CHÚA NHẬT LỄ LÁ - NĂM
C
Is
50,4-7; Pl 2,6-11
BÀI ĐỌC I: Is 50,4-7
4 Đức Chúa là Chúa Thượng đã
cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời
kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như
một người môn đệ. 5 Đức
Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,còn tôi, tôi
không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. 6
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã
không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. 7
Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế,
tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
ĐÁP CA: Tv 21
Đ. Lạy Chúa con thờ,
muôn lạy Chúa,
Ngài
nỡ lòng ruồng bỏ con sao? (c 2a)
7
Thân sâu bọ chứ người đâu phải,con bị đời mắng chửi dể duôi, 8 thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: 9 "Nó cậy Chúa, mặc Người cứu
nó! Người có thương, giải gỡ đi nào! "
17
Caû bầy chó trong ngoài
vậy bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, 18
xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
19
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. 20 Chúa là sức mạnh con nương,
cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.
23
Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại
hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.
24
Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi
Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ít-ra-en tất cả, nào một dạ khiếp
oai!
BÀI ĐỌC II: Pl 2,6-11
6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, 7
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế. 8
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự. 9
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu. 10
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm
phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Pl 2,8-9
8
Vì chúng ta, Đức Ki-tô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự. 9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
TIN MỪNG: Lc 19,28-40 (LÚC LÀM PHÉP LÁ)
28 Bấy giờ Đức Giê-su dẫn đầu các môn đệ, tiến
lên Giê-ru-sa-lem.29 Khi đến gần làng Bết-pha-ghê và làng
Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo:30
"Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa
ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi.31
Nếu có ai hỏi: "Tại sao các anh cởi lừa người ta ra", thì cứ nói:
"Chúa có việc cần dùng!32 Hai người được sai liền ra đi và thấy
y như Người đã nói.33 Các ông đang cởi dây lừa, thì những người chủ
nói với các ông: "Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra? "34 Hai ông đáp:
"Chúa có việc cần dùng."
35
Các ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng
lừa, và giúp Người cỡi lên.36 Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy
áo choàng trải xuống mặt đường.37 Khi Người đến gần chỗ dốc xuống
núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì
các phép lạ họ đã được thấy.38 Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng
ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng
trời!
39 Trong đám đông, có vài người thuộc
nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, Thầy trách môn đệ Thầy đi
chứ! "40 Người đáp: "Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì
sỏi đá cũng sẽ kêu lên! "
QUA ĐAU KHỔ ĐẾN VINH QUANG
Chỉ duy nơi bản tính Thiên Chúa mới
bộc lộ sự toàn năng và tình yêu (Agapê) qua đau khổ.
-
Đức Giê-su là Thiên Chúa Toàn Năng, vì chỉ duy Thiên Chúa mới bộc lộ tính
toàn năng: biến dữ ra lành, biến tội ra ơn, biến chết ra sống một cách dễ dàng,
lúc nào tùy ý muốn của Ngài. Ngoài Thiên Chúa, không có thần minh nào, không
một thụ tạo nào có thể biểu lộ được sự toàn năng. Bởi thế, thánh Phao-lô nói: “Thập giá đối với những kẻ đang hư đi là một
sự điên rồ, còn đối với chúng ta những người đã thuộc về Chúa đang ở trên đường
cứu thoát, lại là quyền năng của Thiên Chúa” (1Cr 1,18).
-
Đức Giê-su là Thiên Chúa Tình Yêu, vì chỉ duy nơi Đức Giê-su qua mầu nhiệm
cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, Ngài cho chúng ta nhìn thấy những giá trị tích cực
của đau khổ:
1- Đau khổ là cách Chúa huấn luyện ta,
thánh Phê-rô nói: “Anh em sẽ được hân
hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách.
Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng
gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức
Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi,
và đem lại vinh quang, danh dự” (x. 1Pr 1,6-7).
2- Đau
khổ là cách ta biểu lộ lòng mến cao nhất. Đức Giê-su nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu
của một người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (x. Ga 15,13). Ta lưu ý
bạn hữu ở đây không phải chỉ là những người bạn tâm giao, nhưng Đức Giê-su chết
cho cả loại bạn đểu cáng như Giu-đa, vì chính hắn đã dùng cái hôn để nộp Thầy.
Đức Giê-su nói với hắn: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26,50).
3- Đau
khổ vì Chúa là cách ta được cộng tác với Chúa Giê-su Thập Giá để biến
dữ ra lành, để được thông dự vào vinh quang Phục Sinh của Chúa Giê-su: “Vì một khi chúng ta cùng chịu khổ với Đức
Ki-tô, để rồi cũng được chia phần vinh hiển với Ngài” (Rm 8,17b).
4- Đau
khổ là cái thắng; thành công, vui mừng là cái máy. Một chiếc xe chạy
tốt, an toàn, phải có hai bộ phận mang chức năng đối nghịch: thắng (phanh) thì
kéo lại và máy nổ thì lôi đi. Xe có máy nổ tốt mà không có thắng, ngồi lên là
chết sớm, thà rằng có thắng mà không có máy, ngồi lên chẳng đi tới đâu nhưng
vẫn an toàn. Như thế đau khổ xét một khía cạnh nào đó vẫn hơn may mắn.
5- Đau
khổ nhất là sự chết, đối lại là sự sống, đây là quy luật mâu thuẫn, quy
luật phát triển. Đức Giê-su nói: “Nếu hạt lúa gieo xuống đất mà không chết đi,
thì nó trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” (Ga
12,24).
Hạt giống ở đây
không nói về hạt giống cây cỏ, vì nếu hạt giống cây cỏ gieo xuống đất mà chết
đi, thì không bao giờ nó mọc lên. Vậy hạt giống chết đi để sinh nhiều hoa trái,
phải hiểu là Đức Giê-su bị giết chết, cũng như các thánh bị chết vì phục vụ Tin
Mừng, sau đó phát sinh nhiều Ki-tô hữu. Đúng như lời ông Tertuliano nói: “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh
các Ki-tô hữu”.
6- Đau
khổ minh chứng giá trị chân lý: Các thánh Tông Đồ minh chứng chân lý sự
Phục Sinh nhờ vào Chúa Giê-su đã từ cõi chết sống lại. Khi giảng chân lý này,
nếu các ông sợ ra tù vào khám, sợ chết, thì không ai tin vào lời các ông giảng
dạy. Để minh chứng lời các ông rao giảng là chân thật, các ông đã phải trả giá
đến mất mạng về lời rao giảng này (x. Cv 5,17t).
7- Đau
khổ kích thích phát triển tài năng và sáng kiến: Đi bộ thấy mỏi chân, thì
cưỡi ngựa; đi ngựa còn chậm thì sáng chế ra xe đạp; đi xe đạp còn thấy mệt,
sáng chế ra xe máy; dùng xe máy còn bị mưa nắng, lại sáng chế ra xe hơi; chạy
xe hơi còn bị kẹt đường, sáng chế ra máy bay…
8- Đau
khổ để nhận ra điều thật điều giả: Người đến Nhà Thờ dự Lễ thấy trên
Cung Thánh có hai bình hoa rất đẹp, mà người cắm hoa, vì thiếu hoa thật nên cắm
thêm bình hoa giả. Khi mới cắm, ai nhìn lên cũng đều nghĩ đó là hai bình hoa
thật, có khi nhìn bình hoa giả lại đẹp hơn, nhưng vài ngày sau hoa nào rũ tàn
(chết), người ta mới nhận ra đó là hoa thật! Hoa thật thì dù héo tàn, nó vẫn
được quý hơn hoa giả không rũ tàn. Bởi đó, người chết vì chân lý vẫn được tôn
vinh hơn kẻ giả dối sống phây phây.
Tưởng rằng 8 điều
tích cực rút ra từ đau khổ cho phép chúng ta xác tín như thánh Phao-lô: “Ai chịu đau khổ với Chúa Giê-su Ki-tô, thì cũng
được chia phần vinh quang với Ngài”. Ta biết Đức Giê-su bị giết ngày thứ
sáu, an táng ngày thứ bảy, và ngày thứ tám sống lại vinh quang.
Vậy ai phục
vụ đau khổ đến chết, người đó mới đúng là người có đầy uy tín. Thực vậy, vào
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, cao điểm tình yêu của Đức Giê-su phục vụ đến liều
mạng, khi Ngài bị đánh đến nát thân, lúc đó ông Philato dẫn ngài ra trước mặt
toàn dân và giới thiệu: “Này là người” (Ga 19,5).
Ngoài
ra ta còn tìm được mọi nhân đức nơi thập giá:
-
Đức
bác ái: không có
tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã liều mạng sống vì bạn hữu của
mình (Ga 15,13).
-
Đức
nhẫn nhục: Đức
Giê-su như chiên bị dẫn đi làm thịt (x. Is 53,7).
-
Đức
khiêm nhường: Đức
Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế … (x. Pl 2,6t).
-
Đức
vâng phục: Adam thứ
I bất tuân ý Chúa; trái lại Adam cuối cùng (Đức Giê-su) hoàn toàn tùng phục ý
Cha (x. Lc 22,42).
-
Đức
thanh bần, nghèo khó:
ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Giê-su bị bóc lột hết: danh dự, nhân phẩm, đến cả
mạng sống (x. Ga 19).
-
Đức
hiền từ, không báo oán:
Đức Giê-su đã nói: “Ta hiền từ và khiêm
nhường trong lòng” (x. Mt 11,29b). Ta biết loài người không lúc nào tỏ ra
gian ác, vô ơn, lếu láo đối với “Con Cha
Chí Ái, Đấng Cha sủng mộ” (x. Mt 3,17) bằng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh: Đức
Giê-su vốn dĩ là Đấng toàn năng, mà xem ra phải “chịu trận” trước những “con
rối” quá lếu láo trước mắt: chúng khạc nhổ vào mặt, giật râu, tát đến “phù mỏ”,
đánh đòn nát thân, rồi lột hết y phục để cho xấu hổ, chỉ còn lại thân xác trơ
trụi bầy nhầy đẫm máu. Lúc ấy:
-
Ngài
còn có đôi tay luôn ban ơn, thì chúng đã trả nghĩa bằng những chiếc đinh nhọn
dưới nhát búa đóng hằn học!
-
Ngài
còn có đôi chân đến với mọi người đau khổ để nâng đỡ ủi an, thì chúng bắt chéo
hai chân Ngài chồng lên, để đỡ tốn một chiếc đinh, ghim chặt hai chân Ngài vào
cây gỗ hết nhúc nhích.
-
Ngài
còn có cái đầu để suy nghĩ điều hay lẽ phải mà giảng dạy cho muôn dân, thì
chúng tết một vòng gai nhọn oan nghiệt rồi dấn trên đầu, chế nhạo “vua cỏ”,
“ngôn sứ dổm”.
-
Cuối
cùng Ngài chỉ còn trái tim luôn yêu thương hết mọi loại người, chúng cũng chọc
thủng ngoáy nát, để còn chút máu và nước làm cho tim đập, phải dốc ra hết. Tim
ngừng yêu!
Đức tin của Hội Thánh dạy chúng ta biểu lộ mỗi khi ta làm dấu
Thánh Giá: Đó không phải là dấu của sự “chịu vậy”, mà là dấu phấn đấu, không
thỏa hiệp với lối sống nghịch Tin Mừng. Đức Giê-su đã dùng dấu này để diễn tả
tình yêu cao nhất của Ngài, và Ngài đã lật ngược lại “bảng giá trị sự khôn ngoan của loài người”, bởi vì sự khôn ngoan của
loài người lại là điều nhờm tởm đối với Thiên Chúa (x. 1Cr 1,18-25).
Dấu Thánh Giá là sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa
trong chương trình cứu độ loài người qua đau khổ đến vinh quang (x. Lc 24,26;
Dt 9,22):
- Ngôi Cha: Tình yêu đóng
đinh.
- Ngôi Con: Tình yêu chịu
đóng định.
- Ngôi Thánh Thần: sức mạnh
vô song của thập giá.
Vậy thập giá là sự chọn lựa có ý thức theo ý Chúa Cha muốn
khắc ghi chân lý, tình thương vào lòng con người, để biến dữ ra lành. Thực vậy,
nguồn gốc của thập giá là dấu dữ, dùng để giết người theo ý muốn của đế quốc
Roma, nhưng vì người ta đã treo Đấng vô tội lên đó, thì dấu dữ ấy đã trở thành
dấu lành, mà ngày nay cả loài người dù tin hay không tin Thiên Chúa, ai cũng
lấy dấu thập giá làm dấu của tình thương, dấu của việc cấp cứu (dấu thập giá
nơi các bệnh viện, hoặc trên xe cứu thương).
Dầu sao đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm, mà mầu nhiệm thì
loài người không thể suy thấu, vì nó vượt quá trí khôn con người. Qua mạc khải,
Thiên Chúa cho chúng ta suy gẫm về sự đau khổ con người còn phải hứng chịu,
được minh chứng qua đời sống của ông Gióp:
Ông Gióp là người giàu có nhất trên thế gian, cũng là
người đạo đức nhất trên đời, Chúa lại ban cho ông được bảy trai ba gái, không
có một gia đình có những người con thông minh, khỏe mạnh và đạo đức như các con
của ông Gióp. Thế mà chỉ nội trong một ngày, Chúa cho phép satan tiêu diệt tất
cả tài sản cũng như con cái của ông Gióp. Trước thảm họa trút xuống bất ngờ
trên ông, Gióp ngửa mặt lên trời thưa với Chúa: “Con tạ ơn Chúa, Chúa đã ban cho
nay Chúa lại cất đi, xin chúc tụng danh Ngài” (G 1,21). Satan thấy ông
Gióp vẫn còn gân, nó lại xin phép Chúa cho nó có quyền làm hại thân xác Gióp.
Ngày hôm sau, satan đánh phạt Gióp lở loét từ gan bàn chân đến đỉnh đầu, ông
phải ngồi trên đống tro, lấy mảnh sành cạo máu mủ. Đau nhất lúc ấy, người vợ
lên tiếng chế nhạo đức tin của ông: “Ông
còn kiên quyết trong sự liêm chính của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên
Chúa rồi chết đi cho rồi”, nhưng ông bảo bà: “Bà nói như một mụ điên. Chúng ta nhận điều tốt lành từ Thiên Chúa, làm
sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” May thay chỉ còn có ba người
bạn của ông Gióp, họ nhìn ông trong đau khổ biết chia buồn và an ủi ông, họ cất
tiếng khóc ròng, mỗi người xé áo mình ra và rắc tro lên đầu, đoạn ngồi bệt
xuống bên cạnh ông trong bảy ngày đêm, không nói với ông được một lời, vì họ
thấy sự đau khổ của ông quá lớn! (x. G 2)
Nhưng từ chương 3 trở đi, ông Gióp
cảm thấy những đau khổ quá sức chịu đựng, nên ông bắt đầu rên la về kiếp người,
ông thưa với Chúa: “Phải chi tôi chết ngay trong bụng mẹ, đừng để tôi chào đời” (G
3,3.11). Điều này nói lên khả năng chịu đựng đau khổ của con người có giới hạn,
Chúa cũng thông cảm nên chẳng chấp, vì thế “Đức
Giê-su đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Ngài có thể cứu giúp những ai chịu
thử thách” (Dt 2,18), mãi đến chương 19, câu 25 ông Gióp mới mơ ước về một thế
giới Phục Sinh, nhờ đó giúp ông thêm nghị lực chịu đựng gian khổ, nhưng rồi ông
lại lên tiếng than… Thế mà Chúa vẫn im lặng trước đau khổ của ông, mãi đến
chương 38 Chúa mới lên tiếng trả lời cho ông về lý do Ngài để cho ông gặp đau
khổ. Và cuối sách Gióp, chương 42, câu 10 lúc đó ông Gióp mới lên tiếng cầu
nguyện cho các bạn, nhất là những người đang gặp đau khổ, thế là Chúa nhận lời
Gióp, ban lại cho ông tài sản gấp đôi thuở ban đầu: trước ông có 7.000 con
chiên, nay có 14.000 con; trước ông có 3.000 lạc đà, nay Chúa ban cho ông 6.000
con; trước bò và lừa mỗi loại có 500 con, nay ông lại có mỗi loại 1.000 con; và
đặc biệt vào tuổi già, sức lực hao mòn vì chịu quá nhiều đau khổ, thế mà Chúa
lại ban cho ông sinh mười người con khỏe mạnh, thông minh, xinh đẹp, ngoan hiền
hơn trước. Với niềm vui ấy, chắc chắn vượt lòng mơ ước của ông Gióp, và như thế
ông đã báo trước vinh quang của Chúa Ki-tô qua đau khổ, để Ngài chia phần chiến
thắng cho chúng ta, những kẻ vác thập giá theo Ngài hằng ngày.
THUỘC
LÒNG.
Nếu anh em làm việc lành và phải khổ mà
anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên
Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại
một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người (1Pr 2, 20-21).