tông đồ, thì ít nữa chúng ta cũng phải là một trong số bảy mươi hai môn đệ. Sứ mạng
truyền giáo không phải chỉ là sứ mạng dành riêng cho linh mục và tu sĩ, nhưng
còn là bổn phận chung của mỗi người chúng ta. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất
kỳ địa vị nào, làm bất cứ nghề nghiệp nào, chúng ta cũng có thể và phải góp phần
vào công cuộc truyền giáo, bằng một đời sống đạo đức và nhất là bằng những hành
động bác ái yêu thương.
Ở Pêru có một loại cây rất ngộ nghĩnh, người
ta bản xứ gọi nó là “cây làm mưa”. Lá nó hút hơi nước trong không khí, rồi nhỏ
xuống như những giọt sương mai. Vì thế, chung quanh nó mặt đất lúc nào cũng ẩm
ướt. Và trời càng nóng, thì nó càng nhỏ xuống nhiều nước.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như một
cây làm mưa hữu ích cho những người chung quanh đang khô khan. Bằng đời sống đạo
đức, chúng ta hút lấy ơn sủng của Chúa, để rồi bằng những hành động bác ái yêu
thương, chúng ta gieo vãi ơn sủng ấy cho những người chung quanh.
Chúng ta sống đức tin, để rồi nhờ đó chúng
ta làm cho đức tin sống lại trong tâm hồn người khác. Đồng thời, khi làm cho người
khác sống đức tin, thì đức tin của chúng ta sẽ trờ nên mạnh mẽ hơn. Cũng vậy,
muốn được hạnh phúc, thì chúng ta hãy cố gắng làm cho người khác được hạnh
phúc. Niềm hạnh phúc chúng ta làm cho người khác sẽ trở lại với chúng ta và làm
cho chúng ta được hạnh phúc hơn.
17. Truyền giáo bằng đời sống
Lúa chín thì nhiều mà thợ
gặt thì ít.
Trong suốt cuộc sống công khai, Chúa Giêsu
đã rảo khắp các nẻo đường xứ Palestien để rao giảng Tin Mừng. Đồng thời, Ngài cũng
đã chọn lựa và sai phái các môn đệ ra đi, để tiếp tay với Ngài trong sứ mạng
cao cả ấy.
Tuy nhiên những cố gắng ấy dường như không
đáp ứng nổi với nhu cầu khẩn thiết, vì thế mà Chúa đã nói:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy
các con hãy xin chủ ruộng sai thợ tới gặt lúa.
Trải qua dòng thời gian, lời xác quyết này
vẫn còn là một sự thật, bởi vì ngày hôm nay con số những người tin nhận Chúa mới
chiếm được 30%, và riêng những người Công giáo thì mới chỉ được có 17% dân số
trên thế giới.
Đồng thời qua lời xác quyết ấy, Chúa cũng
muốn kêu mời chúng ta hãy trở nên là những người thợ gặt của Chúa. Có nghĩa là,
chúng ta cũng hãy góp phần vào việc truyền bá đức tin, làm cho Giáo hội được
phát triển. Dĩ nhiên chúng ta có rất nhiều phương pháp để rao giảng Tin Mừng.
Chẳng hạn bằng việc ra đi như các tông đồ
các vị thừa sai, bằng việc cầu nguyện như các vị tu sĩ trong dòng kín… Thế nhưng,
hôm nay tôi muốn giới thiệu tới quí ông bà một phương pháp mà mỗi người chúng
ta đều có bổn phận phải thực hiện, đó là truyền giáo bằng chính đời sống, bằng
chính gương sáng của chúng ta.
Để hiểu được hậu quả tốt đẹp mà phương pháp
này đem lại, tôi xin kể hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất
đó là có một người Tin Lành, nghe tiếng cha Vianney là một người đạo đức thánh
thiện, bèn tìm đến xứ Ars để kiểm tra sự thật. Sau khi ra về, người ta hỏi ông đã
thấy được những gì, thì ông trả lời:
- Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người.
Và sau đó thì ông đã trở lại với Giáo hội
Công giáo.
Mẩu chuyện thứ hai
đó là có một người khô khan nguội lạnh, tình cờ đi ngang qua nhà thờ, ông thấy
một cô bé đang dẫn mấy em nhỏ vào nhà thờ. Ông đứng quan sát và rồi đã đi theo cô
bé. Thấy nét mặt trang nghiêm và sốt sắng của cô bé khi cầu nguyện, ông đã thực
sự xúc động, và rồi cuối cùng, ông cũng đã trở về cùng Chúa.
Với hai mẩu chuyện này chúng ta thấy được sức
cảm hóa của gương sáng như thế nào. Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:
- Lời nói như gió lung lay, việc làm như
tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói:
- Gương sáng chính là một bài giảng hùng hồn
nhất, có sức lôi cuốn và thuyết phục người khác.
Đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và
yêu thương của chúng ta chính là một thứ ánh sáng cần thiết cho xã hội như lời
Chúa đã phán:
- Các con là ánh sáng thế gian. Bởi vì nhờ
các việc chúng ta làm mà người khác sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa, để rồi cũng
sẽ tin nhận Ngài.
Giữa một thế giới đã xa lìa Thiên Chúa,
đang chìm dần vào sa đọa và tội lỗi, thì chúng ta có bổn phận phải thắp lên một
ngọn lửa, chứ đừng ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Và ngọn lửa chúng ta thắp lên là gì? Tôi
xin thưa đó chính là đời sống gương mẫu của mỗi người chúng ta.
18. Chọn lựa các môn đệ – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bà Tôrôtê đã nhận định thật hay về cuộc đời
của một người sống theo lý tưởng như sau: Ai mang theo tất cả mọi sự với mình
thì sẽ để lại sau rất ít, và do đó, người đó trước sau vẫn y nguyên như vậy,
không có gì thay đổi và có rất ít cả thể để tìm gặp kẻ đó đang tìm kiếm. Một
người không biết hy sinh gì cả thì sẽ không gặp được gì. Để gặp được điều ta
tìm kiếm thì điều kiện phải có là biết từ bỏ hoàn toàn, lừng chừng thỏa hiệp nửa
vời sẽ mang đến tàn phá mà thôi.
Nếu những dòng diễn tả trên diễn tả đúng
cho cuộc sống theo lý tưởng nào đó thì nó lại càng đúng hơn nữa cho cuộc sống của
người đồ đệ của Chúa mà bài Phúc âm hôm nay muốn nhắc lại cho chúng ta một vài
đặc điểm.
Khi Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi rao giảng
Tin Mừng, đặc điểm nổi bật nhất dĩ nhiên phải là sự từ bỏ, để lại đàng sau nhiều
điều, nếu không muốn nói là tất cả mọi điều, để chỉ có Chúa và sự công chính của
Chúa trước hết. Ai muốn mang theo mọi sự với mình thì sẽ để lại rất ít. Rất ít
có cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Người sống ích kỷ muốn mang theo tất cả
mọi sự cho mình thì sẽ để lại rất ít, nhất là khi chết rồi thì chẳng còn gì và
sẽ có rất ít cả thể gặp được điều mình tìm kiếm. Sẽ có rất ít cả thể để theo
Chúa cho đến cùng, để sống trọn vẹn cuộc đời theo Chúa.
Chúa Giêsu ý thức rõ ràng cuộc đời của môn
đệ gặp nhiều thử thách. Ngài sai các ông ra đi như chiên vào giữa sói rừng, nhưng
Chúa vẫn đòi hỏi môn đệ phải có thái độ từ bỏ những an toàn của con người và do
con người tạo ra, đó là tiền, bao bị, giầy dép và liên lạc xã giao thường tình.
Chúa sai các ngài ra đi với lời căn dặn: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao
bị, giầy dép và đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là những điểm nói lên sự an
toàn của con người, do con người tạo ra và Chúa muốn cho những đồ đệ của Ngài
ra đi làm những công việc của Ngài, không ỷ lại vào những sự an toàn của con
người, do con người tạo ra.
Thật là những lời khuyên, những mệnh lệnh,
xét theo thường tình con người thì rất là ngược đời, nếu không muốn nói là
không khôn ngoan chút nào hoặc không thể thực hiện được. Nhưng Chúa Giêsu giõng
dạc thay đổi nhằm đến một thái độ từ bỏ, không ỷ lại vào những sự an toàn của
cuộc sống.
Một nhà truyền giáo tương lai sắp sửa lên
đường viết thơ cho vị giám mục như sau để hỏi về những điều cần thiết cho cuộc sống
của mình trước khi lên đường đến nhận nhiệm sở, nhà truyền giáo đó hỏi:
- Có xe để di chuyển không?
- Nhà ở có máy lạnh không?
- Có người giúp nấu cơm cho ăn hay không?
- Trong nhà có tủ lạnh hay không?
- Có tiền lương mỗi tháng bao nhiêu?
- Có được đi nghỉ hè mỗi năm không? v.v…
Dĩ nhiên nhà truyền giáo đó muốn cho mình mọi
sự an toàn trước khi dấn thân. Nhà truyền giáo đó đã nhận được thơ trả lời rất
nhanh của vị Giám mục yêu cầu đừng đến làm việc truyền giáo nơi giáo phận của
ngài nữa.
Phải chăng, chính bản thân chúng ta cũng dễ
dàng bị cám dỗ bởi những đòi hỏi tiện nghi vật chất cho cuộc đời theo Chúa của mình.
Muốn có thật nhiều thì rốt cuộc chẳng có bao nhiêu. Đó là về thái độ sống của
người đồ đệ của Chúa.
Về nội dung sứ điệp rao giảng thì sao? Chúa
Giêsu căn dặn các đồ đệ trong bài Phúc âm hôm nay: “Vào nhà nào chúng con hãy nói
bình an cho nhà này”. Lời này loan báo trước lời chúc bình an của Chúa Giêsu
cho các môn đệ khi Chúa Phục sinh hiện ra cho các ông và sai các ông ra đi mang
bình an của Chúa đến cho mọi người. Lúc đó, Chúa hiện ra cho các môn đệ và nói:
“Bình an cho các con”.
Được huấn luyện, được thực tập trước để rao
giảng sự bình an cho anh chị em mình, nên chắc chắn khi ban bình an cho các môn
đệ, các môn đệ sẽ hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa về hệ quả của lời chúc bình an này
mà Chúa đã phải chết trên thập giá để mang đến cho các ông.
Nhận sự bình an của Chúa, các môn đệ được
sai đi chia sẻ sự bình an của Chúa cho anh chị em. Nhưng nếu bám víu vào những điều
trần tục, chỉ lo cho sự an toàn ích kỷ của mình và những điều trần tục, những sự
an toàn ích kỷ này thường là những điều gây chia rẽ, xung đột, bất hòa giữa cá
nhân với nhau, đó là nói trên bình diện nhỏ và nếu nói trên bình diện lớn thì sẽ
gây chiến tranh giữa các quốc gia.
Nếu bám víu vào những điều trần tục, chỉ lo
cho sự an toàn ích kỷ của mình thì làm sao có thể chia sẻ sự bình an của Chúa cho
anh chị em được. Ai muốn mang theo tất cả mọi sự với mình thì sẽ để lại sau rất
ít và rất ít để tìm gặp điều mình mong muốn. Một người không biết hy sinh gì cả
thì sẽ không gặp được gì cả.
Lời Chúa hôm nay còn muốn nói với chúng ta
nhiều điều khác nữa, nhưng ít ra trong giây phút này chúng ta hãy xét mình lại về
hai điểm vừa được gợi ra cho chúng ta đó là: Thái độ từ bỏ mọi sự để theo Chúa
không ỷ lại vào sự an toàn của con người, nhưng cần nghĩ đến sự quan phòng chăm
sóc của Chúa cho đời sống của mình. Và điểm thứ hai là chia sẻ sự bình an của
Chúa cho anh chị em. Chúng ta hãy để cho Chúa chiếm trọn tâm hồn chúng ta, để
chúng ta có được đầy tràn sự bình an của Chúa, qua đó chúng ta có thể chia sẻ sự
bình an ấy cho anh chị em. Chúng ta đến cử hành thánh lễ và trong thánh lễ trước
khi chúng ta đón nhận Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta được mời gọi nhớ lại lời
hứa bình an của Chúa: “Thầy ban cho chúng con bình an, bình an mà thế gian
không thể ban cho”.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sự
bình an này và gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta
cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
19. Tử tế
“Lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt thì ít”. Chúa nhật hôm nay Giáo Hội mời gọi mọi
người hãy đưa mắt nhìn đồng lúa chín vàng. Đồng lúa ấy có thể là cả thế giới.
Thế giới có khoảng sáu tỉ người, mà những người tin Chúa mới chỉ hơn một tỉ.
Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới nhưng người Công giáo chỉ có không
tới 3/o. Có thể là đất nước Việt Nam chúng ta gần 80 triệu người, mới có khoảng
trên 10 triệu người Công giáo. Vẫn còn biết bao người chưa biết Chúa. Có thể là
giáo phận, nhưng cũng có thể là khu xóm, gia đình, nơi chúng ta sinh sống, làm
việc… Vậy ai là thợ gặt trong cánh đồng lúa ấy?
Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa
Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng, nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ.
Điều này có nghĩa là việc rao giảng không phải chỉ dành riêng cho nhóm 12 là các
tông đồ, nhưng cho số đông những người theo Chúa. Đối với chúng ta hôm nay, việc
rao giảng Tin Mừng cũng không phải là bổn phận của một số thành phần nào trong
Giáo Hội như Giám mục, linh mục hay tu sĩ, nhưng là bổn phận của những người
tin theo Chúa, tức là của mọi người và mỗi người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Như vậy,
thợ gặt là tất cả chúng ta.
Thật vậy, ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa
tội, từ khi được làm con Chúa, khi được gia nhập vào Giáo Hội, người Kitô hữu được
trao cho một chiếc áo trắng đánh dấu một cuộc đời mới, đồng thời cũng được trao
cho một cây nến sáng được châm lửa, được thắp sáng từ cây nến Phục sinh, tượng
trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô là ánh sáng. Anh sáng ấy đến thế gian để
chiếu rọi bóng tối. Ai tiếp nhận ánh sáng thì cũng trở nên đèn sáng soi cho người
khác. Như thế, biểu tượng trao nến sáng nói lên nhiều ý nghĩa: người lãnh Bí
tích Rửa tội tiếp nhận ánh sáng trong niềm vui vì đã tìm thấy ánh sáng chân thật.
Đàng khác, cũng nói lên trách nhiệm phải trở nên đèn sáng cho những người chung
quanh bằng cách sống trong ánh sáng.
Như vậy, ngay từ lúc được rửa tội, ngay từ
lúc tiếp nhận ánh sáng, thì người Kitô hữu cũng trở nên đèn sáng, cũng lãnh nhận
sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng. Nói cách khác, bản chất của người Kitô hữu là
đèn sáng, là người được sai đi, sai đi thực hiện công trình của Chúa đến từng
người ở mọi nơi mọi thời, không phân biệt màu da, tiếng nói, tín ngưỡng, địa vị
xã hội… Và hơn nữa, ở nơi nào càng khó khăn nguy hiểm, thì người Kitô hữu càng
được sai đi; ở nơi nào càng có thế lực sự dữ ngự trị, thì lệnh truyền ấy càng
khẩn thiết, như Chúa đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói”, bởi
vì “Những người mạnh khỏe không cần thầy thuốc, chỉ những ai bệnh tật mới cần”.
“Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời những người bất lương ăn
năn trở lại”.
Tuy nhiên, công việc rao giảng không chỉ là
của con người nhưng là của chính Chúa, Ngài là chủ và là người quản lý. Chính vì
vậy nên khi sai các môn đệ đi rao giảng Ngài không mấy chú trọng đến phương tiện.
Phương tiện mà Chúa trao cho các môn đệ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả.
Phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống
chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người. Việc
sống tử tế này không chỉ đối với những người có hoàn cảnh và điều kiện tốt,
nhưng là một đòi hỏi cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu Việt Nam
chúng ta đang sống trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn và chưa lấy gì làm sáng sủa
của đất nước. Đây cũng là điều chúng ta đặc biệt lưu ý hôm nay.
Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý
nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này
được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có
tên là “Đại Dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi: “Những người Kitô Việt Nam
có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế?”. Nhà đạo diễn đã trả lời: “Điều
người ta mong đợi ở các người Kitô Việt Nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều
họ tin”.
Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây
đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa.
Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả
dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin
của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại,
sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không
phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng
và ơn gọi của mỗi người Kitô chúng ta.
Có người đã nói lên một sự thật đau lòng
như sau: “Chữ tử tế”
bây giờ chỉ thấy ở miệng những người có tuổi hoặc những người hơi xưa. Thời bây
giờ mấy ai còn thì giờ để luận bàn những chuyện xa xôi ấy”. Thật là một lời cảnh
báo đáng cho chúng ta suy nghĩ. Người tử tế dường như đã trở thành loại người
quí hiếm trong xã hội. Và khi lòng tử tế đã trở thành quí hiếm thì dĩ nhiên là
những hành động không tử tế chút nào lại càng gia tăng với cấp số nhân. Đọc báo
chí hàng ngày chúng ta thấy đầy dẫy những hành động không chút tử tế ấy.
Sống cho tử tế,
sống cho ra người là điều cần thiết và quan trọng cho cá nhân cũng như xã hội.
Đó là ý nghĩa của câu nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Tử tế thực sự không phải
là có tiền hoặc muốn là có được ngay. Nó cũng phải được học hành, được dạy dỗ, được
tập luyện, kế thừa và gìn giữ. Tử tế như hoa thơm, hoa đẹp, không thể thiếu được
của cuộc đời.
Một người bạn của đạo diễn Trần văn Thủy,
trước khi chết vì bệnh ung thư đã nói: “Tôi chả có gì phải hối tiếc vì chúng ta
đã sống tử tế với nhau”. Lời phát biểu gợi cho chúng ta niềm vui ngập tràn của
72 môn đệ Chúa sau khi đã hoàn thành công tác được giao phó. Đó là niềm vui của
các tông đồ chân chính, là niềm vui của những ai dám sống tử tế trong một xã hội
không lấy gì làm tử tế và đó chẳng phải là niềm vui của những người Kitô chúng
ta sao?
Xã hội chúng ta đang xuống cấp về mọi mặt,
nhất là mặt đạo đức, đó là thực tế không thể chối cãi. Nhưng “Thà đốt lên một ngọn
nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”. Tất cả những điều chia sẻ trên đây
mong ước gợi lên cho mọi người một suy nghĩ: trước khi nghĩ đến những công việc
truyền giáo to lớn rầm rộ, chúng ta cần chú ý đến những việc nhỏ bé đơn giản,
đó là thắp một ngọn nến, tức là thắp một tia hy vọng cho người tuyệt vọng, mang
bình an cho người đau khổ, mang tình yêu đến cho người bị bỏ rơi… chúng ta làm
được những việc đó không?
20. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
HÃNH DIỆN VÌ THẬP GIÁ ĐỨC GIÊSU KITÔ
Sứ mạng của ki-tô hữu hôm nay là rao giảng
Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi nhận
biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, người ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu
thương con người đến độ nào! Thập giá trở thành biểu tượng của Đấng chịu đóng
đinh, và rao giảng về thập giá là rao giảng về tình yêu nhập thể.
Khám phá kho tàng qua thập
giá Đức Yêsu
Một đời vất vả lam lũ rao giảng Tin Mừng,
công trạng của Phaolô rất to lớn, nhưng Phaolô nói: “ước gì tôi không hãnh diện
về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Với người đánh giá mọi sự
theo giá trị phàm trần, thập giá chỉ là một cây gỗ, có gì mà hãnh diện? Cái chết
ô nhục trần trụi trên thập giá, có gì đáng tự hào? Phaolô hãnh diện vì thập
giá, không phải vì đó là một cây gỗ, nhưng Ngài hãnh diện vì Con Người đã chết
trên thập giá, Đức Yêsu- Đấng yêu thương con người đến chấp nhận cái “chết treo
thập giá trần trụi ô nhục”.
“Đức Yêsu chết treo thập giá”, dạy Phaolô
và con người của mọi thời đại rất nhiều bài học. Ai sống trên đời mà không ham sống
lâu, không ham giầu sang, không ham được trọng vọng? Có nhiều người khi bị
nghèo, không được trọng vọng, không quyền cao chức trọng, thì than thân trách
phận, làm như thể cuộc đời họ không còn ý nghĩa gì nữa. Cái hiểu biết sai lầm
này, làm chính đương sự không hạnh phúc, và cũng làm những người thân cũng như
những người sống với họ, bị ảnh hưởng. Có biết bao gia đình tan hoang vì một
trong hai vợ chồng đã có quan niệm sai lạc như vậy.
Hãnh diện vì thập giá Đức Yêsu, là hãnh diện
vì mình chỉ là người trần nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vì Thiên
Chúa nhập thể đã yêu con người đến chết trên thập giá. Con người đối với Thiên
Chúa thật đáng quý biết bao. Nếu chính Thiên Chúa còn quý trọng con người đến độ
chết cho con người, nghĩa là con người có giá trị thực sự trước Thiên Chúa, thì
con người cũng phải biết yêu thương kính trọng nhau. Thập giá Đức Yêsu, là bằng
chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Hãnh diện vì thập giá,
là hãnh diện vì mình được yêu, là hãnh diện vì mình nhận thức được chân lý, biết
được giá trị đích thực của cuộc đời.
Rao giảng Nước Thiên
Chúa trong mọi tình huống
Đức Yêsu đã sai gởi không chỉ nhóm 12,
nhưng Ngài còn sai 72 môn đệ đi rao giảng về Nước Thiên Chúa nữa. Sứ điệp rao
giảng là “Nước Thiên Chúa đến gần”. Qua cái chết và sống lại của Đức Yêsu, “nước
Thiên Chúa” đã đến và đang đến.
Đâu là cách hành xử của người ra đi rao giảng
Tin Mừng? Không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép; không chào hỏi ai
dọc đường! Người rao giảng Tin Mừng, chẳng có gì đáng giá ngoại trừ chính sứ điệp
rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng, chỉ lo lắng sao cho Tin Mừng được loan
báo, và không bận tâm về những điều không cần thiết như lương thực, quần áo, giầy
dép. Những việc chào hỏi dọc đường có thể làm người có sứ mạng quên mất công việc
chính yếu của họ. Việc rao giảng Tin Mừng, quan trọng và khẩn thiết hơn tất cả
những việc xã giao, chào hỏi. Những gì ngăn trở cho việc rao giảng, phải được bỏ
đi.
Với những người được rao giảng, phải như thế
nào? Với những người tiếp đón các ngài, các ngài chúc bình an và loan báo cho họ
biết “Nước Thiên Chúa đến gần”; với những người không tiếp đón các ngài, các
ngài giũ cả bụi chân lại nhưng vẫn loan báo “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Môn đệ
của Đức Yêsu rao giảng tin mừng Nước Trời trong mọi trường hợp, lúc thuận lợi
cũng như những lúc bất thuận lợi, lúc được đón nhận cũng như lúc bị từ chối.
“Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an…”. Bình
an hệ tại thái độ nội tâm của con người, tuỳ thuộc thái độ của người đó có sẵn sàng
đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa hay không. Phaolô và các tông đồ, khi đi rao
giảng các Ngài bị bắt bớ tra tấn, nhưng các Ngài vẫn có sự bình an đích thực. Sự
bình an mà Đức Yêsu hứa ban cho các môn đệ của Ngài, và thế gian không thể cướp
đi được. Những yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng đến con người, nhưng không thể làm một
người “theo Chúa” mất bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Khi nói về thập giá, điều gì gợi lên
trong đầu bạn? Nói thật với lòng mình, bạn thấy “thập giá” có ích lợi gì không?
2. Bình an là gì? Theo bạn, đâu là điều kiện
để có bình an thực sự?
3. Một ki-tô hữu có được trao sứ mạng rao
giảng Tin Mừng không? Cung cách hành xử cho những người được sai đi loan báo
tin mừng “Nước Thiên Chúa”, có áp dụng đối với các ki-tô hữu không? Tại sao?
21. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ được
Đức Giêsu sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn đệ đó tượng trưng cho ơn gọi
nào trong Giáo Hội?
2. Tình hình nhân sự trong việc tiếp nối sứ
mạng của Đức Giêsu trên thế giới hay trong xã hội chúng ta đang sống như thế nào?
Khi ý thức điều ấy, bạn có nghe thấy Đức Giêsu mời gọi bạn làm gì không?
3. Để làm tông đồ, tức tiếp tục công việc cứu
thế của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì? Chúng ta đã làm gì? Có gì cần sửa chữa
trong quan niệm của chúng ta?
Suy tư gợi ý:
1. Ơn gọi làm tông đồ
giáo dân
Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giêsu huấn luyện
đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72
môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi
tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc
biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Và ví ơn gọi của
72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở
trình độ phổ thông để làm tông đồ.
Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực
ra, bất kỳ người Ki-tô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức,
đều được Đức Giêsu mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế,
việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà
là nhiệm vụ của bất kỳ người Ki-tô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân
tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ
hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Ki-tô hữu đã có từng được đào tạo để làm
tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo
dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân
khác.
2. Sứ mạng của Đức Giêsu
còn bao nhiêu việc phải làm
Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng
ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm
vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giêsu đến là để cứu chuộc nhân loại,
mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là
phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Nhiều khi người Ki-tô
hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy
chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội
cũng như của Đức Giêsu không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại,
không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay
con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những
phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.
Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự
hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giêsu chưa? Một cách
cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh
phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Ki-tô hữu hay tập thể Ki-tô hữu,
có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ
đau và hạnh phúc hơn không?
Thế giới và xã hội con người hiện nay còn
biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu chưa thực hiện
được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn
thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Ki-tô hữu,
dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không?
Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?
3. Trình tự những việc
phải làm của người môn đệ Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sai
72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu
được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như
sau:
1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày
dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng
của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng.
Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn
đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực
để cứu rỗi người khác?
2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói
sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài
nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập
trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.
3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói:
“Bình an cho nhà này!”»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người
mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt… về tinh thần cũng
như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên
cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi
người sống trong trần thế.
4. «Hãy chữa những người đau yếu trong
thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp
họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những
nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với
hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh
phúc cho họ một cách hữu hiệu.
5. Và sau cùng mới là «nói với họ: “Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần các ông”»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói
với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.
Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người
chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới
dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những
chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều
khi người Ki-tô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giêsu đã đề nghị. Chúng
ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào
hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu
thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại
Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của
chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người
Ki-tô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường
mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện
diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những
nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm
sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó
ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới
đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng
cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường
nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v… Amen.
22. Tại trung tâm bão biển – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Sứ
vụ của chúng ta là đem bình an của Đức Kitô đến cho thế gian"
Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên
toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang
đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:
"Thưa ông/bà;
Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi
tôi chợt nhìn thấy hàng chữ 'Peace-Be-to-You' (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính
xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà
chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an,
vì đây là 'chuyến ăn hàng' đầu tiên của tôi.Do đó, 'bình an cho bạn' và cho
tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa."
Ký tên: "Người Muốn Ăn Cắp Xe."
Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh
lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc
âm hôm nay:
"Vào bất cứ nhà
nào, trước hết các con hãy nói, 'Bình an cho nhà này.' Nếu một người yêu chuộng
bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy
lại lời chúc bình an."
Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên,
chúng ta thấy câu "Bình An-Cho-Bạn" đã nới rộng sự bình an của Đức
Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn,
và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.
Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn
nói gì về "bình an của Đức Kitô"? Bình an đó được cấu tạo bởi những
gì? Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.
Thứ nhất, nó được dùng
trong ý nghĩa quân sự--để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia.
Do đó, chúng ta nói, "Các quốc gia đang sống bình yên."
Thứ hai, nó được dùng ý
nghĩa cá nhân--để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta
nói, "Chúng tôi hòa thuận với nhau."
Thứ ba, Kinh Thánh dùng
chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo--để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa
Thiên Chúa và con người. Do đó, chúng ta nói, "Chúng ta hài hòa với Thiên
Chúa."
Sau cùng, Kinh Thánh dùng
chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với
Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ "bình
an của Đức Kitô".
Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người
tuyên bố, "Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy
ban cho các con" (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh
Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt
đất-là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc,
"Xin cho Nước Cha trị đến..."
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền
cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu
truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.
Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của
Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.
Một loại suy sau đây có thể giúp chúng ta
biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.
Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm
một giờ, người ta gọi nó là "typhoon" (bão lớn) khi xảy ra ở Thái
Bình Dương, và gọi là "hurricane" (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây
Dương. Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa "frisbee"
với một lỗ hổng ở giữa. Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó
rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái
đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là cơn cuồng phong hay
cơn bão. Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa
"frisbee".Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ
100 dặm một giờ,nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc.Nếu bạn
đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói
chang.
Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều
Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ
bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.
Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở
trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp
bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác. Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể
thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang.
Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng "bình an của Đức Kitô." Đức
Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó,
nhưng để bồi dưỡng trong giây lát. Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng
hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ. Đức Giêsu không
bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão.
Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa
các trận cuồng phong của thế gian. Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của
Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.Người muốn
chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng
trên toàn thế giới. Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên
giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và
bình an của Đức Kitô-đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với
Thiên Chúa, tha nhân và chính mình. Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức
Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa. Chính sự
bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người. Chính sự bình an này mà Đức
Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ.
Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong
thời đại chúng ta.
Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin
Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:
"Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ
bình an của Chúa, Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu; nơi xúc phạm, con đem đến
tinh thần tha thứ; nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin; nơi bất hoà, con đem đến
sự hoà hợp; nơi thất vọng, con đem đến hy vọng; nơi bóng tối, con đem đến sự
sáng; nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con tìm an ủi người
hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết; tìm yêu mến
người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ;
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời."
(Thánh Phanxicô Assisi)
23. Chú giải của Noel Quesson
Sau đó. Chúa chỉ định bảy
mươi hai người khác và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả
các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.
Là bạn đồng hành của Phaolô, tông đồ các
dân ngoại Luca nhấn, mạnh đến điểm này của cuộc đời Đức Giêsu. Trong số bốn thánh
sử, Ngài là người duy nhất thuật lại giai đoạn này. Trong lúc Luca viết ra,
Ngài đã thấy các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất
của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt
động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của
giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức
Giêsu (Rô-ma 16).
Luca nhấn mạnh rằng chính Đức Giêsu đã thiết
lập việc tông đồ của các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ sai Nhóm Mười Hai đi (Lc
9, l-6). Người cũng đã sai bảy mươi hai môn đệ,ra đi và hầu như trong cùng một
thời gian (Lc 10, 1,20) để thực hiện cùng một sứ mạng... vả lại với nhiều tình
huống hơn sứ mạng của hàng giáo phẩm. Người ta sẽ không bao giờ kể lại điều đó
cho đầy đủ, Giáo Hội không chỉ và không trước tiên là Giáo Hoàng và các Giám Mục
mà là “dân Thiên Chúa", là mỗi Kitô hữu.
Tôi có tin rằng Đức Giêsu sai tôi đi không?
Rằng tôi là “sứ giả”
"Người được sai đi" của Chúa đến với người này, người nọ không? Phải
có cả các phụ nữ trong số những người được sai đi đó (Lc 8, 13)
“Bảy mươi hai"... ám chỉ tính toàn cầu
của các dân ngoại được kể ra trong sách Sáng Thế (St 10), một số thủ bản nói về
con số bảy mươi. Dĩ nhiên, con số không hạn chế và cũng không phải là con số của
số học. Tất cả mọi người! Tất cả mọi dân tộc.
Cứ từng hai Người một"... Đây là con số
mà Luật đòi hỏi để một chứng từ được nhận là có giá trị (đệ nhị luật 19,15). Đó
cũng là tập quán của những Kitô hữu đầu tiên đi truyền giáo, không bao giờ họ
đi một mình: Phaolô và Bác-na-bê... Bác-na-bê và Máccô... Phaolô và Si-la...
Đời sống hiện đại, công việc nghề: nghiệp,
khoa học, học đường, văn hóa đã đề cao giá trị của việc kết hợp thành tổ nhóm.
Có phải tôi đang là một ky sĩ độc hành không?
"Đi trước... các nơi mà Người sẽ đến...
" Công việc tông đồ lúc nào cũng phải khiêm tốn. Người ta chỉ có thể chuẩn
bị mà thôi. Chính Đức Gỉêsu sẽ đến làm công việc thật sự. Chúng ta chỉ là những
kẻ mở đường.
Người bảo các ông:
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai
thợ ra gặt lúa về".
Trong viễn cảnh mà Đức Giêsu nhắm đến, rõ
ràng là con số bảy mười hai người đầu tiên tuy khá lớn nhưng sẽ không đủ Những người
thợ mới phải không ngừng bắt tay vào công việc. Đức Giêsu nhìn xa trông rộng?
"Mùa gặt" là một hình ảnh truyền thống trong Kinh thánh để nói về thời
kỳ: sau hết, sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời mạt thế (Gian 4,13; Mát-thêu
13,39; Khải Huyền 14, 15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu.
Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của "mùa gặt thánh thiêng" ấy mà Thiên
Chúa là chủ mùa gặt.
Tôi có thật sự tin chắc rằng nhiều người,
đàn ông cũng như đàn bà sẵn sàng đi theo Tin Mừng? Nhưng các thợ gặt đang thiếu,
Đức Giêsu nói. Tức khắc, trước sự thiếu thợ gặt đó (do vậy không chỉ là một nhược
điểm của thời đại chúng ta), Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp duy nhất
là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng là việc tông đồ không phải là một công
việc của con nguời như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của
Thiên Chúa, một ân sủng. Tôi có cầu nguyện để có thêm nhiều thợ gặt không? Trước
hết là giáo dân... nhưng cả các linh mục, tu sĩ nam nữ. Phần tôi? Tôi có phải
là một người thợ gặt làm việc cho công cuộc cứu chuộc không?
Anh em hãy ra đi. Này Thầy
sai anh em đi như chiên con di vào giữa bầy sói.
Anh em hãy ra đi? Đây là một mệnh lệnh.
"Thầy" sai anh em...
Đức Giêsu không che giấu sự khó khăn trong
công việc Và chúng ta tiếp tục ngạc nhiên vì có nhiều người bỏ mất đức tin vì chưng
thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Tuy nhiên chúng ta đã được cảnh
báo rõ. Hình ảnh cũng làm ta kinh ngạc và khó chịu: tín hữu như một con chiên
con bị một bầy sói tấn công. Chúng ta chớ gán cho hình ảnh những ý nghĩa mà nó
không có. Mọi dân ngoại, mọi người vô ưu đều được Thiên Chúa yêu thương. Nhưng
"đàn chiên bé nhỏ" rất cần có chủ chăn bảo vệ (Ga 15, 18; 10, 1.16).
Đức Giêsu đã báo trước chó Giáo Hội của người: Giáo Hội thường xuyên ở trong
tình trạng nguy hiểm? Những thời kỳ yên tĩnh, bình an đúng ra phải làm chúng ta
ngạc nhiêm... Vậy thì hãy có lòng trông cậy.
Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép...
Điều đáng lưu ý là Đức Giêsu sẽ không đưa
ra một hướng dẫn nào về "học thuyết"! Người không nói về nội dung của
đttc tin... nhưng nói về các thái độ cụ thể của những người đi thuyết giảng! Y phục,
hành trang, cách giao tiếp. Các nhà truyền giáo trước hết loan báo Nước Thiên
Chúa bằng cách sống của họ!
Trước tiên, Đức Giêsu đặt ra yêu sách sống
nghèo khó Không nên ỷ vào các phương tiện của con người.. Đức Giêsu đã không sử
dụng các vũ khí của quyền lực, của sự giàu sang của vẻ lộng lẫy, huy hoàng... Đức
Giêsu không ra vẻ "trịnh trọng"; Người "vốn giàu sang đã trở nên
nghèo hèn". Yêu sách đầu tiên của Giáo Hội là theo hướng của thầy mình, là
trở nên nghèo khó.
Đừng chào hỏi ai dọc đường...
Đây không phải là một mệnh lệnh về sự vô lễ,
nhưng về sự cấp bách! Không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá, mức và
dài dòng, vì những lề thói thế tục.
Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là các sứ
giả của Tin Mừng "chạy” khắp nơi: Đức Maria chạy, đi thăm viếng, các mục đồng
chạy đến máng cỏ, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người ê-thi-óp
(Công vụ 8,30). Còn tôi thì sao? Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói!
"Bình an cho nhà này!". Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình
an của anh em sẽ đậu trên người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ quay về với
anh em. Giờ đây là một phong cách sống nào đó: sự bình an, niềm vui trong sáng.
Một sự hiệp thông của bình an và mềm vui. Hãy có nơi chính mình một sự bình an
và chuyển sự bình an ấy cho người khác "Bình an của anh em sẽ đậu trên người
ấy..." Tin Mừng cũng chính là điều đó? làm chuyển động một dòng chảy sung
mãn hài hòa giữa các con người.
Hãy ở lại nhà ấy, và người
ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả
công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp
đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
Những vấn đề về ăn uống này đối với chúng
ta dường như rất ty tiện. Khi người ta biết những cấm đoán theo đúng nghi lễ của
người Do Thái, những lời ấy của Đức Giêsu vang lên như một 'sự giải phóng phi
thường: anh em hãy ăn mọi thứ thức ăn mà không cần bận tâm xem những thức ăn ấy
tinh khiết hay ô uế. Ở đây, Đức Giêsu xuất hiện với chúng ta như một người thật
sự đi trước thời đại của mình. Thật vậy; Người biện hộ cho một sự cởi mở phóng
khoáng đối với tục lệ và tập quán của những người khác chấp nhận các tục lệ văn
hóa của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng! Điều đó đi rất xa.
Hãy chữa những người đau
yếu trong thành, và nói với họ: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
Tin Mừng này trước tiên rất cụ thể; rất thực
tiễn. Đó là một Tin Mừng, bằng hành động làm điều thiện, đẩy lui điều ác an ủi,
cứu chữa...
Triều đại của Thiên Chúa. Kế hoạch của
Thiên Chúa. Dự án của Thiên Chúa. Người ta chờ đợi Triều đại đó cho thời kỳ sau
hết. Triều Đại ấy. có ở đó, Đức Giêsu nói... rất gần? Rất gần anh em. Triều đại
trong đời thường, thông thường nhất, của anh em, và anh em không biết khám phá
sự gần gũi ấy. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Đó là hạt giống
mầu nhiệm của Thiên Chúa được đặt vào chính tấm lòng của con người. Với Đức
Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó, ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu,
sự hoàn thành của thế gian đã được lan rộng. Tin Mừng là một điều gì rất đơn giản:
chính nghĩa của Thiên Chúa sẽ chiến thắng và chính nghĩa ấy là tương lai tuyệt
đối của con người, và nó đã bắt đầu! Thế gian sẽ không trường tồn mãi mãi, lịch
sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc, nhưng sự chấm dứt này không phải là hư vô,
mà chính là Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, chính là tham dự trước vào sự thành
công ấy, chính là ngay từ bây giờ làm cho chính nghĩa của con người thành công
vì chính nghĩa của con người chỉ là một với chính nghĩa cửa Thiên Chúa trong Đức
Giêsu Kitô. Một cách cụ thể, Triều đại của Thiên Chúa chính là "thực thi
thánh ý của Thiên Chúa": Nguyện "Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới
đất! Và thánh ý của Thiên Chúa, chính là điều tốt lành trọn vẹn của con người:
sự chữa trị các bệnh tật thực sự hư hỏng tính toàn vẹn của con người) là một dấu
chỉ của thánh ý ấy: "Anh em hãy cứu chữa con người? " Triều đại của
Thiên Chúa ở đó, rất gần!
Nhưng vào bất cứ thành
nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói:
"Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin gửi
trả lại các ông. 'Tuy nhiên các ông phải biết điều này. Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần. "Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy thành Xơđom còn được xử khoan
hồng hơn thành đó".
Rõ ràng Đức Giêsu đắ đối diện với các thất
bại, các sự khước từ không tin... Nhưng sự báo trước chính nghĩa của Thiên Chúa
phải thành công (cũng là sự thành tựu của chính nghĩa con người?) vẫn tồn tại;
dù các ông, có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, và đó là
Ngày Phán Xét... dĩ nhiên, các ông là những người cố tình và ngoan cố chối từ,
các ông sẽ ở lại bên ngoài sự thành công ấy mà lẽ ra làm sự thành công của các
ông.
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về,
hớn hở nói: “Thưa Thầy nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng
con”. Đức Giêsu bảo các ông: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống.
Đây, Thầy đã ban cho anh quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ
thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên anh em chớ mừng vì quỷ thần
phải khuất phục anh em nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Nhóm Bảy Mươi Hai đầu tiên không chỉ có thất
bại công việc tông đồ của họ đã thành công: những quyền lực của sự ác đã lùi '
bước. Đó là một nỗi vui mừng Đức Giêsu làm giảm nhẹ chủ nghĩa đắc thắng có hơi
ngây thơ và rất tự nhiên của họ: anh em hãy thán phục, phải! Nhưng nhất là hãy
tạ ơn, hãy đi vào nội tâm! Niềm vui chủ yếu là được tham dự vào Thiên quốc, và
đã tham dự rồi.