Tìm hiểu Lời Chúa _ cnps 3c

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH - NĂM C
Cv 5,27b-32 . 40-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19
BÀI ĐỌC I: Cv 5,27b-32 . 40-41
            27b Bấy giờ, vị thượng tế hỏi các Tông Đồ rằng: 28 "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi! "29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy,31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội.32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người."
            40 Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra.41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
ĐÁP CA: Tv 29
Đ. 2a Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
      vì đã thương cứu vớt
.
2 Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. 4 Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.
5 Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. 6 Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.
11 Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.12a Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, 13b Vì Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
BÀI ĐỌC II: Kh 5, 11-14
            11 Tôi là Gio-an, tôi thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu.12 Các vị lớn tiếng hô: "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc."
            13 Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: "Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! " 14 Bốn Con Vật thưa: "A-men." Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hall-Hall: Đức Giê-su nay đã phục sinh, chính Người đã tạo thành vạn vật và xót thương cứu độ loài người. Hall.
TIN MỪNG: Ga 21,1-19
                        1 Bấy giờ, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
            4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không."6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
            9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
            15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." 16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." 17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."

ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH CHÚA KI-TÔ
            Để nhận ra những điểm giáo lý về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, trước nhất chúng ta phải tìm hiểu:
-          Tầm quan trọng trong chương 21 của Tin Mừng Gioan.
-          Ý nghĩa 153 con cá.
-          Lý do Chúa Giê-su ra lệnh cho các môn đệ: “Hãy thả lưới bên phải thuyền”.
-          Lý do Chúa Giê-su hỏi ông Phê-rô ba lần “có yêu Thầy không” trước khi Ngài trao quyền?
-          Những việc làm cụ thể, phát xuất từ đức ái để xây dựng Hội Thánh.
I/ TẦM QUAN TRỌNG TRONG CHƯƠNG 21 CỦA TIN MỪNG GIO-AN.
            Ngày nay có nhiều ý kiến khác nhau về tác giả chương 21 của Tin Mừng thứ tư, người thì bảo là của ông Gio-an, kẻ khác cho là của môn đệ ông Gio-an, ý kiến khác nữa lại cho là của một tín hữu vô danh nào đó. Sở dĩ đã có những ý kiến khác nhau như vậy, vì họ thấy ông Gio-an đã kết thúc Tin Mừng ở chương 20,30-31: “Đức Giê-su đã làm trước mắt các môn đồ của Ngài nhiều dấu lạ khác nữa, không viết lại trong sách này …” , thế mà lời kết trong chương 21, tác giả lấy lại lời kết ở chương 20!
            Vấn đề của tác giả nào, chúng ta hãy để cho các nhà chuyên môn tranh luận, còn phần các Ki-tô hữu phải xác tín rằng:
1.      Chương 21 của ông Gio-an được Hội Thánh Công giáo công nhận là phần của mạc khải, tác giả chính hay tác giả nguyên nhân là Chúa Thánh Thần; tác giả phụ hay tác giả dụng cụ là người viết.
2.      20 chương đầu của Tin Mừng Gio-an, tác giả viết về Chúa Giê-su:
-    Ngài là Đấng tái tạo mọi sự trong vũ trụ nên hoàn hảo hơn.
-    Ngài là sự sống.
-    Ngài là ánh sáng.
-    Ngài là chân lý.
             Chỉ có chương 21 ghi nhận những sinh hoạt đời sống Hội Thánh, tuy nhiên tầm quan trọng của chương 21 cũng bằng 20 chương trước, vì hai lời kết đều ghi giống nhau: “Đức Giê-su đã làm …” (x. Ga 20,30; 21,25)
II. Ý NGHĨA 153 CON CÁ?
            1- Theo thánh Giê-rô-ni-mô: Thời bấy giờ người ta nghĩ là tất cả mọi loại cá biển gồm 153 loại. Nếu thế thì đây là biểu tượng cho sứ mệnh của Hội Thánh: nhờ làm theo Lời Chúa, Hội Thánh thâu họp vạn vật để phục vụ con người, con người “thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (x. 1Cr 3,22-23). Đó cũng là ý mà Phụng vụ hôm nay đã nói trong Bài đọc II: “Mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!” (Kh 5,13)
            2- Theo thánh Au-gus-tin: Tin Mừng Gio-an viết về cuộc sáng tạo mới trong Đức Giê-su, mọi hoạt động trong Hội Thánh cũng chính là con người được Đức Giê-su mời gọi cộng tác để kiện toàn cuộc tạo dựng mới này. Do đó số 153 con cá có nghĩa là:

a-      Hình tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau: chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau.
b-      Sáu đoạn trên mỗi cạnh tam giác chỉ 6 ngày Thiên Chúa tạo dựng vạn vật trong vũ trụ rất tốt đẹp (x. St 1).
c-      Nhìn trên hình tam giác, số 17 = 10 + 7. Số 10 chỉ về 10 Điều răn (toàn thể Luật Chúa); số 7 chỉ về các Bí tích (toàn thể ơn Chúa). Đây là dấu chỉ: nhờ Lời Chúa ta được lãnh nhận dồi dào ơn qua các Bí tích.
d-     Số 153 con cá trong lưới của ông Phê-rô là tổng số từ 1+2+3+… 17. Đây là dấu chỉ sứ mệnh của Hội Thánh phải làm cho toàn thể nhân loại thuộc về Hội Thánh, thuộc về Thiên Chúa
            Vậy cuộc tạo dựng mới này rất hoàn hảo nhờ Ba Ngôi Thiên Chúa dùng Lời và các Bí tích để tái tạo vũ trụ nói chung và người Công Giáo nói riêng.
            Vì sứ mệnh của Hội Thánh là dùng Lời Chúa và Bí tích để làm cho cả loài người được tạo dựng lại trong Đức Giê-su Phục Sinh, cho dù các Tông Đồ có bị bách hại vì sứ mệnh này, họ cũng không sợ hãi. Trái lại, họ hân hoan bị sỉ nhục vì danh Chúa Giê-su Ki-tô! (x. Cv 5,27b-32 . 40-41: Bài đọc I) Bởi vì: “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu” (ông Tertuliano)
III. LÝ DO CHÚA GIÊ-SU RA LỆNH CHO CÁC MÔN ĐỆ: “HÃY THẢ LƯỚI BÊN PHẢI THUYỀN?” (x. Ga 21,6)
            Thuật ngữ “bên phải” của Thánh Kinh luôn luôn diễn tả về ơn cứu độ như con chiên (người lành) đứng bên phải Thiên Chúa cứu độ (x. Mt 25,34), như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en chương 47, câu 1 nói: “Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì được cứu độ.”
            Nước từ bên phải đền thờ chảy ra” chính là trái tim Chúa Giê-su bị đâm trên thập giá!
            Vậy lưới các Tông Đồ thả bên phải thuyền bắt được mẻ cá lạ lùng, chính là dấu chỉ những hoạt động của Hội Thánh sẽ đạt kết qủa lạ lùng nhờ nguồn cứu độ trong Phụng vụ, nhất là Bí tích Khai tâm (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể) phát xuất từ cạnh sườn Đức Giê-su bị đâm! (x. Ga 19,31-37)
IV. LÝ DO CHÚA GIÊ-SU HỎI ÔNG PHÊ-RÔ BA LẦN “CÓ YÊU THẦY KHÔNG” TRƯỚC KHI NGÀI TRAO QUYỀN?
            Trước nhất, ta phải phân biệt hai động từ yêu được dùng trong trình thuật này:
            * Agapê: yêu vô vị lợi, không phân biệt bạn hay thù.
            * Philein: Yêu trong tình bạn, đặt trên công bằng giao hoán.
            Ta thấy ba lần Chúa Giê-su hỏi và ông Phê-rô trả lời:
-          Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn chiên (Arnia).
-          Con có Agapê Thầy không? Dạ, con Philein Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
-          Con Philein Thầy sao? Dạ, con Agapê Thầy. Con hãy chăn cừu (Probata).
            Như vậy,
            a- Chỉ khi nào thủ lãnh Phê-rô trả lời Agapê, Chúa Giê-su mới đồng ý, nghĩa là phải yêu như Chúa yêu mới đạt.
            b- Ba lần Chúa Giê-su hỏi về tình yêu của ông Phê-rô, Ngài muốn ông chuộc lại ba lần đã chối Thầy. Vì thế lần thứ nhất Chúa Giê-su hỏi ông: “Phê-rô, con có yêu mến Thầy HƠN những người này không?” (Ga 21,15: Tin Mừng).
            Chữ HƠN ở đây có ý nhắc đến lần ông đã tự mãn thề thốt: “Dù mọi người đều vấp ngã vì Thầy, còn con, con sẽ không bao giờ vấp ngã!” (Mt 26,33) Nhưng rồi sau đó ông đã chối Thầy ba lần!?
            Bởi thế, sau ba lần Thầy hỏi về tình yêu của ông, ông hiểu ý Thầy muốn ông nhớ lại ba lần ông đã chối Thầy, nên ông buồn và khiêm tốn trả lời: “Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự (con đã chối Thầy ba lần), Thầy biết con yêu mến Thầy!” (Ga 21,17) Lúc đó Chúa mới trao quyền cho ông thâu họp mọi người trên dương thế thuộc về Hội Thánh, mà “thế giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến!” (Thánh Gioan Vianey)
            c- Ba lần Chúa hỏi ông Phê-rô về tình yêu, và sau mỗi lần Ngài lặp lại việc trao quyền chăm sóc Hội Thánh cho ông. Vì ba lần Chúa hứa trao quyền là không bao giờ Ngài rút lại, cũng như ông Ab-ra-ham mua hang Makpela để an táng bà Sa-ra, ông phải mặc cả với ông Kết, người địa phương tới ba lần, để miếng đất ông Abraham mua thuộc vĩnh viễn thuộc quyền sở hữu của ông, để mộ vợ ông không ai được động đến. (x. St 23,1-20)
            Đức Giê-su chọn ông Phê-rô làm thủ lãnh, không phải vì ông học thức hơn ai, mà trái lại, ông bị dân liệt vào loại vô học (x. Cv 4,13); không phải ông thánh thiện hơn ai, trái lại ông là kẻ kiêu ngạo: “Cho đi mọi người đều vấp ngã vì Thầy, tôi sẽ không vấp ngã bao giờ”. Đức Giê-su bảo ông: “Quả thật, Ta bảo ngươi, nội đêm nay trước khi gà gáy ngươi đã chối Ta ba lần” (x. Mt 26,33-34); nhất là có lần ông dám lên tiếng khuyên răn dạy Thầy: “Đừng đương đầu với kẻ ác, vì đó là dấu Thiên Chúa không thương”! Tức khắc Đức Giê-su mắng ông là: “Satan, lui lại đằng sau” (x. Mt 16,21-23); ông cũng là kẻ nóng nảy và hung bạo: “chém đứt tai đầy tớ của vị thượng tế”! (x. Ga 18,10)
            Dầu thế Đức Giê-su vẫn quyết trao Hội Thánh cho ông lãnh đạo. Đó là quyền tự do của Thiên Chúa. Nhưng quyền tự do này Chúa vẫn muốn lệ thuộc vào đức ái của con người, khởi đi từ lòng sám hối. Mà thực, trong số 12 Tông Đồ chỉ có ông Phê-rô xưng thú tội mình trước mặt Thầy: “Lạy Thầy, con là kẻ có tội, xin Thầy tránh xa con” (Lc 5,8). Vì Chúa biết nhiệm vụ Ngài trao rất nặng nề và nguy hiểm đến tính mạng, như các Tông Đồ bị đòn vọt, ra tù vào khám (x. Cv 5,7b-32.40-41: Bài đọc I). Chỉ có tình yêu mới giúp người môn đệ Chúa lướt thắng mọi khó khăn. Thánh Au-gus-tin nói: “Ở đâu có tình yêu, thì ở đấy hết khó nhọc, và giả như có khó nhọc, thì lại yêu chính sự khó nhọc ấy”. Và vì yêu Thầy mà chăm sóc chiên của Thầy, chứ không phải tìm lợi nhuận nơi đàn chiên của Thầy mà xén lông, vắt sữa, làm thịt!
            Như vậy, dưới cái nhìn của tác giả Mát-thêu, Chúa xây dựng Hội Thánh trên nền tảng đức tin người thủ lãnh của cộng đoàn. Đức tin ấy được biểu lộ bằng việc phát biểu về giáo lý xuất sắc, đã được lãnh nhận từ Cha trên trời (x. Mt (16,15-19). Nhưng dưới cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu, thì Chúa xây dựng Hội Thánh trên đức ái của thủ lãnh, của tập thể.
V. NHỮNG VIỆC LÀM CỤ THỂ, PHÁT XUẤT TỪ ĐỨC ÁI ĐỂ XÂY DỰNG HỘI THÁNH.
            Sau khi ta đã xác tín rằng Chúa Giê-su Phục Sinh mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài trong tình yêu Thiên Chúa ban để xây dựng Hội Thánh dựa trên Lời Chúa và các Bí tích, có thế mới làm hoàn tất công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa là phải tập họp mọi người trên trái đất gia nhập Hội Thánh. Muốn được thế ta phải ý thức thực hành các việc làm do tình yêu Đức Ki-tô thúc bách:
            1/ Mọi người cần nhất trí với thủ lãnh. Đan cử ông Phê-rô hô lên: “Tôi đi đánh cá đây”, các môn đệ khác nhao nhao: “Chúng tôi cùng đi với anh”, dù có người không biết nghề chài lưới như ông Mattheu, như ông Nathanael (x. Ga 21,3).
            2/ Vâng Lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta (Cv 5,29: Bài đọc I). Đan cử các môn đệ ngoan ngoãn, tin tưởng, mau mắn làm theo Lời Chúa dạy: “Hãy thả lưới bên phải thuyền”, dù họ đã vất vả suốt cả đêm mà không bắt được con cá nào (x. Ga 21,6: Tin Mừng).
            3/ Mọi thành công ta đạt được phải quy về vinh quang Thiên Chúa. Cụ thể như các Tông Đồ sau khi bắt được mẻ cá lạ lùng, ông Gioan nói với ông Phê-rô: “Chúa đó” (x. Ga 21,7), nghĩa là nhìn vào kết quả việc con người làm, ta nhận ra Thiên Chúa. Bởi vì “không có Thầy Giêsu, không ai có thể làm được việc gì” (x. Ga 15,5b).
            4/ Kết quả việc làm của các Ki-tô hữu phải góp với chủ chăn trong Hội Thánh, để qua tay chủ chăn cùng góp lên một của lễ với Chúa Giê-su .          Đan cử như Chúa Giê-su bảo các Tông Đồ: “Đem ít cá mới bắt được tới đây”, nhưng chỉ có một mình ông Phê-rô lên thuyền rồi kéo lưới vào bờ, lưới đầy những cá lớn, đếm được 153 con (Ga 21, 9-11: Tin Mừng).
            5/ Khi đến dự tiệc của Chúa ăn mặc lịch sự, nết na. Điển hình khi ông Phê-rô biết Chúa Giêsu đang đứng trên bờ, ông vội lấy khăn quấn vào mình vì ông đang ở trần, rồi ông nhảy tùm xuống biển bơi vào gặp Thầy (x. Ga 21,7).
            6/ Đoán ý muốn người khác để phục vụ là ta bắt chước Chúa Giê-su, Ngài cũng đoán ý các Tông Đồ đang buồn bã vì không bắt được con cá nào, nhưng chẳng ai cằn nhằn với thủ lãnh, Chúa lên tiếng hỏi các ông: “Các chú có gì ăn không?” Họ đáp: “Thưa không”, thế là Chúa Giê-su nướng bánh và cá trên than hồng, rồi Ngài bảo các ông: “Anh em hãy đến mà ăn” (x. Ga 21, 11-12).
            7/ Ý thức thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình đã nhiều lần sa ngã phạm tội mà sám hối trước mặt Chúa. Bởi vì Chúa biết ông Phê-rô đã phản bội chối Thầy ba lần, nhưng sau đó ông khóc lóc ăn năn, thì Ngài vẫn tín nhiệm ông mà trao cho ông quyền thủ lãnh Hội Thánh. Ba lần Chúa Giê-su hỏi: “Simon Phê-rô con có yêu Thầy không?” Và ngay sau đó cũng ba lần Ngài trao quyền chăm sóc chiên của Ngài cho ông. Ngài trao ba lần như thế để khẳng định rằng không bao giờ Ngài rút lại quyền đã trao, để ông có nhiệm vụ “an táng Thầy” vào lòng tha nhân, như ông Abraham mặc cả ba lần với ông Kết, vĩnh viễn nhường mảnh đất cho ông, hầu ông an táng Sara vợ ông mà không ai được động đến (x. St 23,1-20).
            8/ Muốn làm tròn nhiệm vụ Chúa trao, Chúa đòi ta phải yêu Ngài, vì “thế giới chỉ thuộc về tay ai biết yêu mến” (Gioan Maria Vianey) . Tình yêu Chúa phải được thể hiện khi ta phục vụ đồng loại nguy hiểm đến mất tính mạng giống như Chúa Giê-su, chính vì vậy mà Ngài nói với ông Phê-rô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy.” (Ga 21, 18-19).
            Mỗi khi gặp đau khổ, ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30/29,2: Đáp ca).
            Vậy nếu ta sống được 8 điểm trên đây là dấu chỉ ta được tham dự vào sự sống Phục Sinh của Chúa Giê-su, vì Ngài đã sống lại vào ngày thứ 8.
            Người làm ông làm bà, cha mẹ khi về gìa thường có nhiều tủi nhục với con cháu, thì chủ chăn trong Hội Thánh khi xế chiều còn tủi nhục hơn thế nữa! Nhưng chấp nhận tất cả vì yêu!
            Bông hoa trưng nơi bàn thờ cũng diễn tả kiếp người phục vụ: Khi còn trẻ, khỏe, tài năng thì như hoa tươi rực rỡ, ai cũng qúy. Nhưng lúc về gìa, hết sức, hết tài, thì bị coi rẻ như đóa hoa héo tàn, người ta ném vào sọt rác, không chút tiếc nuối!
            Chúa báo trước cho biết như thế, để khi sự việc xảy ra, ta không ngỡ ngàng mà biết đón nhận như một hồng ân Chúa ban (x. Giop 1,21; 2,10b), và ta đã chọn lựa, không ân hận, không hối tiếc, rồi trở nên bất mãn! Trái lại ta hãy vui vì đã hoàn tất Hy Lễ cùng với Chúa Giê-su!
Truyện kể:
            Hai ông Phê-rô và Gio-an theo Chúa lên núi, Chúa bảo các ông: Mỗi người chúng con lượm hai cục đá mang theo. Nghe thế, ông Phê-rô cầm hai tay hai cục đá nhỏ bằng hòn bi; còn ông Gio-an lấy hai khối đá lớn vác trên hai vai. Đi được một lúc, ông Phê-rô trông dáng bạn mình có vẻ nặng nề, vất vả quá, liền chế nhạo:
-          Coi tớ này, cũng mang đá mà có vất vả gì đâu, ai bảo cậu vác hai cục to thế mà chuốc khổ vào thân? Thầy chỉ nói mỗi người lấy hai cục đá mang theo thôi mà!
            Ông Gio-an trả lời:
-          Ôi tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi! (x. 2Cr 5,14).
            Đi một quãng xa, cả hai môn đệ cùng thưa với Chúa Giê-su:
-          Thưa Thầy, chúng con đói và khát quá, chúng ta ngồi nghỉ chân một lát rồi kiếm gì ăn cho đỡ dạ!
            Chúa Giê-su bảo:
-          Vậy chúng con đến gốc cây kia ngồi nghỉ mệt!
            Rồi Ngài nói tiếp:
-          Bây giờ chúng con đặt hai cục đá của mình trước mặt.
            Hai ông mau mắn tuân lệnh Thầy. Chúa giơ tay làm phép tức khắc đá của mỗi người: một cục biến thành bánh và cục kia hóa ra nước! Phê-rô cầm mẩu bánh bỏ vào miệng nuốt chửng, và uống miếng nước chỉ đủ ướt cổ họng. Lúc đó ông Phê-rô nói với ông Gio-an:
-          Cho tớ ăn ké với cậu, tớ còn đói qúa! Chắc không đủ sức theo Thầy được!
Ông Gio-an vui vẻ đáp:
-          Ủa, cậu đã quên là khi nãy cậu nhạo tớ là thằng dại mang theo hai cục đá bự làm gì cho khổ thân? Thế tại sao bây giờ cậu lại ngửa tay xin “thằng dại dột” này?!
Chúa Giê-su nhìn ông Phê-rô thương và bảo ông Gioan:
-          Thôi mà con, con chia cho bạn đi!
Lúc đó ông Phê-rô mới hiểu Lời Thầy đã dạy: “Ai muốn đi sau Ta thì hay chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta.vì kẻ nào muốn cứu lấy sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta, và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu nó” (Mc 8,34-35).
THUỘC LÒNG.
Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi! (2Cr 5,14)